Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

(Luận văn thạc sĩ) quyền con người và chủ quyền quốc gia trong luật quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 127 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN AN BÌNH

Qun con ng-êi vµ chđ qun qc gia
trong lt Qc tÕ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN AN BÌNH

Qun con ng-êi vµ chđ qun qc gia
trong lt Qc tÕ
Chun ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 60 38 01 08

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. LÊ VĂN BÍNH

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong bất kỳ cơng
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn An Bình


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN QUYỀN CON NGƢỜI ..................................................................9
1.1.

Trƣớc chiến tranh thế giới lần thứ 2 .........................................................9

1.1.1.

Lịch sử hình thành quyền con người .............................................................9


1.1.2.

Sự phát triển quyền con người với tư cách là một chế định của pháp
luật quốc tế ..................................................................................................11

1.2.

Trong chiến tranh thế giới thứ 2 ..............................................................12

1.3.

Từ chiến tranh giới lần thứ 2 đến nay .....................................................14

1.4.

Quyền con ngƣời trong pháp luật một số quốc gia ................................17

1.4.1.

Quyền con người trong Hiến pháp Nhật Bản ..............................................17

1.4.2.

Quyền con người trong Hiến pháp Trung Quốc .........................................20

1.4.3. Quyền con người theo Hiến pháp Balan 1997 ........................................ 23
1.4.4. Quyền con người theo Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam ............................................................................................ 26
Chƣơng 2: CÁC CƠ CHẾ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI THEO PHÁP

LUẬT QUỐC TẾ VÀ VẤN ĐỀ CHỦ QUYỀN QUỐC GIA ................32
2.1.

Sự hình thành và phát triển của ngun tắc tơn trọng chủ quyền
quốc gia trong Luật quốc tế ......................................................................32

2.1.1.

Khái niệm, lịch sử hình thành của ngun tắc tơn trọng chủ quyền
quốc gia .......................................................................................................32

2.1.2.

Tôn trọng chủ quyền quốc gia với tư cách là nguyên tắc cơ bản của
Luật quốc tế .................................................................................................33


2.2.

Cơ chế bảo vệ quyền con ngƣời theo hiến chƣơng của Liên hợp quốc ......39

2.3.

Cơ chế bảo vệ quyền con ngƣời theo một số công ƣớc quốc tế .............40

2.3.1.

Quyền dân sự chính trị trong Luật quốc tế ..................................................41

2.3.2.


Quyền kinh tế, xã hội, văn hóa trong Luật quốc tế .....................................46

2.4.

Cơ chế bảo vệ quyền con ngƣời ở cấp độ khu vực .................................48

2.5.

Cơ chế quốc gia bảo vệ nhân quyền ........................................................52

Chƣơng 3: CHỦ QUYỀN QUỐC GIA TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI
QUYỀN CON NGƢỜI: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP .............54
3.1.

Một số quan điểm về chủ quyền quốc gia và quyền con ngƣời
trong Luật quốc tế .....................................................................................54

3.1.1.

Quyền con người và chủ quyền quốc gia ....................................................54

3.1.2.

Quan điểm về trường hợp nhân quyền và chủ quyền chia sẻ......................59

3.2.

Mối quan hệ giữa bảo vệ quyền con ngƣời và bảo vệ chủ quyền
quốc gia ......................................................................................................63


3.2.1.

Những tác động của việc bảo vệ quyền con người đối với chủ quyền
quốc gia .......................................................................................................63

3.2.2.

Những tác động của việc bảo vệ chủ quyền quốc gia đối với quyền
con người .....................................................................................................67

3.2.3.

Một số ví dụ về quyền con người khi chủ quyền quốc gia bị xâm phạm .......69

3.3.

Tầm quan trọng của quyền con ngƣời và chủ quyền quốc gia
tại Việt Nam ..............................................................................................82

3.3.1.

Chủ quyền quốc gia là tối thượng ...............................................................82

3.3.2.

Quyền con người ở Việt Nam – một quốc gia có chủ quyền ......................92

3.4.


Một số kiến nghị với Việt Nam ...............................................................101

3.4.1.

Cần thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia Việt Nam ............................101

3.4.2.

Khuyến nghị gia nhập các điều ước quốc tế về nhân quyền .....................108

3.4.3.

Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách nhân quyền ..................110

KẾT LUẬN ............................................................................................................115
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................117


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ASEAN

Association of Southeast Asian

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

Natinons
CRC

Convention on the Rights of the child


CEDAW

Convention on the Elimination of all Công ước quốc tế về xóa bỏ các hình
Forms of Discrimination against

Cơng ước về quyền của Trẻ em
thức phân biệt đối xử với phụ nữ

Women
CAT

Convention against Torture and

Công ước chống tra tấn và các hình

Other Cruel, Inhuman or Degrading

thức trừng phạt và đối xử tàn bạo, vô

Treatment or Punishment

nhân đạo hay hạ nhục khác

EU

European Union

Liên minh châu Âu

ICCPR


International Covenant on Civil and

Công ước Quốc tế về các Quyền Dân

Political Rights

sự và Chính trị

Inter-American Commission on

Ủy ban Quyền con người châu Mỹ

IACHR

Human Rights
ICERD

International Convention on the

Cơng ước xóa bỏ mọi hình thức phân

Elimination of Racial Discrimination biệt chủng tộc
ICESCR

International Covenant on Economic,

Công ước Quốc tế về các Quyền

Social and Cultural Rights


Kinh tế, Xã hội và Văn hóa

ILO

International Labour Organization

Tổ chức Lao động quốc tế

NGO

non-governmental organization

Tổ chức phi chính phủ

NHRCT

National Human Rights Commission Ủy ban nhân quyền quốc gia Thái Lan
of Thailand

SUHAKAM Malay: Suruhanjaya Hak Asasi
UDHR

Ủy ban nhân quyền quốc gia

Malaysia

Malaysia

Universal Declaration of Human


Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền

Rights


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hai vấn đề không thể tách rời của một đất nước là quyền con người và chủ
quyền quốc gia. Trong bối cảnh toàn cầu hóa thì lĩnh vực này lại càng trở nên quan
trọng. Chủ quyền quốc gia là tối cao, bất khả xâm phạm, mỗi quốc gia đều bình
đẳng và có quyền quyết định mọi phương diện: chính trị, an ninh, quốc phịng,
ngoại giao, kinh tế, văn hóa xã hội… và được đảm bảo toàn vẹn, đầy đủ về mọi mặt,
cả hành pháp, lập pháp lẫn tư pháp của quốc gia đó trong phạm vi lãnh thổ của quốc
gia mình. Tuy nhiên, việc hội nhập kinh tế thế giới nếu khơng có những giải pháp
đúng đắn thì chủ quyền quốc gia sẽ bị xâm phạm. Hiện tại ta vẫn nhận thấy rằng
một số ít quốc gia có nền kinh tế vững mạnh đang giương cao ngọn cờ nhân quyền,
lợi dụng can thiệp nhân đạo và chống khủng bố để thao túng các quốc gia khác
nhằm đạt được những lợi ích cục bộ.
Các quốc gia hội nhập hợp tác thì sẽ phát triển kinh tế, xã hội, tuy nhiên nó
cũng kéo theo nhiều mặt trái mà bản thân quốc gia đó khơng mong muốn như: an
ninh quốc phòng, kinh tế, và đặc biệt là vấn đề nhân quyền. Làm thế nào để giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc nhưng lại khơng để đó là cái cớ để ngoại bang can thiệp vào
chủ quyền quốc gia? Làm thế nào để chống lại những luồng văn hóa tư tưởng trái với
chính sách phát triển, chế độ chính trị đặc thù của mỗi quốc gia? Tham gia vào q
trình hội nhập quốc tế và tồn cầu hóa, các quốc gia có phải chấp nhận giới hạn
quyền lực riêng của mình trên một số lĩnh vực. Vậy chủ quyền và nhân quyền trên thế
giới sẽ có mối quan hệ tác động qua lại như thế nào? Cái nào quan trọng hơn? Làm
thế nào để bảo vệ chủ quyền và quyền con người? Có hay khơng vấn đề chủ quyền
quốc gia đang bị thuyết nhân quyền cao hơn chủ quyền “thay đổi, thu hẹp”, “mài

mòn”? Các quốc gia cần phải có những giải pháp gì để đảm bảo hai vấn đề nêu trên?
Với những quan điểm về mối quan hệ giữa chủ quyền quốc gia và quyền con
người và và tầm quan trọng của chúng, người nghiên cứu đã phần nào đưa ra cái
nhìn tổng quan về hai vấn đề này theo pháp luật quốc tế, từ đó có sự nhìn nhận đánh

1


giá chung về lý luận cũng như một số thực tiễn về bảo vệ chủ quyền quốc gia và
quyền con người theo pháp luật quốc tế hiên nay. Nhận thức được tầm quan trọng
và tính thời sự của vấn đề này, học viên đã mạnh dạn chọn đề tài đề tài: “Quyền con
người và chủ quyền quốc gia trong luật Quốc tế” để làm luận văn thạc sĩ luật học
với mục đích nhằm hệ thống lại những vấn đề lý luận chung nhất của pháp luật quốc
tế đối với hai lĩnh vực nêu trên, đồng thời đưa ra những quan điểm, thơng qua những
ví dụ thực tiễn của một số nước trên thế giới, góp phần đưa ra những giải pháp thúc
đẩy việc thực hiện quyền con người và chủ quyền quốc gia ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nƣớc liên quan đến đề tài
Vấn đề quyền con người và chủ quyền quốc gia đang thu hút được sự chú ý
của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Trước hết thấy rằng vấn đề này
thường xuyên nghiên cứu trong việc giảng dạy tại các giáo trình về pháp luật về
quyền con người và nhất là ngành Luật quốc tế trong các học viện, nhà trường. Ví dụ,
trong “Giáo trình Cơng pháp quốc tế” của Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội do
PGS.TS Nguyễn Bá Diến chủ biên (2013) đã dành riêng chương 6 để nói về luật nhân
quyền quốc tế; chương 3, chương 11 nói về chủ quyền quốc gia. Giáo trình đã hệ
thống ngắn gọn, tương đối đầy đủ về pháp luật quốc tế về quyền con người và một số
vấn đề cơ bản nhất về chủ quyền quốc gia;
Vấn đề về quyền con người ở Việt Nam đã được nghiên cứu trong nhiều cơng
trình nghiên cứu khoa học khác nhau. Ví dụ như: Giáo trình lý luận và pháp luật về
quyền con người, do tập thể tác giả: Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao và Lã Khánh
Tùng đồng biên soạn, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, 2009; Quyền con người,

Tài liệu chuyên đề của Liên hợp quốc, sách tham khảo, Khoa Luật, Đại học quốc gia
Hà Nội, NXB Công an nhân dân, 2010; Quyền con người. Tập hợp những bình
luận/khuyến nghị chung của Ủy ban Công ước Liên hợp quốc, sách tham khảo, Khoa
Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, NXB Công an nhân dân, 2010; Kỷ yếu Hội thảo về
“Cơ quan quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, Khoa Luật, Đại học quốc
gia Hà Nội, 2009; Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật quốc tế, Đề tài nghiên
cứu khoa học của Nguyễn Bá Diến và Hoàng Ngọc Giao, Khoa Luật, Đại học quốc

2


gia Hà Nội, 2006; Các điều kiện đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong sự
nghiệp đổi mới đất nước, đề tài nghiên cứu khoa học do Hoàng Văn Hảo làm chủ
nhiệm; Luật quốc tế về quyền của nhóm người dễ bị tổn thương, Sách chuyên khảo,
Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, NXB Lao động-Xã hội, 2010; Hỏi đáp về
quyền con người, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, 2012; Giới thiệu văn kiện
quốc tế về quyền con người; và Hỏi đáp về quyền con người, Trung tâm nghiên cứu
quyền con người - quyền công dân, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, 2011; Kỷ
yếu Hội thảo về “Cơ quan quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, Khoa
Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, 2009; Tư tưởng về quyền con người (Tuyển tập tư
liệu Thế giới và Việt Nam), Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, NXB Lao động Xã hội, 2011; Luật nhân quyền quốc tế - Những vấn đề cơ bản, Khoa Luật, Đại học
quốc gia Hà Nội, NXB Lao động - Xã hội, 2011; Các văn bản Công pháp quốc tế và
văn bản pháp luật Việt Nam có liên quan, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, NXB
Chính trị quốc gia, 2006; Quốc hội Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người,
Tưởng Duy Kiên, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2006; Dân chủ và pháp luật dân chủ, của
Ngô Huy Cương, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2006; Quyền con người trong Hiến pháp
năm 2013: Quan điểm mới cách tiếp cận mới và các quy định mới, Viện Khoa học
pháp lý, Bộ Tư pháp, NXB Sự thật, Hà Nội, 2014; v.v...
Các bài viết đã được đăng trên các tạp chí khoa học chun ngành có liên
quan đến quyền con người, ví dụ như: Quyền con người, quyền cơng dân của Hồng

Văn Hảo và Chu Thành, đăng trên Tạp chí Cộng sản số 5/1993; Hiến pháp Việt Nam
và vấn đề quyền con người, quyền công dân, Sách Quyền con người: Lý luc đối tác, các tổ chức quốc tế chính là nền tảng để chúng ta tham
gia một cách chủ động, tích cực, thực chất và có hiệu quả tại các diễn đàn đa
phương, cũng như trong các cuộc đối thoại, tiếp xúc liên quan đến quyền con người.
Ở cấp độ quốc tế, Việt Nam hiện là thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên
hợp quốc từ tháng 12-2013. Việt Nam thể hiện trách nhiệm và sự tích cực trong các
hoạt động của Hội đồng; mặt khác, đã có nhiều đổi mới và đạt được nhiều thành tựu
về nhân quyền cả ở bình diện đối nội và đối ngoại, được thế giới thừa nhận.
Hội đồng Nhân quyền là cơ quan chịu trách nhiệm chính và quan trọng nhất
của Liên hợp quốc trong việc thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền trên thế giới. Hội đồng
gồm 47 quốc gia thành viên, đại diện cho tất cả các khu vực, được bầu với nhiệm kỳ
03 năm. Việc Việt Nam lần đầu tiên trúng cử thành viên Hội đồng Nhân quyền của
Liên hợp quốc không chỉ khẳng định Đảng và Nhà nước ta đạt được những thành
tựu to lớn trong việc bảo đảm nhân quyền trong nước, mà cịn có những đóng góp
quan trọng trong thúc đẩy quyền con người trong khu vực và trên thế giới. Thế và
lực của Việt Nam trong việc bảo đảm nhân quyền đã được thế giới thừa nhận. Chỉ
trong một năm, chúng ta đã tham gia hàng trăm cuộc họp chính thức, hàng trăm
cuộc tham vấn ở Hội đồng Nhân quyền; thương lượng, bỏ phiếu gần 200 nghị
quyết, quyết định liên quan đến các khía cạnh khác nhau của quyền con người [14].
Dù là thành viên mới của Hội đồng Nhân quyền, song Việt Nam đã luôn thể
hiện tinh thần trách nhiệm cao trong các công việc chung của Hội đồng, đóng góp
tích cực trên các lĩnh vực thuộc quan tâm của các nước đang phát triển như việc bảo
đảm quyền của các nhóm dễ bị tổn thương, vấn đề lương thực, sức khỏe, nước sạch…
Thời điểm chúng ta bắt đầu nhiệm kỳ thành viên Hội đồng Nhân quyền cũng
là lúc Việt Nam chuẩn bị báo cáo trước Hội đồng theo cơ chế rà soát định kỳ phổ
quát (UPR) lần thứ hai (tháng 2/2014). Với sự chuẩn bị kỹ lưỡng và phối hợp chặt
chẽ của nhiều bộ, ngành, đã giúp cộng đồng quốc tế nhìn thấy một Việt Nam luôn
nghiêm túc trong thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người, luôn lắng
nghe, tiếp thu đóng góp của bạn bè quốc tế, và ln nỗ lực hết mình để người dân
Việt Nam được hưởng ngày càng tốt hơn các khía cạnh của quyền con người.

Không chỉ ở Hội đồng Nhân quyền, sự chủ động của chúng ta còn được thể hiện
94


trong các diễn đàn khác có liên quan đến quyền con người, như ở Đại hội đồng Liên
Hợp Quốc, Ủy ban Phát triển xã hội và Ủy ban Địa vị phụ nữ (thuộc Hội đồng Kinh
tế - Xã hội của Liên Hợp Quốc), Tổ chức Lao động quốc tế…
Thứ hai, tầm quan trọng của quyền con người và chủ quyền quốc gia tại
luôn được quan tâm đặc biệt tại Việt Nam. Từ những phân tích ở trên và với việc
nhất trí thơng qua Nghị quyết “Luật pháp quốc tế vấn đề chủ quyền quốc gia không
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và quyền con người" trong khuôn khổ hoạt
động của IPU-132 ngày 30/3/2015 tại Hà Nội, Việt nam đã tái khẳng định: bình
đẳng chủ quyền của các quốc gia là cơ sở cho hợp tác quốc tế và là nhân tố quan
trọng của sự ổn định, nhấn mạnh trách nhiệm của tất cả các Quốc gia, phù hợp với
Hiến chương Liên Hợp Quốc trong việc tôn trọng quyền con người và các quyền tự
do cơ bản cho mọi người, khơng phân biệt dưới bất kỳ hình thức nào về chủng tộc,
sắc tộc, màu da, giới tính, ngơn ngữ, tơn giáo, chính trị hay các quan điểm khác,
nguồn gốc quốc gia hay xã hội; quyền con người phải là yếu tố căn bản của cuộc
sống ngày nay. Luật pháp quốc tế và chủ quyền quốc gia phải luôn ln lấy quyền
con người làm trung tâm. Trong đó nhấn mạnh quyền phụ nữ, quyền những người tị
nạn và quyền trẻ em [44].
Trong q trình thảo luận trước đó, dự thảo Nghị quyết Luật pháp quốc tế
trong vấn đề chủ quyền quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và
quyền con người đã được soạn thảo từ Đại hội đồng IPU-131, nhưng đã không được
thông qua do các quốc gia có nhiều quan điểm khác nhau, có quốc gia đề cao luật
pháp quốc tế, có nước đề cao chủ quyền quốc gia, có quốc gia đề cao quyền cao
người, có quốc gia lại khơng đặt trong quan hệ tương hỗ giữa 3 yếu tố luật pháp
quốc tế, chủ quyền quốc gia và quyền con người nên có những quan điểm khó dung
hịa, các nước muốn đề cao cơng cụ luật pháp quốc tế, có nước lại đề cao chủ quyền
quốc gia. Tuy nhiên tại Đại hội đồng IPU-132 nghị quyết này đã được thông qua,

như vậy thấy rằng các nước thành viên đã có sự dung hịa về vấn đề nhân quyền và
chủ quyền. Nói cách khác, nhân quyền và chủ quyền được đặt trong mối quan hệ
song song, hỗ trợ nhau cùng phát triển.
Việt Nam không đề cao chủ quyền tuyệt đối theo quan điểm của Niceolo

95


Machiavelli (1469-1527). Trường hợp này chủ quyền quốc gia là tuyệt đối trong
phạm vi lãnh thổ quốc gia, phải được đặt trên mọi quyền lực khác. Nghĩa là trong
phạm vi lãnh thổ của mình, một quốc gia dân tộc có quyền làm mọi điều bất chấp
các quốc gia khác, và để tăng cường quyền lực của mình,quốc gia có thể sử dụng tất
cả các phương thức chính sách khác nhau, kể cả việc sử dụng thủ đoạn. Việt Nam
cũng không chấp mọi yêu sách của các thế lực ngoại bang để đổi lấy nhân quyền
bằng mọi giá. Chúng ta ủng hộ quan điểm của J.J Rousseau, ông cho rằng chủ
quyền quốc gia dân tộc đồng nghĩa với độc lập của quốc gia đó và được thể hiện ở
ba đặc tính: Quyền lực tồn vẹn (Một quốc gia có quyền can thiệp vào mọi lĩnh vực
có lợi cho sự phát triển tồn tại của dân tộc); Quyền lực chuyên biệt (chủ quyền quốc
gia dân tộc phải độc quyền trên toàn bộ lãnh thổ của mình, trừ trường hợp quốc gia
đó muốn tự hạn chế độc quyền này bởi những cam kết quốc tế với nước ngoài và
các tổ chức quốc tế); Quyền lực tự chủ: chủ quyền quốc gia phải tự chủ, không phụ
thuộc vào quốc gia nào trong quan hệ đối nội và đối ngoại [52]. Có như vậy Việt
Nam mới bảo vệ được chủ quyền quốc gia một cách toàn vẹn và quyền con người
theo đúng nghĩa của luật pháp quốc tế.
Nếu bảo vệ chủ quyền một cách tiêu cực theo quan điểm của Niceolo
Machiavelli thì đó là một nhà nước độc tài. Về một khía cạnh nào đó, quyền con
người bị xâm hại nghiêm trọng. Để bảo vệ chủ quyền của mình quốc gia ấy sẵn sàng
làm mọi điều bất chấp quốc gia khác, không quan tâm đến quyền con người của qc
gia khác. Ví dụ: Để đảm bảo cuộc sống cơng dân nước mình, quốc gia đã bắt công
dân nước khác làm nô lệ; bảo vệ công dân nước mình, khơng quan tâm đến cơng dân

nước khác trong tố tụng dẫn đến vi phạm quyền bình đẳng trước pháp luật và được
pháp luật bảo vệ bình đẳng theo quy định của pháp luật Nhân quyền quốc tế; để bảo
vệ quyền lợi cho một nhóm người, quốc gia đó cấm cơng dân đi lại, cư trú tự do, cấm
tín ngưỡng tơn giáo; vì những chính sách bảo vệ chủ quyền độc đốn, quốc gia đó có
thể vi phạm nghiêm trọng quyền con người như: cấm tự do hội họp, phát biểu ý kiến;
các vấn đề về tự do việc làm, văn hóa, giáo dục đều bị xâm phạm…
Nếu bất chấp mọi giá để đổi lấy nhân quyền thì đó cũng là cách lựa chọn tiêu

96


cực. Ngày nay dưới chiêu bài kinh tế, các nước đế quốc lợi dụng vấn đề này để tìm
kiếm những sự “trao đổi”. Áp đặt nhân quyền của nước mình lên sự phát triển nhân
quyền, quyền con người của nước khác là hồn tồn sai lầm, chưa nói tới việc áp
dụng này vì mục tiêu chính trị khác là nơ dịch đất nước buộc phải trao đổi. Bởi mỗi
nước có chế độ chính trị, lịch sử phát triển, kinh tế, xã hội khác nhau nên sự áp đặt
này chính là hành vi xâm phạm chủ quyền.
Do đó, Việt Nam nhất trí thơng qua Nghị quyết: Luật pháp quốc tế vấn đề
chủ quyền quốc gia không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và quyền con
người, trong khuôn khổ hoạt động của IPU-132 ngày 30/3/2015 tại Hà Nội là minh
chứng cho con đường, đường lối bảo vệ, phát triển quyền con người và chủ quyền
quốc gia. Ở Việt Nam không cái nào cao hơn cái nào, bởi mỗi vấn đề có một tầm
quan trọng khác nhau. Vấn đề bảo vệ chủ quyền quốc gia là tiên quyết, là bất khả
xâm phạm và đó cũng là tuân theo pháp luật quốc tế. Bảo vệ quyền con người thực
chất cũng là tuân thủ đầy đủ luật pháp quốc tế và đồng thời đó cũng là để bảo vệ
chủ quyền tồn vẹn lãnh thổ. Có bảo vệ được chủ quyền thì các quyền con người cơ
bản về dân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa mới được bảo đảm. Một quốc gia có được
chủ quyền thì mới có tồn quyền quyết định các chính sách đối nội, đối ngoại của
mình. Lịch sử cho thấy, nếu không bị chi phối bởi các thế lực ngoại bang thì các
nhà nước, các quốc gia đều duy trì lợi ích chung của xã hội, hay nói các khác là đảm

bảo nhân quyền nhằm duy trì sự tồn vong của chế độ. Bên cạnh đó phải hội nhập
quốc tế một cách hợp lý nhằm đảm bảo quyền con người ngày càng phát triển. Đó
cũng là sự lựa chọn đúng đắn của Việt Nam trong mối quan hệ giữa quyền con
người và chủ quyền quốc gia.
Thứ ba, bởi có sự quan tâm đúng đắn về vấn đề này, hiện tại Việt nam đã có
những thành tựu đáng kể về nhân quyền và chủ quyền quốc gia sau đây.
Về bảo đảm quyền con người, Nhà nước Việt Nam đã đạt được những thành
quả quan trọng. Việc bảo đảm quyền tự do ngơn luận, báo chí ở Việt Nam được
người dân và các tổ chức quốc tế của Liên hợp quốc đánh giá là đã đạt những thành
quả đầy ấn tượng. Tính đến tháng 12-2013, Việt Nam có 199 cơ quan báo, 639 tạp

97


chí, 4 đài phát thanh, truyền hình Trung ương, 67 đài phát thanh, truyền hình địa
phương với 148 kênh truyền hình. Đội ngũ nhà báo tăng đáng kể với gần 17.000
người hoạt động báo chí được cấp Thẻ Nhà báo. Cùng với đó, người dân Việt Nam
đã được tiếp cận với 75 kênh truyền hình nước ngồi, trong đó có những kênh được
phát rộng rãi trên thế giới, như: CNN, BBC, Bloomberg, TV5, DW, NHK, KBS,
Australia Network,... Các hãng thông tấn và báo chí lớn của thế giới đến với người
dân Việt Nam thông qua in-tơ-nét, như: Reuters, BBC, VOA, AP, AFP, CNN,
Kyodo, Economist, Financial Times,... Điều đó, tạo điều kiện cho người dân có
nhiều cơ hội lựa chọn, tiếp nhận thông tin, tri thức (năm 2012, số hộ gia đình được
nghe đài phát thanh, được xem truyền hình đều là 99,5%, số người sử dụng in-tơnét chiếm 35% dân số, đạt 3,4 đầu sách/người/năm), qua đó góp phần rút ngắn
khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền. Đồng thời, báo chí đã trở
thành diễn đàn ngơn luận của các tổ chức xã hội, tiếng nói của nhân dân; cơng cụ
quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của xã hội, các quyền tự do của nhân dân và
cơng tác kiểm tra, giám sát việc thực thi chính sách, pháp luật của Nhà nước, trong
đó có cơ quan nhân quyền. Vừa qua, kênh truyền hình An ninh nhân dân (ANTV)
đã có cả một chuyên mục về quyền con người, phát mỗi tuần một lần, phản ảnh một

cách trung thực việc bảo đảm quyền con người ở Việt Nam. Gần đây, tại chùa Bái
Đính (tỉnh Ninh Bình) đã diễn ra Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc - Vesak 2014, với
hơn 1.500 đại biểu chính thức đến từ 95 quốc gia, vùng lãnh thổ và hàng vạn tăng
ni, phật tử Việt Nam tham dự. Điều này là minh chứng thuyết phục cho việc Việt
Nam luôn tôn trọng và bảo đảm cho mọi người dân thực hiện quyền tự do tín
ngưỡng, tơn giáo khơng chỉ bằng Hiến pháp, pháp luật mà còn cả trong thực tế [5].
Trong bối cảnh kinh tế thế giới suy thoái, Việt Nam vẫn vươn lên trong lĩnh
vực xóa đói giảm nghèo. Theo đánh giá của Oxfam - tổ chức phi chính phủ quốc
tế hoạt động trong lĩnh vực xóa đói giảm nghèo, Việt Nam đã đạt được những thành
tựu đáng kể trong lĩnh vực xây dựng chính sách, pháp luật và trong thực tiễn. Tính
đến hết tháng 3-2014, Việt Nam đã ban hành 501 văn bản pháp luật chính sách liên
quan đến giảm nghèo, trong đó có 188 văn bản đang có hiệu lực,... Với nhiều

98


phương thức vì dân, được thực hiện chủ động, sáng tạo, đến nay, tỷ lệ nghèo đói ở
Việt Nam đã giảm từ 58% năm 1992 xuống còn 7,6% cuối năm 2013. Cùng với đó,
nhóm xã hội dễ bị tổn thương, trong đó có trẻ em, phụ nữ, người cao tuổi,... được
Nhà nước và xã hội quan tâm đặc biệt. Trong nhiều năm qua, Nhà nước đã xây
dựng và triển khai “Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em”, với mục tiêu: xây
dựng mơi trường sống an tồn, thân thiện, lành mạnh; từng bước giảm khoảng cách
chênh lệch về điều kiện sống giữa các nhóm trẻ em và trẻ em giữa các vùng miền;
nâng cao chất lượng cuộc sống và tạo cơ hội phát triển bình đẳng cho mọi trẻ
em. Việt Nam là một trong các nước sớm ký kết và phê chuẩn Cơng ước của Liên
hợp quốc về xóa bỏ các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (CEDAW) và
trên thực tế đã đạt được một số thành tựu quan trọng trong việc thúc đẩy quyền phụ
nữ; trong đó, có xây dựng Luật Bình đẳng giới (năm 2006); “Chiến lược quốc gia
về bình đẳng giới”,… Bộ luật Lao động sửa đổi (6-2012), quy định tăng thời gian
nghỉ thai sản của lao động nữ từ 04 tháng lên thành 06 tháng. Có thể khẳng định

rằng, ở Việt Nam, vai trị, vị trí của phụ nữ ngày càng được nâng cao. Tỷ lệ nữ tham
gia Quốc hội khóa XIII (2011 - 2016) đạt 24,4%, đưa Việt Nam nằm trong nhóm
nước có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội cao ở khu vực và thế giới (đứng thứ 43/143 nước
trên thế giới và thứ 02 trong ASEAN). Theo thống kê năm 2011, Việt Nam chính
thức bước vào giai đoạn già hóa dân số với tỷ trọng người trên 65 tuổi đạt 7% tổng
dân số, sớm hơn dự báo 06 năm. Năm 2009, Nhà nước ta đã ban hành Luật Người
cao tuổi. Năm 2012, Việt Nam có Chương trình Quốc gia về người cao tuổi. Đến
nay, công tác bảo vệ và chăm sóc người cao tuổi đã được Nhà nước, gia đình và xã
hội quan tâm đặc biệt. Nhiều cơ quan, tổ chức đã có sáng kiến thiết thực chăm sóc,
giúp đỡ người cao tuổi, như: chương trình “Mắt sáng cho người cao tuổi” do Trung
ương Hội Người cao tuổi Việt Nam phối hợp với Bộ Y tế tổ chức thực hiện và đã
khám, tư vấn miễn phí các bệnh về mắt cho trên 1,5 triệu người cao tuổi, với kinh
phí gần 237 tỷ đồng [5].
Cùng với những thành tựu về bảo đảm quyền con người ở trong nước, với tư
cách là quốc gia, nhất là thành viên của Hội đồng nhân quyền của Liên hợp

99


quốc, Việt Nam đã thực hiện nghiêm các nghĩa vụ quốc tế trên lĩnh vực quyền con
người. Việt Nam đã nộp đầy đủ các báo cáo về các công ước mà Việt Nam đã tham
gia, như: Báo cáo quốc gia thực hiện Cơng ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt
chủng tộc (ICERD); Báo cáo quốc gia thực hiện Công ước về quyền của Trẻ em
(CRC); Báo cáo quốc gia thực hiện Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội
và văn hóa (ICESCR); Báo cáo quốc gia về tình hình thực hiện Cơng ước quốc tế về
xóa bỏ các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW),… Hiện nay, Việt
Nam tiếp tục nghiên cứu, ký kết và đang xem xét tham gia một số công ước quốc tế
về nhân quyền khác. Với tinh thần cầu thị, Việt Nam sẵn sàng đối thoại, hợp tác với
các cơ chế của Liên hợp quốc và nhiều quốc gia về quyền con người. Tháng 7-2010
– 11-2011, Việt Nam đã đón bốn thủ tục đặc biệt của Hội đồng nhân quyền của

Liên hợp quốc. Việt Nam đã gửi lời mời chính thức tới Báo cáo viên đặc biệt về
quyền giáo dục và Báo cáo viên đặc biệt về quyền lương thực. Tháng 11-2013, Việt
Nam đã đón báo cáo viên đặc biệt về quyền văn hóa. Hiện nay, Việt Nam đang và
sẽ xem xét mời báo cáo viên đặc biệt về tự do tơn giáo, tín ngưỡng,… Trong phạm
vi khu vực, Việt Nam đã có những đóng góp tích cực trong việc thành lập Ủy ban
liên Chính phủ ASEAN về nhân quyền (AICHR). Đến nay, Việt Nam đã thiết lập
các cơ chế đối thoại song phương thường kỳ về quyền con người với một số nước
và đối tác, như: Mỹ, EU, Úc, Na Uy, Thụy Sỹ [5].
Theo cơ chế của Hội đồng nhân quyền, Liên hợp quốc, tất cả các quốc gia có
trách nhiệm đệ trình “Báo cáo quốc gia theo cơ chế rà soát Định kỳ phổ quát
(UPR)” lên Hội đồng. Sau gần 05 tháng kể từ khi Việt Nam bảo vệ thành công Báo
cáo quốc gia theo cơ chế UPR của Hội đồng nhân quyền, Liên hợp quốc, khóa 26
(ngày 07-02-2014), tại phiên họp của Nhóm làm việc về UPR của Hội đồng tại Giơne-vơ, Thụy sĩ, ngày 20-6-2014, Hội đồng đã chính thức thơng qua UPR (chu kỳ II)
của Việt Nam. Trong phiên họp lần thứ 18 của nhóm làm việc về UPR ngày 05-022014, Việt Nam đã có một cuộc đối thoại tích cực và xây dựng với 106 quốc gia và
nhận được tổng cộng 227 khuyến nghị. Trong đó, Việt Nam đã chấp nhận 182
khuyến nghị, chiếm 80,17%. Xuất phát từ bản chất của chế độ Xã hội chủ nghĩa, với

100


tư cách là thành viên của Hội đồng nhân quyền, Việt Nam đã nhanh chóng thành lập
nhóm cơng tác liên bộ để xem xét, xử lý kịp thời tất cả các ý kiến và khuyến nghị từ
các quốc gia khác nhau. Chính phủ Việt Nam đã thơng qua báo cáo toàn diện về
danh sách các khuyến nghị chấp nhận và đã giao 13 bộ ngành và các cơ quan Chính
phủ liên quan với nhiệm vụ cụ thể nhằm thực hiện các khuyến nghị đó. Điều này
được cộng đồng quốc tế đánh giá rất cao [5].
Ngày nay, cộng đồng quốc tế đánh giá thành tích bảo đảm quyền con người
khơng chỉ dựa vào báo cáo “định tính” của các quốc gia, mà cịn thơng qua số liệu,
các phiên bảo vệ báo cáo quốc gia và sự giám sát của các Báo cáo viên đặc biệt của
Liên hợp quốc. Cho nên, những nỗ lực và thành tựu to lớn của Việt Nam trên lĩnh

vực nhân quyền với tư cách là thành viên Hội đồng nhân quyền của Liên hợp quốc
là không thể phủ nhận. Việt Nam hoàn toàn xứng đáng là thành viên Hội đồng nhân
quyền của Liên hợp quốc của Liên hợp quốc [5]. Mọi luận điệu đi ngược lại
những điều trên đều không thể đánh lừa được nhân dân ta, cộng đồng quốc tế và
nhất định sẽ bị bác bỏ.
3.4. Một số kiến nghị với Việt Nam
3.4.1. Giải pháp nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia
Các biện pháp trong lĩnh vực ngoại giao. Hội nhập sẽ tạo nhiều cơ hội to lớn
cho đất nước phát triền, nhưng cũng đồng thời là thách thức lớn nếu ta chưa có một
nội lực đủ mạnh. Chúng ta phải có một chiến lược ngoại giao tích cực, chủ động, da
phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ, làm bạn với tất cả các quốc gia trên thế
giới trên cơ sở tôn trọng quyền bình đẳng, đóng góp tích cực cho hịa bình và phát
triển của cả nhân loại.Chúng ta cần nhận thức rõ mối nguy chung này để biến thành
những nội lực mạnh mẽ của Việt Nam, trước hết là tinh thần hội nhập, tinh thần
đoàn kết, sau là nhiệm vụ phải nhanh chóng nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh
tế nước nhà, song song với việc phát triển văn hóa – xã hội, nhằm tạo ra một mơ
hình phát triển nhanh, mạnh, hài hòa và bền vững mà những thành tựu ngoại giao
của Việt Nam gần đây là ví dụ sinh động. Các nước có nền kinh tế mạnh như Trung
Quốc, Mỹ, Tây Âu… thường dùng những ưu đãi của quá trình hội nhập tồn cầu

101


hóa để mặc cả cho tham vọng chính trị của chính mình. Chúng ta cần phải có chính
sách đúng đắn, thúc đầy các mối quan hệ kinh tế với những nước này nhưng ln
phải cứng rắn, cương quyết khơng vì lợi ích trước mắt mà sao nhãng việc giữ vững
ổn định chính trị và chủ quyền quốc gia.
Các biện pháp trong lĩnh vực quốc phịng, an ninh chính trị. Đối với việc xây
dựng và củng cố nền quốc phịng tồn dân thích ứng với điều kiện hội nhập quốc tế.
Tiếp tục nâng cao nhận thức cho nhân dân, cho các lực lượng vũ trang để hiểu một

cách sâu sắc lịch sự, niềm tự hào dân tộc, để mỗi người dân có thêm sưc mạnh,
niềm tin trong cuộc sống “n bình” nhưng khơng kém phần gay go, quyết liệt. Bên
cạnh đó, hội nhập kinh tế quốc tế là một “cuộc chơi” chứa nhiều rủi ro, thách thức,
trước hết phải hiểu “luật chơi”, phải hiểu thế giới, có chiến lược và sự chuẩn bị về
nội lực, biết sử dụng tiềm năng và lợi thế trong quan hệ đa phương.
Trong quan hệ kinh tế thương mại, đặc biệt là trong quốc phịng, ln phải
cân nhắc, so sánh chọn lựa những mục tiêu và phương tiện, nguyên tắc và phương
pháp, tình thế trước mắt và chiến lược lâu dài. Trên phạm vi quốc gia, mục tiêu của
hội nhập là đạt hiệu quả kinh tế, chính trị, xã hội. Trong mỗi chính sách kinh tế phải
tính tốn đến các yếu tố an ninh, quốc phịng. Trong một số lĩnh vực, đầu tư cho an
ninh, quốc phòng là đầu tư cho kinh tế, nhất là kết cấu hạ tầng, bảo vệ chủ quyền,
tài nguyên quốc gia, bảo về các giá trị truyền thống văn hóa.
Ngồi ra cũng cần phải nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống quan niệm
về chủ quyền quốc gia trong thời kỳ tồn cầu hóa,phân biệt với chủ quyền quốc gia
theo quan niệm truyền thống, trên cơ sở đó đề ra giải pháp thích ứng. Định dạng
một cách cụ thể vai trị, vị trí, khn khổ hợp tác từng tổ chức đa phương, từng
quan hệ song phương và tác động của nó đối với yêu cầu bảo vệ Tổ quốc bằng khả
năng kết hợp chặ chẽ giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh với đối ngoại. Đây là cơ
sỏ để lựa chọn đối tác có khả năng đem lại sự phát triển kinh tế dân tộc và tạo thế
ràng buộc lẫn nhau về địa- chính trị, trên cơ sở đó ngăn ngừa khả năng xung đột,
chiến tranh, giữ vững môi trường hịa bình, ổn định để phát triển đất nước. Cần dự
báo được xu hướng vận động của cơ cấu xã hội, cơ cấu dân cư từng khu vực ở thời

102


kỳ “hậu WTO” để bố trí khu vực phịng thủ chiến lược một cách hợp lý, nhất là ở
các khu cơng nghiệp mới hình thành và các trung tâm đơ thị có quan hệ kinh tế mở
với thế giới.
Tăng cường giáo dục ý thức quốc phịng tồn dân cho nhân dân, khơng

ngừng giáo dục truyền thống u nước, lịng tự hào dân tộc, tăng cường sức mạnh
chính trị của các lực lượng vũ trang bằng những hình thức, phương pháp uyển
chuyển, phù hợp.
Đối với vấn đề giữ vững ổn định an ninh chính trị. Việt Nam có một nền
chính trị ổn định đây là một thuận lwoij to lớn của Việt Nam mà khơng phải nước
nào cũng có. Cùng với nhiệm vụ ổn định chính trị Đảng và Nhà nước ta xác định
tiếp tục mở rộng dân chủ,phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, chống
lại luận điệu của các thế lực thù địch cho rằng Việt Nam khơng có dân chủ, nhân
quyền bị xâm phạm. Tồn cầu hóa ln địi hỏi, hối thúc các quốc gia tham gia vào
tiến trình hội nhập. Việc hội nhập kinh tế quốc tế một mặt đem lại những hiệu quả
tích cực về kinh tế, xã hội, mặt khác luôn ràng buộc đối với các quốc gia. Các tổ
chức kinh tế quốc tế thường đòi hỏi quốc gia phải đạt được những tiêu chuẩn về
“dân chủ”, “nhân quyền”,… nhưng thực chất đây là những tiêu chuẩn về “dân chủ”
và “nhân quyền” của phương Tây được đưa ra áp dụng với các nước khác. Nhiệm
vụ của chúng ta là một mặt tranh thủ hội nhập quốc tế tạo điều kiện cho phát triển
kinh tế, mặt khác, cương quyết đấu tranh chống lại những luận điệu lợi dụng chiêu
bài lợi dụng: “dân chủ”, “nhân quyền” để áp đặt đối với Việt Nam nhằm gấy mất ổn
định chính trị tại Việt Nam.
Các biện pháp trong lĩnh vực kinh tế. Đứng trước những thách thức của tồn
cầu hóa về khía cạnh kinh tế, Việt Nam cần phải có những biện pháp nhằm bảo về
chủ quyền kinh tế đồng thời đẩy nhanh tiến trình hội nhập. Bên cạnh đó cần có
những biện pháp tận dụng lợi thế của tồn cầu hóa, phát triển kinh tế phục vụ cho
nhiệm vụ bảo về chủ quyền quốc gia.
Việt Nam chủ trương chủ động “hội nhập” và xác định quá trình hội nhập là
quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh. Việt Nam không bao giờ ảo tưởng rằng các

103


nước tư bản, đặc biệt là các nước tư bản phát triển nhất, lại hỗ trợ cho mình xây

dựng cho mình chủ nghĩa xã hội. Trong khi hội nhập mở cửa, chúng ta vẫn giáo dục
vận động nhân dân và có những chính sách đúng đắn nhằm bảo tồn nền văn hóa và
bản sắc dân tộc. Đồng thời chúng ta kiên quyết đấu tranh chống lại những ý đồ can
thiệp vào công việc nội bộ dưới mọi biểu hiện của diễn biến hịa bình.
3.4.2. Cần thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia Việt Nam
Những năm qua, nhân quyền luôn được một số nước phương Tây và EU sử
dụng như một điều kiện trong đàm phán, hợp tác kinh tế, thương mại với nước ta.
Các hoạt động về quan hệ, hợp tác quốc tế về nhân quyền đã và đang là yêu cầu tất
yếu khách quan, cần có sự chỉ đạo tập trung, thống nhất, trực tiếp của một cơ quan
có thẩm quyền của Nhà nước, có cơ chế chỉ đạo, hoạt động và điều phối phù hợp để
nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ và đấu tranh nhân quyền.
Một số nước trong khu vực ASEAN đều có cơ quan nhân quyền của quốc gia
mình. Ví dụ như, Ủy ban nhân quyền quốc gia Malaysia (viết tắt là SUHAKAM);
Ủy ban nhân quyền quốc gia Thái Lan (NHRCT) được thành lập theo Hiến pháp
năm 1997; Ủy ban nhân quyền Philippines (CHRP) được thành lập theo quy định tại
Điều XIII của Hiến pháp 1987 và hoạt động theo Sắc lệnh số 163 ngày 05/5/1987
của Tổng thống Philippines. Tuy nhiên thực tiễn cho thấy rằng: thẩm quyền, chức
năng, nhiệm vụ của Cơ quan nhân quyền quốc gia các nước Malaysia, Thái Lan và
Philippines còn những hạn chế về tổ chức và hoạt động.
Theo LS. Mah Weng Kwai, ở Malaysia qua 13 năm hoạt động, SUHAKAM
luôn nộp báo cáo thường niên lên Nghị viện nhưng chưa một báo cáo nào từng
được thảo luận tại Nghị viện. Điều này cho thấy vai trò của SUHAKAM trong
việc cải thiện tình hình nhân quyền ở Malaysia chưa cao và chưa được Nghị viện
coi trọng [55]. Ở Thái Lan, Hiến pháp lâm thời 2014 đã bỏ các quy định về NHRCT
và Ủy ban soạn thảo Hiến pháp dự định sẽ sáp nhập NHRCT với Văn phòng Thanh
tra Quốc hội (Ombudsman). Điều này gây ra những lo ngại bởi 2 cơ quan này có
những mục tiêu khác nhau, cùng với đó là lo ngại về khả năng bảo đảm tính độc lập
và khơng thiên vị của cơ quan này [51]. Ở Philippines một trong những chức năng

104



của Ủy ban nhân quyền của quốc gia (CHRP) là điều tra những vi phạm nhân quyền
thông qua các đơn thư khiếu nại, tố cáo. Sau khi điều tra, khi xét thấy có đủ chứng
cứ chứng minh hành vi vi phạm nhân quyền, CHRP có quyền khuyến nghị Viện
Cơng tố để đưa vụ việc ra truy tố.Khi mới thành lập, CHRP thực hiện tốt chức năng
điều tra của mình, khi có thời điểm 99% số đơn thư khiếu nại, tố cáo gửi đến được
Ủy ban này tìm hiểu (năm 2001). Nhưng tỷ lệ này dần giảm đi (16% vào năm
2012), bởi lẽ Viện Công tố thường từ chối, không công nhận những bằng chứng, tư
liệu mà CHRP thu thập được, vụ án mà CHRP điều tra khi đưa ra Tòa xét xử thì tỷ
lệ kết tội rất thấp (1%) [51].
Mặc dù, trên thực tế hiện nay các cơ quan nhân quyền quốc gia ở một số
nước trong ASEAN đã được thành lập và hoạt động chưa thực sự có hiệu quả. Tuy
nhiên, cần thấy rằng Việt Nam nên thành lập một quan nhân quyền của quốc gia
mình. Thiết chế này sẽ nói lên tiếng nói của người dân và là kênh hữu hiệu trong
việc cung cấp cho chính quyền, cơng luận những thơng tin về nhân quyền . Từ đó,
chính quyền và người dân sẽ có ý thức hơn trong bảo vệ và bảo đảm

, thúc đẩy

quyền con người, đồng thời bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Định hướng thành lập cơ quan nhân quyền ở Việt Nam. Trên thế giới ngày
càng có những sự thay đổi tích cực đối với vấn để nhân quyền. Sau khi hội nghị ở
Paris năm 1991 thông qua Nghị quyết 48/134, các nguyên tắc chỉ đạo đối với các cơ
quan gọi là cơ quan nhân quyền quốc gia được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông
qua ngày 20/12/1993 những năm 90, chứng kiến sự ra đời một số cơ quan quốc gia
với nhiệm vụ thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền. Tuy khơng mang tính ràng buộc trong
luật pháp quốc tế, các nguyên tắc này tạo nền tảng cơ bản cho nhận thức chung và
được các cơ quan nhân quyền quốc gia, chính phủ và các thành phần xã hội dân sự
chấp nhận. Các nguyên tắc này là điểm định hướng quan trọng cho các nước muốn

thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia hay củng cố các cơ cấu sẵn có để làm thành
một cơ quan nhân quyền quốc gia.
Việc thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia Việt Nam trong thời điểm hiện
nay tuy cịn một vài vấn đề khó khăn như: Hệ thống pháp luật của Việt Nam còn

105


chưa đồng bộ, trình độ và nhận thức của một bộ phận cán bộ về quyền con người
còn nhiều hạn chế, trình độ dân trí khơng đồng đều ảnh hưởng không nhỏ đến nhận
thức về quyền con người Tuy nhiên những mặt thuận lợi là nhiều hơn cả: Việt Nam
đã tham gia hầu hết các Công ước quốc tế cơ bản về quyền con người, bước đầu đã
có kinh nghiệm lãnh đạo, quản lý, bảo vệ và đấu tranh trên lĩnh vực này. Việt Nam đã
là thành viên của Liên hợp quốc, của ASEAN, là thành viên của và cơ quan nhân
quyền Liên hợp quốc và của ASEAN. Việt Nam rất cần có cơ quan nhân quyền như
một tổ chức tương thích với các cơ quan nhân quyền của các quốc gia, quốc tế
nhằm đối thoại, trao đổi, bảo vệ, đấu tranh làm giảm áp lực từ bên ngoài vu cáo,
xuyên tạc về tình hình nhân quyền Việt Nam. Việt Nam cũng đã chính thức được
bầu vào Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014-2016. Những thành
tựu về đảm bảo quyền con người sau gần 30 năm đổi mới của đất nước là tiền đề, cơ
sở quan trọng cho việc xây dựng cơ quan nhân quyền quốc gia.
Các mơ hình nhân quyền trên thế giới mà Việt Nam có thể lựa chọn và áp
dụng: là Thanh tra Quốc hội, ủy ban Nhân quyền quốc gia, Hội đồng Nhân quyền,
Viện nghiên cứu nhân quyền, cơ quan Nhân quyền thuộc Bộ Ngoại giao, trong đó
có 2 mơ hình đáng chú ý.
Một là, Hội đồng Nhân quyền quốc gia. Với mô hình này, cơ quan nhân
quyền quốc gia khơng trực tiếp điều tra, xử lý những vấn đề nhân quyền mà chỉ thu
thập tình hình, nêu vấn đề, phản ánh tình hình nhân quyền, tham mưu, đề xuất, xin
chủ trương chỉ đạo. Hội đồng Nhân quyền quốc gia cần được thành lập bởi một đạo
luật độc lập hoặc được quy định bởi một điều trong Hiến pháp. Các thành viên của

Hội đồng nhân quyền là những người có phẩm chất, đạo đức, có năng lực, trình độ
kiến thức xã hội, có thể đại diện cho lợi ích của các giai tầng xã hội. Hội đồng nhân
quyền khơng có hệ thống dọc như cơ quan hành chính các cấp. Hội đồng nhân
quyền chỉ tồn tại ở cấp Trung ương.
Hai là, ủy ban Nhân quyền quốc gia trực thuộc Chính phủ. Với mơ hình này,
cơ quan nhân quyền quốc gia là cơ quan hành pháp, cơ quan thực thi pháp luật về
quyền con người của Nhà nước. Hiện nay, ở nhiều quốc gia có đạo luật riêng về

106


nhân quyền thì ủy ban Nhân quyền quốc gia là cơ quan chịu trách nhiệm chính
trong việc thực thi đạo luật này. ở những quốc gia khơng có đạo luật riêng về nhân
quyền, thì nhiệm vụ của cơ quan này tùy thuộc vào sự phân cơng, giao trách nhiệm
của Chính phủ. Nhìn chung ở các quốc gia đã có cơ quan nhân quyền, chức năng
của ủy ban Nhân quyền thường làm các nhiệm vụ mang tính tổng hợp (phát hiện
vấn đề, tư vấn, kiến nghị về pháp luật, chính sách, điều tra... những vấn đề liên quan
đến nhân quyền), nhằm đảm bảo thực hiện tốt các quyền con người, đặc biệt là
những nhóm dễ bị tổn thương trên tất cả các lĩnh vực. Trong lĩnh vực tư pháp, ủy
ban này thường có nhiệm vụ điều tra (độc lập) nhưng khơng trực tiếp xét xử, mà
chuyển vụ việc cho cơ quan chuyên trách của nhà nước. Vì chức năng của ủy ban
Nhân quyền lớn nên cơ quan này thường phải có nhiều bộ phận chuyên trách trên
từng lĩnh vực. Tùy theo điều kiện cụ thể mà Chính phủ có thể giao cho cơ quan này
nhiệm vụ cụ thể và phạm vi đến đâu...
Về công tác chuẩn bị xây dựng thành lập cơ quan nhân quyền, Việt Nam cần
tập trung khảo sát, nghiên cứu về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, vai trị, vị trí và
cơ cấu tổ chức của cơ quan nhân quyền một số nước trên thế giới và trong khu vực;
kinh nghiệm quốc tế trong việc thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia; tổng kết
tình hình thực tiễn Việt Nam; đánh giá kết quả thực hiện các nghĩa vụ pháp lý quốc
tế của Việt Nam theo các hiệp định, hiệp ước quốc tế song phương, đa phương về

nhân quyền hiện hành, nhất là việc thực hiện các cơ chế nhân quyền quốc tế mà
Việt Nam tham gia; dự báo ngắn hạn, trung hạn, dài hạn về việc thực hiện các nghĩa
vụ pháp lý quốc tế; đánh giá thực trạng tình hình tổ chức bộ máy và kết quả thực
hiện công tác nhân quyền từ Trung ương đến địa phương trong những năm qua; đề
xuất mơ hình tổ chức bộ máy, nhiệm vụ, chức năng, cơ chế hoạt động.
Việc chuẩn bị thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia tại Việt Nam cần đảm
bảo mơ hình tổ chức cơ quan nhân quyền phù hợp với tình hình thực tiễn đất nước,
có tính đến các tiêu chí và khuyến nghị của Liên hợp quốc và tương thích với pháp
luật quốc tế, xây dựng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, vai trị, vị trí của cơ quan
nhân quyền Việt Nam trong hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước dưới sự lãnh đạo

107


toàn diện, trực tiếp của Đảng; xây dựng cơ chế mối quan hệ của cơ quan nhân
quyền quốc gia với các bộ, ban, ngành ở Trung ương và địa phương, với các tổ chức
nhân quyền trong khu vực và quốc tế; dự báo về tác động của cơ quan nhân quyền
đối với đời sống xã hội sau khi được thành lập...
Xây dựng, thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia cần tham khảo các nguyên
tắc Paris liên quan đến địa vị của cơ quan nhân quyền quốc gia. Điều đó đồng nghĩa
khi thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia tại Việt Nam thì cơ quan này cần phải
có một số các tiêu chí nhất định, ví dụ như:
Một là, thẩm quyền thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền.
Hai là, được trao nhiệm vụ rộng nhất có thể, và rõ ràng được quy định trong
văn bản thiết lập hay luật pháp, quy định cụ thể thành phần và lĩnh vực thẩm quyền.
Ba là, một cơ quan nhân quyền quốc gia cần có thành phần đa dạng; có hạ
tầng phù hợp với hoạt động và ngân quỹ đầy đủ; có tính độc lập thật sự. Một cơ
quan nhân quyền quốc gia cần cho Chính phủ, Quốc hội và cơ quan khác biết các ý
kiến, khuyến nghị, đề nghị hay báo cáo về bất cứ những vấn đề liên quan đến việc
thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền; và được toàn quyền phát hành những nội dung này.

Những vấn đề này bao gồm: các quy định pháp luật hay hành chính, các khuyến
nghị thông qua luật mới hay sửa đổi luật đang có hiệu lực; bất cứ trường hợp vi
phạm nhân quyền mà cơ quan thấy cần phải xem xét;
Bốn là, có quyền chuẩn bị báo cáo về tình hình nhân quyền quốc gia hay về
các vấn đề cụ thể; hài hoà luật pháp quốc gia với các công cụ nhân quyền quốc tế;
Năm là, đóng góp ý kiến cho báo cáo quốc gia trình các cơ quan Liên hợp
quốc và thể chế khu vực; hợp tác với Liên hợp quốc và các cơ quan quốc gia hay
khu vực liên quan khác; và
Sáu là, một cơ quan nhân quyền quốc gia có thể có quyền xem xét các khiếu
nại/ thỉnh cầu liên quan đến các trường hợp cá nhân. Để thực hiện điều này, cơ quan
có thể đứng ra hồ giải hay chuyển các khiếu nại này tới các cơ quan có thẩm quyền.
3.4.3. Khuyến nghị gia nhập các điều ước quốc tế về nhân quyền
Việc gia nhập, ký kết các điều ước quốc tế song phương, đa phương về

108


quyền con người sẽ đem lại cho Việt Nam, người dân Việt Nam những lợi ích rất
đáng kể, bao gồm cả lợi ích về pháp lý (đứng từ góc độ của hệ thống pháp luật và
thực thi pháp luật) và lợi ích kinh tế đứng từ góc độ nâng cao chất lượng cuộc sống
và bảo đảm nhân quyền.
Việc tiếp tục gia nhập các điều ước đa phương và ký kết các điều ước song
phương sẽ mang lại lợi ích đối với hệ thống pháp luật Việt Nam.
Thứ nhất, sẽ giúp thống nhất pháp luật trong lĩnh vực này của Việt Nam với
nhiều quốc gia trên thế giới. Với tính chất là những văn văn bản thống nhất được
nhiều nước trên thế giới công nhận, các văn bản pháp lý quốc tế về nhân quyền sẽ
thống nhất hóa được nhiều mâu thuẫn giữa các hệ thống pháp luật khác nhau trên
thế giới, đóng vai trị quan trọng trong việc giải quyết các xung đột pháp luật trong
vấn đề quyền con người và thúc đẩy quyền con người phát triển. Vì vậy, khi Việt
Nam tiếp tục gia nhập những công ước này Việt Nam cũng sẽ được hưởng những

lợi ích do văn bản thống nhất luật này mang lại, đó là giảm bớt xung đột pháp luật
trong lĩnh vực mua nhân quyền, tạo khung pháp luật thống nhất, hiện đại trong lĩnh
vực này. Những lợi ích này càng được nhấn mạnh khi mà hầu hết các cường quốc
thương mại trên thế giới đều đã hưởng ứng gia nhập các công ước liên quan đến
quyền con người, trong đó có rất nhiều quốc gia là bạn hàng lớn và lâu dài của Việt
Nam như các quốc gia EU, Hoa Kỳ, Canada, Australia, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Singapo...Tuy nhiên cần thấy rằng để nhận được sự hợp tác kinh tế những
nước này thường đưa ra những điều kiện ràng buộc liên quan đến việc Việt Nam có
những thay đổi về chính sách, hành động đối với lĩnh vực nhân quyền.
Thứ hai, việc gia nhập, ký kết các điều ước quốc tế liên quan đến quyền con
người sẽ đánh dấu những mốc mới trong quá trình tham gia vào các điều ước quốc
tế đa phương, song phương của Việt Nam. Nó cũng là một phần thước đo đánh giá
mức độ hội nhập của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Thứ ba, việc gia nhập, ký kết các công ước về quyền con người sẽ giúp Việt
Nam hoàn thiện pháp luật về nhân quyền quốc tế nói chung và nội luật hóa pháp
luật về quyền con người nói riêng của Việt Nam

109


Thứ tư, gia nhập, ký kết các điều ước về quyền con người cũng sẽ là điều kiện
để việc giải quyết tranh chấp về lĩnh vực này nếu có giữa Việt Nam và các nước khác
được thuận lợi và có cơ sở pháp lý vững chắc hơn: Các nguồn luật được giải thích và
áp dụng thống nhất hơn; Việc giải thích và áp dụng các điều ước mà các bên đã ký
kết dễ dàng hơn rất nhiều so với việc viện dẫn đến một hệ thống luật quốc gia
Việc gia nhập, ký kết các điều ước quốc tế song phương, đa phương về
quyền con người sẽ mang lại lợi ích về kinh tế, văn hóa, xã hội đối với người dân.
Như trên đã phân tích, để có được sự hội nhập quốc tế sâu rộng và nhất là về kinh
tế, các nước có nền kinh tế vững mạnh thường đi kèm theo sự đầu tư là những ràng
buộc có chủ đích. Nếu Việt Nam biết cân đối giữa quan hệ quốc tế với lợi ích quốc

gia thì việc ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế về nhân quyền về kinh tế là rõ
ràng. Đó là việc người dân Việt Nam sẽ được hưởng lợi ích kinh tế, nếu đất nước
này là một thành viên của các văn bản pháp lý quốc tế về nhân quyền. Ở đó có cả
những lợi ích chiến lược khi Việt Nam là thành viên trong một cộng đồng các quốc
gia mà ở đó có mặt Mỹ và các cường quốc về kinh tế trên thế giới. Việt Nam sẽ
được an toàn hơn, sẽ được công nhận tầm quan trọng cao hơn trong khu vực. Đó
được đánh gia là lợi ích về chính trị.
Về những khó khăn khi tiến hành gia nhập, ký kết: Muốn làm thành viên của
các tổ chức quốc tế về nhân quyền địi hỏi chính quyền phải thực hiện một số cải
cách. Nếu khơng cân bằng với lợi ích quốc gia thì cải cách sẽ đưa đến rủi ro cho đất
nước. về một khái cạnh nào đó sẽ làm nhà nước mất dần khả năng kiểm soát. Tuy
nhiên những mặt thuận lợi khi Việt nam tiến hành hội nhập nói chung và gia nhập
các điều ước quốc tế về nhân quyền nói riêng sẽ giúp Việt Nam mạnh hơn, ổn định
hơn, an toàn hơn, và thịnh vượng hơn.
3.4.4. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách nhân quyền
Ở nước ta, việc tìm hiểu, nghiên cứu và giảng dạy về nhân quyền được quan
tâm một cách chính thức cách đây khoảng 15 năm. Năm 1994, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh (nay là Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh) đã thành lập một cơ quan nghiên cứu về nhân quyền là Trung tâm Nghiên cứu

110


×