Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

(Luận văn thạc sĩ) quyền con người và giáo dục quyền con người ở việt nam hiện nay luận văn ths luật 60 38 01 01

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1016.93 KB, 113 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

THẾ NGỌC MAI

QUYỀN CON NGƯỜI VÀ
GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƯỜI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số

: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TS. Hoàng Thị Kim Quế

Hà Nội – 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƯỜI CAM ĐOAN

Thế Ngọc Mai

i


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................... i
MỤC LỤC ...................................................................................................... ii
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ GIÁO
DỤC QUYỀN CON NGƯỜI ............................................................ 5
1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ GIÁO DỤC
QUYỀN CON NGƯỜI ................................................................................... 5
1.1.1. Khái niệm quyền con người ........................................................................ 5
1.1.2. Tính chất của quyền con người ................................................................... 9
1.1.3. Đặc điểm của quyền con người .................................................................. 11
1.1.4. Khái niệm giáo dục quyền con người......................................................... 15
1.1.5. Mục đích giáo dục quyền con người .......................................................... 18
1.2. CHỦ THỂ, KHÁCH THỂ, ĐỐI TƯỢNG GIÁO DỤC QUYỀN CON
NGƯỜI; HÌNH THỨC, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC QUYỀN
CON NGƯỜI ................................................................................................ 20
1.2.1. Chủ thể giáo dục quyền con người ............................................................. 20
1.2.2. Khách thể, đối tượng giáo dục quyền con người ....................................... 22
1.2.3. Hình thức giáo dục quyền con người ......................................................... 25
1.2.4. Nội dung giáo dục quyền con người .......................................................... 27
1.2.5. Phương pháp giáo dục quyền con người .................................................... 30
1.3. GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƯỜI – ĐIỀU KIỆN QUAN TRỌNG ĐỐI
VỚI XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN ........................................... 36

1.4. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƯỜI ........ 41
1.4.1. Ý thức pháp luật của mỗi người dân .......................................................... 41
1.4.2. Hệ thống thể chế cầm quyền ...................................................................... 43
1.4.3.Trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ................................................ 44
1.5. CÁC TIỀN ĐỀ ĐẢM BẢO GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƯỜI ......... 44
1.5.1. Tiền đề, điều kiện chính trị ......................................................................... 44

ii


1.5.2. Tiền đề, điều kiện về kinh tế ...................................................................... 46
1.5.3. Tiền đề, điều kiện về xã hội và nhận thức xã hội ....................................... 46
1.5.4. Tiền đề, điều kiện pháp lý .......................................................................... 47
1.5.5. Tiền đề, điều kiện về nguồn nhân lực và vật lực ........................................ 50
1.6. KINH NGHIỆM GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƯỜI CỦA LIÊN HỢP
QUỐC VÀ CHÂU ÂU ............................................................................. 53
1.6.1. Giáo dục quyền con người của Liên Hợp Quốc ......................................... 53
1.6.2. Giáo dục quyền con người ở châu Âu ....................................................... 56
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP GIÁO DỤC
QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ...................................... 65
2.1. HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY65
2.1.1. Hoạt động giáo dục quyền con người trong trường học ............................ 66
2.1.2. Hoạt động giáo dục quyền con người bên ngoài trường học ..................... 79
2.2. NHỮNG THÀNH TỰU, TỒN TẠI VÀ NGUYÊN NHÂN RÚT RA TỪ THỰC
TIỄN GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN
QUA ........................................................................................................................................... 81
2.2.1. Những thành tựu ......................................................................................... 81
2.2.2. Những tồn tại .............................................................................................. 85
2.2.3. Nguyên nhân rút ra từ thực tiễn giáo dục quyền con người ở Việt Nam
trong thời gian qua................................................................................................ 90

2.3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG GIÁO DỤC QUYỀN CON
NGƯỜI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY ............................................................... 91
2.3.1. Phương hướng chung ................................................................................. 91
2.3.2. Các giải pháp tăng cường giáo dục quyền con người ở nước ta hiện nay . 95
KẾT LUẬN ................................................................................................. 104
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 105

iii


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Quyền con người, hay nhân quyền, là một giá trị cơ bản, quan trọng của nhân
loại. Đó là thành quả của sự phát triển lịch sử, là một đặc trưng của xã hội văn
minh. Quyền con người cũng là một quy phạm pháp luật, đương nhiên nó địi hỏi tất
cả mọi thành viên của xã hội, không loại trừ bất cứ ai, đều có quyền và nghĩa vụ
phải tơn trọng các quyền và tự do của mọi người.
Được chính thức pháp điển hóa trong luật quốc tế từ sau Chiến tranh thế giới thứ
hai, quyền con người đã trở thành một hệ thống các tiêu chuẩn pháp luật quốc tế có
tính chất bắt buộc với mọi quốc gia, và việc tôn trọng, bảo vệ các quyền con người
đã trở thành thước đo về trình độ văn minh của các nước và các dân tộc trên thế
giới. Ở Việt Nam, kể từ khi giành độc lập năm 1945, Đảng và Nhà nước ta luôn chú
trọng đến quyền con người. Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc ngày 2/9/1945 được coi là một văn kiện có tính
lịch sử trên phương diện quốc tế về quyền con người. Trên cơ sở đó, quyền con
người đã được ghi nhận trong các bản Hiến pháp nước ta: Hiến pháp năm 1946,
Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và gần đây nhất là
Hiến pháp 1992 sửa đổi ngày 28 tháng 11 năm 2013 tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội
Khóa XIII.

Mặc dù quyền con người có ứng dụng và ảnh hưởng ngày càng mạnh mẽ đến
mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, xã hội nhưng do một số nguyên nhân, hoạt
động giáo dục về quyền con người ở nước ta còn nhiều hạn chế. Điều này dẫn tới
một số hệ quả tiêu cực đó là do thiếu kiến thức về quyền, người dân khơng biết tự
bảo vệ các quyền của mình, đồng thời thiếu ý thức trách nhiệm trong việc thực hiện
các nghĩa vụ công dân, dẫn đến sự vi phạm các quyền hợp pháp của người khác
hoặc của cộng đồng.
Trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay, việc giáo dục nhân
quyền có ý nghĩa to lớn hơn bao giờ hết vì nó thúc đẩy q trình hội nhập của Việt
Nam với thế giới và khu vực, góp phần xây dựng nền văn hóa nhân quyền tồn cầu.

1


Xuất phát từ những nhu cầu lý luận và thực tiễn trên đây, việc nghiên cứu làm rõ cơ
sở lý luận, đánh giá những thành tựu đã đạt được và những khuyết điểm còn tồn tại
của giáo dục nhân quyền; đồng thời xác định phương hướng hồn thiện hóa giáo
dục nhân quyền là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề giáo dục pháp luật nói chung đã nhận được sự quan tâm của nhiều cơ
quan, tổ chức và các nhà khoa học. Từ năm 1995 tới nay đã có nhiều cơng trình
nghiên cứu, có thể kể tên một số cơng trình tiêu biểu sau:
+ Cơng trình đã viết thành sách:
Bàn về giáo dục pháp luật của hai tác giả Trần Ngọc Đường và Dương Thanh Mai,
NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, 1995; Sống và làm việc theo pháp luật - Một số
vấn đề giáo dục pháp luật cho thanh niên, NXB Thanh niên, Hà Nội, 1997; Giáo
dục quyền con người, Những vấn đề lý luận và thực tiễn của GS.TS Võ Khánh Vinh
chủ biên, NXB Khoa học xã hội, 2011...
+ Các đề tài khoa học cấp Nhà nước và cấp bộ:
Tìm kiếm mơ hình giáo dục pháp luật có hiệu quả trong một số dân tộc ít người, Đề

tài khoa học cấp Bộ của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, 1995;
Đổi mới giáo dục pháp luật trong hệ thống các trường chính trị ở nước ta hiện nay,
Đề tài khoa học cấp Bộ của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2000; Cơ sở
lý luận và thực tiễn của việc xây dựng chương trình quốc gia về phổ biến giáo dục
pháp luật trong giai đoạn tới, Đề tài khoa học cấp Bộ của Bộ Tư pháp, 2004...
+ Các luận án, luận văn:
Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp ở Việt Nam, Luận án Phó tiến sĩ Luật
học của tác giả Dương Thanh Mai, 1996; Giáo dục pháp luật trong các trường đại
học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (không chuyên luật) ở nước ta hiện nay,
Luận án Phó tiến sĩ Luật học của tác giả Đinh Xuân Thảo, 1996; Giáo dục quyền
con người, quyền công dân ở nước ta hiện nay – Thực trạng và giải pháp, Luận văn

2


thạc sỹ Luật học của tác giả Nguyễn Hữu Trí,, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội 2001 và một số luận văn thạc sĩ luật học, luận văn cử nhân của Học
viện Báo chí và Tuyên truyền, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Trường
Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội và các cơ sở khác.
Các công trình nói trên đã nêu ra nhiều vấn đề rất cơ bản cả về lý luận và thực tiễn
trong hoạt động giáo dục pháp luật trên nhiều góc độ. Tuy nhiên, có thể nói rằng,
hiện nay vẫn có rất ít các cơng trình nghiên cứu chun sâu về giáo dục quyền con
người. Vì vậy, đây là đề tài nghiên cứu có hệ thống trên cơ sở kế thừa có chọn lọc
kết quả nghiên cứu của các cơng trình, tài liệu khoa học trên và các tài liệu khác có
liên quan về giáo dục quyền con người ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của Luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng của vấn đề quyền con
người, giáo dục quyền con người để xác định được phương hướng, đề xuất các giải
pháp nhằm tăng cường công tác giáo dục quyền con người trong điều kiện xây dựng

Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ:
-

Tìm hiểu những khái niệm, tính chất và đặc điểm của quyền con người;

-

Hệ thống hóa lý luận chung về giáo dục quyền con người;

-

Đánh giá thực trạng của công tác giáo dục quyền con người ở Việt Nam
hiện nay;

-

Từ thực trạng đó, đề xuất các phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường
hiệu quả công tác giáo dục quyền con người.

3


4. Phạm vi nghiên cứu của Luận văn
Luận văn phân tích khái niệm, tính chất, đặc điểm của quyền con người, trên cơ
sở đó làm nền tảng để nghiên cứu vấn đề giáo dục quyền con người qua những kết
quả khảo sát thực tiễn vấn đề này ở nước ta thời gian qua. Do vấn đề giáo dục
quyền con người còn khá mới ở nước ta, nên tác giả xác định tập trung nghiên cứu
những vấn đề lý luận cơ bản, thực trạng và giải pháp về giáo dục quyền con người.

5. Phương pháp nghiên cứu
-

Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác
– Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền với
quyền con người, với giáo dục quyền con người ở nước ta.

-

Luận văn sử dụng phương pháp thống kê, hệ thống, so sánh, phân tích, tổng
hợp để đánh giá thực trạng giáo dục quyền con người ở nước ta hiện nay
nhằm phân tích, luận chứng một cách khoa học phương hướng, giải pháp
tăng cường giáo dục quyền con người ở nước ta.

6. Điểm mới của Luận văn
Đây là công trình chun khảo nghiên cứu tương đối có hệ thống về giáo dục
quyền con người ở nước ta hiện nay, trên cơ sở tính đặc thù của quyền con người và
hoạt động giáo dục quyền con người, Luận văn đánh giá thực trạng và phân tích
nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả giáo dục quyền con người ở nước ta trong thời
gian qua; trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp góp phần thực hiện tốt vấn đề giáo
dục quyền con người ở Việt Nam.
7. Kết cấu Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quyền con người và giáo dục quyền con người
Chương 2: Thực trạng và quan điểm, giải pháp giáo dục quyền con người ở
Việt Nam hiện nay

4



CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
VÀ GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƯỜI
1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ GIÁO DỤC
QUYỀN CON NGƯỜI
1.1.1. Khái niệm quyền con người
Quyền con người, theo định nghĩa trong “Đại từ điển Tiếng Việt” của Viện
Ngơn ngữ học, cũng chính là “nhân quyền” [34]. Cho đến nay, chúng ta phải thừa
nhận rằng khó có thể tìm thấy một định nghĩa triết học “kinh điển” nào về quyền
con người. Ngay cả những nhà tư tưởng lớn như Lôccơ [John Locke (1632–1704)],
Rútxô [Jean-Jacques Rousseau (1712 – 1778)]… và sau này Mác [Karl Heinrich
Marx (1818 – 1883)], Engen [Friedrich Engels (1820 - 1895)], Lênin [Vladimir
Ilyich Lenin (1870 – 1924)] cũng không đưa ra một định nghĩa nào về khái niệm
này giống như cách làm thông thường đối với các khái niệm triết học khác. Nhìn lại
quá khứ và hiện tại, quyền con người thường được nhìn nhận theo các khuynh
hướng khác nhau, trong đó chủ yếu theo bốn khuynh hướng là: tự nhiên, thực định,
kinh tế và quan niệm [38].
 Khuynh hướng “quyền tự nhiên”:
Những tư tưởng coi quyền con người là quyền “tự nhiên”, “trời phú” đã xuất
hiện ngay từ thời cổ đại. Ở Trung Quốc, Mặc Tử (479-381 trước Công nguyên) đã
cho rằng quyền bình đẳng tự nhiên của con người đó là “ý trời”. Theo đó, mỗi
người đều có quyền tham gia công việc Nhà nước tuỳ theo đạo đức và tài năng của
họ, chứ khơng phải do dịng dõi quyết định. Cũng như vậy, mỗi người đều có các
quyền giống nhau và đều bị trừng phạt nếu phạm tội. Ở Hy Lạp cổ đại, các nhà triết
học cũng có những tư tưởng tương tự.
Giai cấp tư sản khi thực hiện cách mạng tư sản, đã coi quyền con người như một
vũ khí của mình để tranh giành quyền lực với giai cấp phong kiến, và để tập hợp lực
lượng trong xã hội; do đó ngay từ thế kỷ XVIII vấn đề nhân quyền đã được giai cấp

5



tư sản đề cập, tiêu biểu như trong Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
năm 1776, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789.
Tuyên ngơn Độc lập của Mỹ dựa trên Mười tu chính án do James Madison (1751
– 1836) đưa ra. Các tu chính án này hạn chế quyền lực của chính quyền liên bang,

bảo vệ quyền của tất cả công dân, những người sinh sống trên lãnh thổ Hoa Kỳ.
Trong các quyền được liệt kê mà các tu chính án này đảm bảo có: tự do ngơn luận,
tự do báo chí, tự do tơn giáo; quyền được mang vũ khí của người dân; quyền tự do
hội họp; quyền tự do kiến nghị; quyền khơng bị lục sốt và tịch thu vơ lý; quyền
khơng bị hình phạt tàn bạo và bất bình thường; quyền không bị tự buộc tội do bị ép
buộc. Đạo luật Nhân quyền cũng hạn chế quyền của Quốc hội bằng cách cấm Quốc
hội ban hành luật về thành lập tơn giáo và cấm chính quyền liên bang tước quyền
sống, quyền tự do hay tài sản của bất kỳ người nào mà không thông qua tố tụng
pháp luật.
Trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp, quyền con người là
những quyền được bảo hộ “Quốc hội thừa nhận và tuyên bố, với sự chứng kiến và
sự bảo hộ của đấng tối cao, các quyền sau đây của con người là của con người và
của công dân” [19, tr.21].
Nội dung Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp được tiếp tục thể hiện
trong Hiến pháp của Cộng hòa Pháp năm 1958, với tư tưởng chủ đạo là “Hoạt động
tự do của con người là một quyền tự nhiên, vì vậy, khơng cần phải liệt kê lại những
quyền gì là được phép: tất cả những gì luật pháp khơng nghiêm cấm đều được phép
làm; ngược lại, cần phải xác định rõ những điều cần nghiêm cấm, dĩ nhiên là có xét
đến những quy định trong Hiến pháp”[15, tr.370].
Về mặt xã hội, thuyết quyền tự nhiên mang ý nghĩa phản kháng. Nó là tư tưởng
của các lực lượng tiến bộ chống lại trật tự xã hội bất cơng, bất bình đẳng. Vì thế,
khơng chỉ trong q khứ, mà cả ngày nay thuyết này vẫn có ý nghĩa nhất định.
Thuyết quyền tự nhiên có điểm tích cực là đề cao con người với tư cách là sản

phẩm cao nhất, tinh tuý nhất của sự phát triển tự nhiên. Nhưng nhược điểm của nó

6


là ở chỗ, nó che lấp nguồn gốc xã hội của quyền con người và do đó, khơng thấy
tính lịch sử, tính giai cấp, sự phát triển trong những địi hỏi về quyền con người.
 Khuynh hướng “thực định”:
Trái với khuynh hướng quyền tự nhiên – khuynh hướng không đề ý đến mặt
pháp luật và Nhà nước của quyền con người, khuynh hướng thực định lại coi quyền
con người là tất cả những gì mà Nhà nước thơng qua pháp luật để quy định cho cá
nhân. Chỉ những gì pháp luật cho phép tự do làm hay khơng làm thì mới là quyền
con người, và chỉ được coi là quyền con người khi một hành vi hay một yêu cầu của
cá nhân là hợp pháp.
Khuynh hướng thực định có điểm hợp lý là đã gắn quyền con người với pháp
luật, với ý chí mà Nhà nước (mà điều này thì khơng thể bỏ qua được, vì quyền con
người tất nhiên phải tồn tại dưới hình thức pháp luật).
Nhưng, nó cũng có nhược điểm ở chỗ, chỉ coi ý chí Nhà nước là nguồn gốc của
quyền con người, coi trọng tính hợp pháp của quyền, song lại không để ý đến tính
hợp lý của nó – cái mà nhờ đó, ngay cả những đòi hỏi, những nhu cầu hợp lý cho
cuộc sống (nhưng chưa được pháp luật ghi nhận) cũng phải được coi là quyền con
người. Do đó, khơng thể coi quyền con người chỉ là cái được phép làm, được hưởng
theo pháp luật, mà còn cả cái đáng được làm, đáng được hưởng (những cái chưa
được pháp luật khẳng định, nhưng sẽ phải khẳng định).
 Khuynh hướng “kinh tế”:
Khuynh hướng kinh tế coi quyền con người là những quyền nảy sinh từ nhu cầu
của sản xuất, kinh doanh. Nói cách khác, khuynh hướng này coi nguồn gốc của
quyền con người là kinh tế. Không phải “trời phú” tự nhiên, cũng khơng phải do
Nhà nước ban phát, mà chính đời sống kinh tế của con người trao cho con người các
quyền. Giáo sư Viện khoa học xã hội Trung Quốc - Từ Sùng Ôn trong bài báo “Về

phương pháp luận nghiên cứu vấn đề nhân quyền” trích Tạp chí “Nghiên cứu triết
học”, số 12/1992 đã viết: “nhân quyền, suy cho cùng bắt nguồn từ điều kiện kinh tế
- xã hội, phản ánh lợi ích cơ bản của một giai cấp nhất định”.

7


Khuynh hướng kinh tế có điểm hợp lý ở chỗ, nó cho thấy nguồn gốc của quyền
con người là bản thân đời sống xã hội của con người. Nó tước bỏ cái vỏ “thần
thánh”, “tự nhiên”, khơng giải thích được của quyền con người, trả quyền con người
về với đời sống thực tại của con người. Theo khuynh hướng này, có thể đi đến quan
điểm duy vật lịch sử về vấn đề quyền con người. Nó cũng cho thấy tính giai cấp
trong những đòi hỏi về quyền con người.
Song, sẽ là không đầy đủ nếu coi quyền con người chỉ có nguồn gốc kinh tế. Quyền
con người cịn bao hàm những yêu cầu về danh dự, nhân phẩm, về đời sống tinh thần,
tình cảm của con người…, nghĩa là những điều nằm ngoài phạm trù kinh tế.
 Khuynh hướng “quan niệm”:
Khuynh hướng quan niệm cho rằng quyền con người là tất cả những gì mà con
người cho là cần thiết và có giá trị đối với cuộc sống con người, tức là quyền lợi,
nhu cầu, lợi ích và những giá trị tinh thần đều có thể trở thành quyền con người.
Quyền con người là vấn đề phức tạp đa nghĩa, chứa đựng những mặt đối lập,
mâu thuẫn, nhưng không loại trừ nhau. Đó là các mặt khách quan và chủ quan, tự
nhiên và xã hội, kinh tế và tinh thần, văn hố và chính trị, đạo lý và luật pháp. Nó
cũng là sự kết hợp giữa các yếu tố quốc tế và dân tộc, giai cấp và nhân loại, v.v…
Qua phân tích trên đây có thể rút ra kết luận: Quyền con người là những quyền
không bị tước bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào; đó là: quyền sống, quyền tự
do, quyền được mưu cầu hạnh phúc, quyền được bảo vệ và bình đẳng trước pháp
luật, quyền an ninh thân thể, quyền khơng bị hình phạt tàn bạo và bất bình
thường…Đó cũng là những địi hỏi chính đáng về tự do và những nhu cầu cuộc
sống cơ bản cần được đáp ứng của con người, không bị phá hủy khi xã hội dân sự

được thiết lập và khơng một xã hội hay một chính phủ nào có thể xóa bỏ hoặc
chuyển nhượng các quyền này. Nói cách khác, quyền con người đóng vai trị “là cơ
sở để xác định tính điều chỉnh tự định đoạt của con người, khả năng độc lập của con
người trong việc giải quyết các nhu cầu cá nhân” [15,tr.21].

8


1.1.2. Tính chất của quyền con người
Quyền con người có các tính chất cơ bản sau đây:
 Tính phổ biến
Tính phổ biến của nhân quyền thể hiện ở chỗ quyền con người là những gì bẩm
sinh, vốn có của con người và được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi người, khơng
có sự phân biệt đối xử vì màu da, chủng tộc, dân tộc, giới tính, độ tuổi, thành phần
xuất thân… Con người, dù ở trong những chế độ xã hội riêng biệt, thuộc những
truyền thống văn hóa khác nhau vẫn được công nhận là con người và được hưởng
những quyền và sự tự do cơ bản.
Liên quan đến tính chất này, cần lưu ý là bản chất của sự bình đẳng về quyền
con người khơng có nghĩa là cào bằng mức độ hưởng thụ các quyền, mà là bình
đẳng về tư cách chủ thể của quyền con người.
 Tính đặc thù
Mặc dù tất cả mọi người đều được hưởng quyền con người nhưng mức độ thụ
hưởng quyền có sự khác biệt, phụ thuộc vào năng lực cá nhân của từng người, hồn
cảnh chính trị, truyền thống văn hóa xã hội mà người đó đang sống. Ở mỗi vùng,
mỗi quốc gia khác nhau, vấn đề quyền con người mang những sắc thái, đặc trưng
riêng gắn liền với trình độ phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực đó. Ví dụ: ở các
nước Tây Âu, do điều kiện kinh tế phát triển nên con người ở đây được hưởng chế
độ an sinh xã hội tốt hơn nơi khác. Ngược lại, ở một số nước châu Á, do kinh tế còn
chậm phát triển nên mức độ thụ hưởng an sinh xã hội thấp hơn.
 Tính khơng thể tước bỏ

Tính không thể tước bỏ của nhân quyền thể hiện ở chỗ các quyền con người
không thể bị tước bỏ hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào, kể cả các
cơ quan và quan chức Nhà nước. Ở đây, khía cạnh “tùy tiện” nói đến giới hạn của
vấn đề. Nó cho thấy khơng phải lúc nào nhân quyền cũng “không thể tước bỏ”.

9


Trong một số trường hợp đặc biệt, chẳng hạn như khi một người phạm một tội ác
thì có thể bị tước tự do theo pháp luật, thậm chí bị tước quyền sống.
 Tính khơng thể phân chia
Tính khơng thể phân chia của nhân quyền bắt nguồn từ nhận thức rằng các
quyền con người đều có tầm quan trọng như nhau, nên về ngun tắc khơng có
quyền nào được coi là có giá trị cao hơn quyền nào. Việc tước bỏ hay hạn chế bất
kỳ quyền con người nào đều tác động tiêu cực đến nhân phẩm, giá trị và sự phát
triển của con người.
Tuy nhiên, tính chất khơng thể phân chia không hàm ý rằng mọi quyền con
người đều cần phải được chú ý quan tâm với mức độ giống hệt nhau trong mọi hoàn
cảnh. Trong từng bối cảnh cụ thể, cần và có thể ưu tiên thực hiện một số quyền nhất
định, miễn là phải dựa trên những yêu cầu thực tế của việc đảm bảo các quyền đó
chứ không phải dựa trên sự đánh giá về giá trị cá quyền đó. Ví dụ, trong bối cảnh
dịch bệnh đe dọa hoặc với những người bị bệnh tật, quyền được ưu tiên thực hiện là
quyền được chăm sóc y tế; cịn trong bối cảnh nạn đói, quyền được ưu tiên phải là
quyền về lương thực, thực phẩm. Ở góc độ rộng hơn, trong một số hoàn cảnh, cần
ưu tiên thực hiện quyền của một số nhóm xã hội dễ bị tổn thương trong khi vẫn tơn
trọng quyền của các nhóm khác. Điều này khơng có nghĩa là bởi các quyền được ưu
tiên thực hiện có giá trị cao hơn các quyền khác, mà là bởi các quyền đó trong thực
tế đang bị đe dọa hoặc bị vi phạm nhiều hơn so với các quyền khác.
 Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau
Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau của nhân quyền thể hiện ở chỗ việc đảm bảo

các quyền con người, toàn bộ hoặc một phần, nằm trong mối liên hệ phụ thuộc và
tác động lẫn nhau. Sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh hưởng
tiêu cực đến việc bảo đảm các quyền khác. Ngược lại, tiến bộ trong việc bảo đảm
một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tích cực đến việc bảo đảm các quyền
khác.

10


Thực tế cho thấy, để đảm bảo các quyền bầu cử, ứng cử (các quyền chính trị cơ
bản), cần đồng thời bảo đảm một loạt quyền kinh tế, xã hội, văn hóa khác có liên
quan như quyền được giáo dục, quyền được chăm sóc y tế, quyền có mức sống
thích đáng… vì nếu khơng, các quyền bầu cử, ứng cử có rất ít ý nghĩa với những
người đói khổ, bệnh tật hay mù chữ. Tương tự, việc bảo đảm các quyền kinh tế, xã
hội, văn hóa đều gắn liền với sự phát triển của quyền dân sự, chính trị, bởi kết quả
của việc bảo đảm các quyền dân sự, chính trị chính là sự ổn định, lành mạnh và hiệu
quả trong quản lý Nhà nước, quản lý xã hội – yếu tố nền tảng để thúc đẩy các điều
kiện sống về kinh tế, xã hội, văn hóa của mọi người dân. [7]
1.1.3. Đặc điểm của quyền con người
Nhận thức chung cho rằng, quyền con người là một phạm trù đa diện, có thể
nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau như đạo đức, tơn giáo, chính trị, xã hội, pháp
luật… cụ thể như sau:
 Quyền con người từ góc độ đạo đức – tôn giáo
Những ý niệm đầu tiên về quyền con người có lẽ được nảy sinh từ quan niệm về
các chuẩn mực đạo đức – cách thức đối xử giữa người với người trong xã hội – mà
vốn có và hiện cịn trong văn hóa truyền thống của hầu hết dân tộc trên trái đất. Cụ
thể, ở khắp nơi trên thế giới, người ta đều lưu truyền những quy tắc ứng xử, coi đó
là những quy luật vàng, kiểu như: nếu muốn người khác đối xử với mình như thế
nào thì hãy đối xử với người khác như thế, ác giả ác báo hoặc gieo gì gặt nấy… Rõ
ràng, ẩn chứa trong nội hàm các quy luật vàng này là u cầu tơn trọng các quyền,

tự do chính đáng và tự nhiên của người khác.
Những quy tắc đạo đức hàm chứa những ý tưởng về quyền con người như vậy
sau đó được đúc kết, khái quát, bổ sung và phát triển trong giáo lý của các tôn giáo.
Sức mạnh đức tin của các tơn giáo đó biến các ý tưởng về quyền con người trở
thành những quy phạm đạo đức – tôn giáo được tuân thủ rộng rãi ở nhiều xã hội,
trong đó đề cao và cổ vũ tình u thương đồng loại, sự cơng bằng, bình đẳng, tự do
và nhân phẩm – những yếu tố nền tảng của quyền con người.

11


Nhìn tổng thể, trong suốt quá trình phát triển của quyền con người, kể cả khi các
quyền con người đã được pháp điển hóa trong pháp luật quốc gia và quốc tế, nó vẫn
bị các phạm trù đạo đức và tơn giáo chi phối. Sự chi phối đó khơng bộc lộ, lặng lẽ,
ẩn tàng nhưng rất sâu sắc. Nói cách khác, trong suốt tiến trình phát triển của nó,
quyền con người luôn phản ánh và mang nặng dấu ấn của các giá trị và quy tắc đạo
đức, tôn giáo.
 Quyền con người từ góc độ lịch sử - xã hội
Xét tổng thể, lịch sử loài người thực chất là một q trình phấn đấu khơng
ngừng để tồn tại và nâng cao các tiêu chuẩn sống, trong đó bao gồm việc phấn đấu
để xác lập và bảo vệ những giá trị tự do, bình đẳng, cơng bằng và nhân phẩm cho tất
cả các cá nhân thành viên của cộng đồng nhân loại. Theo dòng lịch sử, ảnh hưởng
và tác động của quyền con người ngày càng mở rộng, từ ý niệm, tư tưởng đến các
quy tắc, quy phạm và cơ chế; từ cấp độ cộng đồng đến cấp độ quốc gia, khu vực và
quốc tế. Trong suốt quá trình phát triển này, quyền con người ln mang những dấu
ấn về chính trị, kinh tế, văn hóa của từng thời kỳ, từng giai đoạn lịch sử của xã hội
loài người.
 Quyền con người từ góc độ triết học
Trên phương diện triết học, sự hình thành, phát triển của quyền con người phản
ánh quy luật của xã hội loài người từ thấp đến cao. Cụ thể, nó phản ánh q trình

phát triển mang tính quy luật trong nhận thức của lồi người từ những khái niệm sơ
khai nhất về cơng bằng, bình đẳng, tự do và nhân phẩm cho đến những tư tưởng,
học thuyết và những quy phạm pháp lý về quyền con người.
Trong triết học, quyền con người từ lâu đã trở thành một đối tượng nghiên cứu
với những tư tưởng, học thuyết được phát triển bởi nhiều nhà triết học nổi tiếng.
Những tư tưởng triết học về quyền con người, đặc biệt là về các quyền tự nhiên và
các quyền pháp lý là nền tảng lý luận cho việc pháp điển hóa các quyền con người
vào pháp luật quốc gia và quốc tế, cũng như trong việc bảo đảm thực hiện các
quyền này trên thực tế.

12


 Quyền con người từ góc độ chính trị
Ngay từ khi còn ở dưới dạng quan điểm, tư tưởng, quyền con người đã là một
vấn đề ảnh hưởng, chi phối quan hệ chính trị, cả ở phạm vi quyết định giúp giai cấp
tư sản lật đổ sự thống trị của giai cấp phong kiến.
Sau đó, quyền con người đã trở thành một trong những vấn đề trung tâm của
cuộc đấu tranh chính trị, tư tưởng giữa hai phe tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa
trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Ngay từ khi quyền con người bắt đầu được
pháp điển hóa trong luật quốc tế (kể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai), vấn đề
quyền con người đã bị “chính trị hóa” một cách sâu sắc và hệ thống. Từ khi cuộc
Chiến tranh Lạnh kết thức cho đến thời điểm hiện nay, mặc dù mức độ “chính trị
hóa” quyền con người đã ít nhiều giảm đi, tuy nhiên, đây vẫn là hiện thực không thể
tránh khỏi và sẽ cùng tồn tại lâu dài trong các hoạt động quốc tế về quyền con
người.
Xét ở phạm vi quốc tế, quyền con người đã trở thành một trong những vấn đề
chi phối (trực tiếp hoặc gián tiếp) mạnh mẽ và tồn diện các quan hệ chính trị quốc
tế ở mọi cấp độ, từ toàn cầu, khu vực đến song phương. Xét ở phạm vi quốc gia, từ
lâu, các đảng phái chính trị trên thế giới đã nhanh chóng nhận thấy và nắm lấy

quyền con người như một thứ vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh giành và giữ
quyền lực Nhà nước. Quyền con người trở thành các tiêu chí được dùng để đánh giá
tính tiến bộ, phù hợp trong cương lĩnh tranh cử; trở thành cơ sở để các đảng phái
phê phán, chỉ trích lẫn nhau; thậm chí trở thành một yếu tố quyết định sự tồn vong
của một chính thể, một người đứng đầu Nhà nước hoặc một chế độ xã hội. Tại
nhiều nước trên thế giới hiện nay, quyền con người đã trở thành một trong các chủ
đề trung tâm không chỉ trong cuộc đấu tranh quyền lực giữa các chính đảng, mà cịn
trong các chính sách đối nội, đối ngoại của quốc gia.
 Quyền con người từ góc độ pháp lý
Là một phạm trù đa diện, song quyền con người có mối liên hệ gần gũi hơn cả
với pháp luật. Điều này trước hết là bởi cho dù quyền con người có là bẩm sinh, vốn

13


có (nguồn gốc tự nhiên) hay phải do các nhà nước quy định (nguồn gốc pháp lý), thì
việc thực hiện các quyền vẫn cần có pháp luật. Hầu hết những nhu cầu vốn có, tự
nhiên của con người (các quyền tự nhiên) không thể được bảo đảm đầy đủ nếu
không được ghi nhận bằng pháp luật, mà thơng qua đó, nghĩa vụ tôn trọng và thực
thi các quyền không phải chỉ tồn tại dưới dạng những quy tắc đạo đức mà trở thành
những quy tắc ứng xử chugn, có hiệu lực bắt buộc và thống nhất cho tất cả mọi chủ
thể trong xã hội. Chính vì vậy, quyền con người gắn liền với các quan hệ pháp luật
và là một phạm trù pháp lý.
Thực tế cho thấy, với tư cách là chủ thể của pháp luật, con người – cùng với
quyền, tự do và nghĩa vụ, những thuộc tính xã hội gắn liền với nó – ln là đối
tượng phản ánh của các hệ thống pháp luật. Pháp luật xác lập và bảo vệ sự bình
đẳng giữa các cá nhân con người trong xã hội và sự độc lập tương đối của các cá
nhân với tập thể, cộng đồng, nhà nước, thơng qua việc pháp điển hóa các quyền và
tự do tự nhiên, vốn có của cá nhân. Theo nghĩa này, pháp luật có vai trị đặc biệt,
khơng thay thế trong việc ghi nhận, bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người. Vai

trò của pháp luật với quyền con người thể hiện ở những khía cạnh cụ thể như sau:
+ Pháp luật là phương tiện chính thức hóa, pháp lý hóa giá trị xã hội của các quyền
tự nhiên: Mặc dù được thừa nhận song thông thường các quyền tự nhiên không mặc
định được áp dụng trực tiếp trong xã hội. Về nguyên tắc, các nhà nước trên thế giới
chỉ bảo đảm thực hiện những quyền pháp lý – tức là có nhu cầu, lợi ích tự nhiên,
vốn có của con người đã được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Như vậy, chỉ khi
mang tính pháp lý, các quyền tự nhiên mới chuyển thành những quyền con người có
đầy đủ giá trị hiện thực. Pháp luật chính là phương tiện để thực hiện q trình
chuyển hóa đó. Nó có sứ mệnh cao cả là biến những nghĩa vụ pháp lý (hay các quy
tắc cư xử chung do Nhà nước cưỡng chế thực hiện), từ đó xã hội hóa giá trị các
quyền tự nhiên của con người.
+ Pháp luật là phương tiện đảm bảo giá trị thực tế của các quyền con người: như đã
đề cập, chỉ khi được quy định trong pháp luật, việc tuân thủ và thực hiện các quyền

14


con người mới mang tính bắt buộc với mọi chủ thể trong xã hội. Ở đây, pháp luật
đóng vai trị là công cụ giúp Nhà nước bảo đảm sự tuân thủ, thực thi các quyền con
người của các chủ thể khác nhau trong xã hội, đồng thời cũng là công cụ của các cá
nhân trong việc bảo vệ các quyền con người của chính họ thơng qua việc vận dụng
các quy phạm và cơ chế pháp lý quốc gia và quốc tế có liên quan.
Thực tế cho thấy, tư tưởng đề cao pháp luật, coi pháp luật là phương tiện hữu
hiệu để bảo đảm các quyền con người đã được khẳng định từ rất sớm. Từ nhiều thế
kỷ trước Công nguyên, một vị vua vĩ đại của xứ Babylon là Hammurabi (1810 –
1750 TCN) đã tuyên bố rằng, mục đích của ông trong việc ban hành đạo luật cổ nổi
tiếng (mang tên ông) là để “…ngăn ngừa những kẻ mạnh áp bức người yếu”. Vào
thế kỷ thứ VI trước Công nguyên, một nhiếp chính quan La Mã là Arokhont Salon
đã tuyên bố ý định giải phóng cho tất cả mọi người bằng quyền lực của pháp luật,
bằng sự kết hợp sức mạnh với pháp luật. Trong giai đoạn sau này, tư tưởng đề cao

pháp luật với việc bảo đảm quyền con người cũng được phát triển nhiều bởi nhà tư
tưởng nổi tiếng của nhân loại, và được chứng minh bằng sự ra đời của ngày càng
nhiều các văn bản pháp luật quốc gia và quốc tế về quyền và tự do của con người,
từ Đại Hiến chương Magna Carta (the Magna Carta, 1251), Bộ luật về các quyền
(the Bill of Rights, 1689) của nước Anh; Tuyên ngôn về các quyền của con người
và của công dân (the Declaration of the Rights of Man and of the Citizen, 1789) của
nước Pháp; Tuyên ngôn Độc lập (the Declaration of Independence, 1776) và Bộ luật
về các quyền (the Bill of Rights, 1789/1791) của Mỹ cho tới Tun ngơn tồn thế
giới về quyền con người năm 1948 và hệ thống đồ sộ hàng trăm văn kiện quốc tế về
quyền con người do Liên Hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác thông qua từ đầu
thế kỷ XX đến nay. Tất cả đã cho thấy vai trị khơng thể thay thế của pháp luật
trong việc bảo đảm các quyền con người.
1.1.4. Khái niệm giáo dục quyền con người
Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, chủ nghĩa phát xít bị đập tan năm
1945, vấn đề nhân quyền đã trở thành mối quan tâm của cả Nhà nước xã hội chủ

15


nghĩa và tư bản chủ nghĩa, nên khi tổ chức Liên Hợp Quốc ra đời thì vấn đề cơ bản,
đầu tiên nêu ra của tổ chức này là vấn đề nhân quyền. Liên Hợp Quốc đã ban hành
hàng loạt các văn kiện khẳng định các quyền và tự do của tất cả mọi người, đặc biệt
khi Hiến chương Liên Hợp Quốc 1945 và Tuyên ngôn thế giới về quyền con người
1948 ra đời thì vấn đề nhân quyền đã chuyển sang một bước ngoặt mới trong lịch sử
nhân loại, trở thành một quan hệ cơ bản được điều chỉnh bằng pháp luật quốc tế.
Trong thời gian qua, thuật ngữ “giáo dục quyền con người” cũng liên tục xuất hiện
trong các văn kiện của các tổ chức quốc tế, các tổ chức khu vực như Liên minh châu
Âu (EU), Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE), Tổ chức các nước châu
Mỹ (OAS), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)… Đồng thời, thuật ngữ
“quyền con người” cũng xuất hiện trong văn bản của các bộ giáo dục và của các tổ

chức phi chính phủ. Tơn trọng và thúc đẩy việc bảo đảm quyền con người đã trở
thành xu thế tất yếu mang tính tồn cầu, vấn đề giáo dục quyền con người, cũng vì
đó, trở thành vấn đề được quan tâm đặc biệt ở mỗi quốc gia, mỗi dân tộc.
Hiện nay, có nhiều định nghĩa về giáo dục quyền con người:
“Giáo dục quyền con người được định nghĩa là các nỗ lực về đào tạo, phổ biến
và thơng tin nhằm tạo lập nền văn hóa tồn cầu về quyền con người thông qua
truyền đạt kiến thức, các kỹ năng, hình thành các thái độ và hướng tới: Tăng cường
tôn trọng quyền con người và các tự do cơ bản; Phát triển đầy đủ nhân cách con
người và ý thức về nhân phẩm; Tăng cường hiểu biết, khoan dung, bình đẳng giới
và tính hữu nghị giữa các dân tộc, người bản địa và các nhóm chủng tộc, quốc gia,
đạo đức, tôn giáo và ngôn ngữ...” [36, tr.33].
“Giáo dục quyền con người là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có mục
đích của chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục nhằm hình thành ở họ tri
thức về quyền con người để biết tự mình bảo vệ quyền của mình và tơn trọng quyền
của người khác phù hợp với các yêu cầu, đòi hỏi của các chuẩn mực trong pháp luật
quốc tế và pháp luật quốc gia về quyền con người” [2].
“Giáo dục quyền con người là tất cả quá trình học hỏi để phát triển kiến thức,
kỹ năng và các giá trị của quyền con người, nhằm thúc đẩy sự công bằng, khoan

16


dung, nhân phẩm, cũng như tôn trọng các quyền và nhân phẩm của người khác”
[36].
Trong cuốn sách Hướng dẫn giáo dục nhân quyền xuất bản tại Đại học
Minnesota của Mỹ năm 2000, bà Nancy Flowers – một nhà giáo, nhà hoạt động
nhân quyền của Mỹ đã định nghĩa giáo dục nhân quyền là “tất cả những hiểu biết
nhằm phát triển kiến thức, kỹ năng và các giá trị của nhân quyền.” Theo bà, giáo
dục nhân quyền liên quan đến sự kết hợp xem xét giữa các yếu tố bên trong và bên
ngoài. Sự hiểu biết về nhân quyền tất yếu gắn với việc áp dụng hệ thống giá trị nhân

quyền trong mối quan hệ giữa con người với con người, trong gia đình và với các
thành viên trong cộng đồng. Trong đó, bà nói đến kỹ năng “phát triển con người”,
đó là những kỹ năng cơng nhận thiên hướng của bản thân mỗi người, chấp nhận
những khác biệt và chịu trách nhiệm bảo vệ quyền của những người khác. Tuy
nhiên, trong cơng việc của mình, những người lập chương trình giáo dục nhân
quyền phải tính đến bối cảnh xã hội, văn hóa, chính trị, kinh tế và khả năng tác
động của việc giáo dục đó đối với chuyển biến của xã hội.
Còn theo bà Felisa Tibbitts – giám đốc Hiệp hội nhân quyền của Mỹ thì “về cơ
bản, giáo dục nhân quyền là hoạt động xây dựng các nền văn hóa nhân quyền trong
các cộng đồng của chúng ta.”
Theo một định nghĩa khác của ông Shulamith Koening – người sáng lập “Thập
kỷ giáo dục nhân quyền tồn dân” (PDHRE) thì giáo dục nhân quyền là “để mọi
người biết về nhân quyền và đưa ra đòi hỏi về nhân quyền” [36, tr.30].
Như vậy, nói một cách đơn giản, giáo dục quyền con người là một quá trình
nhằm truyền đạt các kiến thức, các kỹ năng để người học có những hiểu biết về
quyền con người, những giá trị phẩm giá, bình đẳng, tin cậy lẫn nhau, sự tôn trọng
và hiểu biết về quyền của người khác, tôn trọng pháp luật để từ đó thúc đẩy mọi
người tham gia vào mọi mặt của đời sống xã hội và cùng nhau xây dựng một “nền
văn hóa nhân quyền” chung [14]. Đó cũng là việc các cơ quan, tổ chức, cá nhân có
trách nhiệm thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến cho mỗi cá nhân trong cộng đồng

17


hiểu rõ những quyền cơ bản của họ, đồng thời giúp họ hiểu được cách thức bảo vệ
các quyền đó cũng như đạt được các kỹ năng để có thể sử dụng các quyền này trong
cuộc sống.
1.1.5. Mục đích giáo dục quyền con người
Mục đích là cái nhằm đạt được sự mong muốn, hồi bão, ý chí của một con
người hay tổ chức thông qua suy nghĩ và các hoạt động cụ thể trong cuộc sống. Mục

đích giáo dục quyền con người là một vấn đề vô cùng quan trọng trong giáo dục
quyền con người, vì khơng những nó chi phối, ảnh hưởng một cách toàn diện và sâu
sắc đến những yếu tố quan trọng khác của xã hội, mà cịn chi phối, ảnh hưởng một
cách tồn diện và sâu sắc về mọi mặt trong đời sống của con người – động lực và
mục tiêu phát triển của xã hội. Giáo dục quyền con người có nhiều mục đích khác
nhau, nhưng ta có thể dựa vào “bộ ba mục đích” của phổ biến giáo dục pháp luật
nói chung để xác định mục đích của việc giáo dục quyền con người. Mục đích giáo
dục pháp luật bao gồm ba tiêu chí:
Tiêu chí 1: đạt được mục đích nhận thức pháp luật
Tiêu chí 2: đạt được mục đích thái độ, tình cảm, niềm tin pháp luật
Tiêu chí 3: đạt được mục đích hành vi, phù hợp pháp luật [24, tr.3-8].
Giáo dục ý thức quyền con người, theo ba tiêu chí đó, cũng nhằm những mục
đích chính như sau:
Mục đích nhận thức: Giáo dục quyền con người nhằm hình thành và mở rộng tri
thức về quyền con người. Mục đích cảm xúc: giáo dục quyền con người nhằm
hình thành tình cảm và lịng tin đối với việc tôn trọng, bảo vệ và thực hiện quyền
con người. Mục đích hành vi: giáo dục quyền con người nhằm hình thành động
cơ, hành vi và thói quen xử sự hợp pháp, tích cực để bảo đảm, bảo vệ và thực
hiện quyền con người.
Mục đích giáo dục quyền con người là nhằm khơi gợi biến đổi nhận thức, năng
lực, tình cảm và thái độ của đối tượng theo hướng tích cực, góp phần hồn thiện
nhân cách đối tượng bằng những tác động có ý thức từ bên ngoài, đáp ứng các nhu
cầu tồn tại và phát triển của con người trong xã hội, nhằm xây dựng nguồn lực con

18


người – động lực của sự phát triển bền vững. Bên cạnh đó, mục đích giáo dục quyền
con người cịn tạo ra những con người phát triển tồn diện, có đạo đức, tri thức, sức
khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ

nghĩa xã hội: hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công
dân, đáp ứng yêu cầu của việc bảo vệ quyền con người và sự nghiệp xây dựng, bảo
vệ Tổ quốc.
Giáo dục quyền con người cũng đồng thời cung cấp một cơ sở cho việc giải
quyết xung đột và thúc đẩy các trật tự xã hội. Quyền của con người thường xuyên
xung đột, ví dụ khi một người vi phạm vào trật tự an toàn xã hội, họ đã xung đột với
quyền tự do của người khác. Vì vậy, hiểu biết về quyền con người cũng tạo ra một
khn khổ để phân tích và giải quyết các xung đột. Giáo dục quyền con người đồng
thời cũng là việc dạy các kỹ năng về đàm phán, thương lượng và đồng thuận. Mục
đích của giáo dục nhân quyền, theo Liên Hợp Quốc, cũng là “Xây dựng một nền
văn hóa nhân quyền tồn cầu và cho tất cả mọi người – xây dựng mối quan hệ hợp
tác trên tồn cầu vì nhân quyền – thúc đẩy sự khoan dung trong tư tưởng nhân
quyền rộng khắp thế giới” (theo Thông điệp các đại diện cao ủy Liên Hợp Quốc về
nhân quyền nhân ngày nhân quyền năm 1997).
Người ta vẫn thường kêu gọi thực hiện các phong trào giải phóng con người,
song có thể nói, chỉ có thể giải phóng con người dựa trên hiểu biết về quyền con
người. Giáo dục quyền con người thông qua chuyển giao kiến thức, xây dựng kỹ
năng và hình thành quan điểm được coi là nền tảng để thực hiện cơng tác phịng
ngừa các vi phạm và trao cho con người quyền năng để tự giải phóng mình.
Thúc đẩy quyền con người trước hết là làm cho con người nhận thức được
quyền con người để họ biết được các quyền của mình, hướng dẫn mọi người cách
sử dụng các quyền đó một cách tốt nhất. Để đạt được mục đích này cần có sự tham
gia của nhiều bên, trong đó có cả ngành giáo dục và các tổ chức phi chính phủ
(NGO).
Tổ chức Ân xá quốc tế tin rằng, học về quyền con người là bước đầu tiên hướng
tới sự tôn trọng, thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người. Các chương trình giáo

19



dục về quyền con người được xây dựng nhằm mục đích thúc đẩy việc giảng dạy về
quyền con người. Các chương trình này phải được thiết kế để giúp các giáo viên của
các trường từ mẫu giáo cho đến các trường đại học cũng như các nhà giáo dục làm
việc trong các tổ chức phi chính thức như là các tổ chức cộng đồng, các diễn đàn xã
hội, giáo dục nhân quyền… đều có thể sử dụng được nhằm để thúc đẩy các nguyên
tắc về quyền con người và hệ thống các giá trị được thiết lập bởi Tuyên ngôn thế
giới về quyền con người.
Giáo dục quyền con người giúp cho người dân cảm nhận được sự quan trọng của
quyền con người, tiếp thu các giá trị về quyền con người và hịa nhập vào nó theo
cách mà họ sống. Những giá trị và thái độ về quyền con người bao gồm:
-

Củng cố sự tôn trọng quyền con người và các quyền tự do cơ bản (Điều 30.2
Tuyên ngôn thế giới về quyền con người);

-

Giáo dục việc tôn trọng người khác và tơn trọng chính mình;

-

Hiểu về bản chất của phẩm giá con người và tôn trọng phẩm giá của người
khác;

-

Cảm thông với những người bị vi phạm quyền và đồn kết với họ;

-


Cơng nhận rằng việc mọi cơng dân đều có quyền con người là một điều kiện
tiên quyết để có một xã hội cơng bằng và nhân đạo;

-

Quan niệm rằng khía cạnh quyền con người về dân sự, xã hội, chính trị, kinh
tế và văn hóa là vấn đề gây xung đột ở khắp nơi trên thế giới;

-

Tin tưởng rằng hợp tác thì tốt hơn là xung đột.

Tóm lại, mục đích của việc giáo dục quyền con người là để hướng con người
vào việc phát triển có đủ đức, đủ tài, nói cách khác là nhằm trang bị và hoàn thiện
cho con người, làm cho cá nhân con người trở nên hữu ích hơn với gia đình và cộng
đồng xã hội…
1.2. CHỦ THỂ, KHÁCH THỂ, ĐỐI TƯỢNG GIÁO DỤC QUYỀN CON
NGƯỜI; HÌNH THỨC, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC QUYỀN
CON NGƯỜI
1.2.1. Chủ thể giáo dục quyền con người

20


Theo từ điển tiếng Việt, có thể hiểu chủ thể “là đối tượng gây ra hành động
mang tính tác động trong quan hệ đối lập với đối tượng chi phối của hoạt động tác
động, gọi là khách thể.” Lý luận giáo dục cho rằng, chủ thể giáo dục là những thày,
cô giáo và tất cả những người làm công tác giáo dục khác.
Vận dụng quan niệm trên vào giáo dục quyền con người có thể thấy rằng, tuy
đây là một dạng của giáo dục, nhưng nó có những đối tượng, phương pháp, hình

thức giáo dục khác với giáo dục trong các nhà trường. Người thực hiện hành động
giáo dục quyền con người khơng phải chỉ có những người thày, cơ giáo, những cá
nhân làm cơng tác giáo dục, mà cịn cả các tổ chức, cơ quan được giao nhiệm vụ
hoặc tự nhận nhiệm vụ giáo dục quyền con người trước cộng đồng, xã hội; hoặc các
tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ tham gia thực hiện qua các phương tiện
thông tin đại chúng, qua sách báo và ở mọi nơi, mọi lúc, vì thế nếu coi chủ thể của
giáo dục quyền con người chỉ là cá nhân những người làm cơng tác giáo dục thì sẽ
khơng đầy đủ. Ở đây, chủ thể của giáo dục quyền con người là những cá nhân,
những cơ quan, tổ chức làm công tác giáo dục trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được
giao hoặc mang tính tự nguyện, mang tính trách nhiệm xã hội đã tham gia góp phần
vào việc thực hiện các mục tiêu giáo dục quyền con người [31].
Việc xác định chủ thể của giáo dục quyền con người có ý nghĩa rất quan trọng
trong lý luận và thực tiễn hoạt động giáo dục quyền con người. Trên cơ sở mối quan
hệ, sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các chủ thể, đối tượng giáo dục trong hoạt
động giáo dục quyền con người – chủ yếu là các hoạt động có ý thức, có mục đích,
có kế hoạch của người giáo dục lên đối tượng giáo dục – cho phép xác định đúng
mức những nhu cầu, khả năng và điều kiện tiếp nhận tác động lên hoạt động giáo
dục quyền con người; cũng như cho phép xác định chính xác yêu cầu khách quan
của chủ thể giáo dục quyền con người trong việc xác định nội dung, hình thức,
phương tiện, biện pháp thích hợp để tiếp cận với đối tượng giáo dục quyền con
người một cách có hiệu quả nhất.

21


×