Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

(Luận văn thạc sĩ) quyền tham gia chính trị ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN CÔNG KHANH

QUYỀN THAM GIA CHÍNH TRỊ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con ngƣời
Mã số: Chƣơng trin
̀ h đào ta ̣o thí điể m

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN HOÀNG ANH

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Công Khanh




MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN THAM GIA CHÍNH TRỊ ....... 8
1.1.

Chính trị và hệ thống chính trị ......................................................... 8

1.1.1. Chính trị................................................................................................ 8
1.1.2. Hệ thống chính trị ................................................................................. 9
1.1.3. Các yếu tố cấu thành của Hệ thống chính trị ..................................... 11
1.1.4. Nguyên tắc hoạt động của hệ thống chính trị..................................... 12
1.1.5. Hệ thống chính trị ở Việt Nam ........................................................... 14
1.2.

Quyền tham gia chính trị ................................................................. 18

1.2.1. Khái niệm ........................................................................................... 18
1.2.2. Quyền tham gia chính trị theo quy định của luật quốc tế .................. 21
1.2.3. Chủ thể của Quyền tham gia chính trị................................................ 21
1.2.4. Các yếu tố cấu thành Quyền tham gia chính trị ................................. 23
1.3.

Ý nghĩa của Quyền tham gia chính trị và Các yếu tố ảnh

hƣởng đến Quyền tham gia chính trị ................................................ 28

1.3.1. Vị trí, vai trị của Quyền tham gia chính trị ....................................... 28
1.3.2.

Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện Quyền tham gia chính trị ........ 30

1.4.

Quan điểm của Đảng, nhà nƣớc Việt Nam về Quyền tham
gia chính trị ....................................................................................... 34

Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 39


Chƣơng 2: QUYỀN THAM GIA CHÍNH TRỊ TRONG PHÁP
LUẬT VÀ TRONG THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .... 40
2.1.

Quy định của pháp luật Việt Nam về Quyền tham gia chính trị .... 40

2.1.1. Các quyền tham gia trực tiếp.............................................................. 40
2.1.2. Quyền bầu cử, ứng cử ........................................................................ 46
2.1.3. Quyền giám sát ................................................................................... 52
2.2.

Việc thực hiện quyền tham gia chính trị ở Việt Nam hiện nay.... 55

2.2.1. Quyền tham gia quản lý nhà nước một cách trực tiếp ....................... 55
2.2.2. Quyền bầu cử, ứng cử ........................................................................ 59

2.2.3. Các quyền giám sát ............................................................................ 65
Tiểu kết Chƣơng 2 ......................................................................................... 73
Chƣơng 3: MỘT SỐ PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM
QUYỀN THAM GIA CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .......74
3.1.

Một số phƣơng hƣớng bảo đảm Quyền tham gia chính trị ở
Việt Nam hiện nay ............................................................................ 74

3.1.1. Thể chế hoá các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng,
Nhà nước về quyền tham gia chính trị ............................................... 74
3.1.2. Tuyên truyền, nâng cao nhận nhận thức của nhân dân ...................... 75
3.1.3. Tích cực, chủ động trong đối thoại, hợp tác quốc tế về lĩnh vực
quyền con người ................................................................................. 76
3.2.

Một số giải pháp bảo đảm Quyền tham gia chính trị ở Việt
Nam hiện nay .................................................................................... 77

3.2.1. Về xây dựng và thực thi pháp luật ..................................................... 77
3.2.2. Tăng cường hiệu quả hoạt động của xã hội dân sự, đặc biệt là
các tổ chức chính trị - xã hội .............................................................. 89
3.2.3. Bảo đảm các quyền chính trị cơ bản .................................................. 91


3.2.4. Tăng cường dân chủ cơ sở ................................................................. 92
3.2.5. Thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia ............................................ 95
Tiểu kết chƣơng 3 .......................................................................................... 97
KẾT LUẬN .................................................................................................... 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 101



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

UDHR

Tuyên ngôn quốc tế về Nhân quyền, 1948 (The Universal
Declaration of Human Rights)

ICCPR

Công ước quốc tế về các quyền Dân sự, Chính trị, 1966
(International Convenant on Civil and Political Rights)


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là những giá trị tốt đẹp, kết tinh từ nền văn hóa của
các dân tộc trên thế giới, bảo đảm quyền con người là mục tiêu mà toàn nhân
loại đang hướng đến nhằm xây dựng một thế giới hịa bình, ổn định, mọi
người dân không phân biệt dân tộc, tôn giáo, màu da, giới tính, nguồn gốc
xuất thân, địa vị xã hội… được thực sự bình đẳng, tự do, hạnh phúc.
Cùng với sự ra đời của Tuyên ngôn quốc tế về Nhân quyền năm 1948
(UDHR), Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị (ICCPR) và Cơng
ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội (ICCSCR) năm 1966,
Quyền con người chính thức được pháp điển hóa và trở thành hệ thống tiêu
chuẩn pháp luật quốc tế có tính chất bắt buộc với mọi quốc gia.
Nếu việc tôn trọng và Bảo đảm quyền con người là thước đo đánh giá
sự phát triển, tiến bộ của mỗi quốc gia, thì quá trình thúc đẩy và bảo vệ những
quyền đó lại là những nghĩa vụ đặc biệt của tất cả các thành phần, các tầng

lớp, các dân tộc trên thế giới.
Trong những năm gần đây, khi xã hội ngày càng phát triển, cùng với
những thành tựu của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đời sống cũng
như nhận thức của nhân dân ngày càng được nâng cao. Đảng và nhà nước
ngày càng quan tâm hơn đến bảo đảm các quyền con người, quyền công dân.
Đến nay,Việt Nam đã tham gia hầu hết các công ước quốc tế về quyền con
người, trở thành thành viên Hội đồng nhân quyền liên hợp quốc nhiệm kỳ
2014 - 2016. Ở cấp độ quốc gia, từ Hiến pháp 2013, quyền con người, quyền
công dân trở thành chế định trong Hiến pháp, được bảo đảm thực hiện bằng
Hiến pháp và pháp luật. Điều này, thể hiện sự coi trọng của Đảng, nhà nước
đối với các hoạt động bảo đảm, thực thi quyền con người ở Việt Nam, phù

1


hợp với chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây
dựng nhà nước Việt Nam của dân, do dân, vì dân, thực hiện đúng phương
châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra mà Đảng đã đề ra tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI:
Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, tôn trọng và bảo đảm
quyền công dân; chống tệ quan liêu cửa quyền, ức hiếp quần chúng
trong bộ máy lãnh đạo và quản lý các cấp. Thực hiện có nền nếp
khẩu hiệu dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra; tất cả vì dân và
do dân. Động viên và tổ chức quần chúng tham gia quản lý kinh tế,
quản lý xã hội, tham gia các hoạt động cải cách kinh tế [4].
Trong số các Quyền con người, Quyền tham gia chính trị nằm trong
nhóm quyền dân sự, chính trị, được quy định tại Điều 25 Tuyên ngôn quốc tế
về Nhân quyền 1948 (UDHR), sau đó được tái khẳng định và cụ thể hóa trong
Điều 21 Cơng ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị 1966 (ICCPR).
Quyền tham gia chính trị có thể hiểu là quyền của người dân trực tiếp

hoặc gián tiếp tham gia vào các hoạt động quản lý và điều hành đất nước. Cơ
sở của Quyền tham gia chính trị của cơng dân trước hết xuất phát từ bản chất
nhà nước Việt Nam là nhà nước của dân, do nhân dân làm chủ. Bảo đảm
quyền tham gia chính trị, quyền tham gia quản lý nhà nước trực tiếp hoặc gián
tiếp của nhân dân cũng chính là bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Đồng
thời, nhận thức được vai trò của quần chúng nhân dân với tư cách là lực lượng
quan trọng quyết định mọi thắng lợi trong sự nghiệp cách mạng, Đảng và Nhà
nước luôn xác định muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, cần phát
huy trí tuệ tập thể, sức mạnh tồn dân, tăng cường sự tham gia đóng góp của
người dân vào mọi hoạt động của đời sống chính trị.
Tuy nhiên, đến nay, những quy định của Pháp luật về quyền con người
nói chung và quyền tham gia chính trị của cơng dân nói riêng đang trong q

2


trình xây dựng, hồn thiện nên cịn nhiều hạn chế như: Quyền trưng cầu dân ý
đã được ghi nhận trong Hiến pháp nhưng chưa được luật hóa để triển khai
thực hiện trên thực tế; hoặc Quyền khiếu nại tố cáo dù đã được quy định
tương đối hồn chỉnh song cơng tác tổ chức thực hiện vẫn mang tính hình
thức… Điều này dẫn đến khó khăn trong q trình triển khai các chính sách
thực thi và bảo đảm quyền con người nói chung và quyền tham gia chính trị
nói riêng. Bên cạnh đó, cơng tác tun truyền giáo dục về quyền con người,
quyền công dân chưa thực sự hiệu quả dẫn đến tình trạng đại đa số người dân
và một bộ phận không nhỏ cán bộ công chức, những người trực tiếp xây dựng
và thực thi pháp luật cũng chưa nhận thức được đầy đủ về quyền tham gia
chính trị của cơng dân, chưa ý thức được vai trị của làm chủ của nhân dân.
Chính vì những lý do trên, mà tác giả đã chọn chủ đề “Quyền tham gia
chính trị ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình, nhằm
góp phần tích cực vào việc đề xuất những phương hướng, giải pháp trong

hoạch định và thực thi chính sách pháp luật, góp phần thúc đẩy và bảo đảm
thực thi quyền tham gia chính trị ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, các đề tài liên quan đến quyền tham gia chính trị được
nhiều cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, trường đại học, viện nghiên cứu, tổ
chức liên chính phủ, tổ chức phi chính phủ đặc biệt quan tâm. Đặc biệt, trong
thời đại hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, vấn đề quyền con người ngày càng
được chú trọng, chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền, dân chủ, của dân,
do dân, vì dân thì các cơng trình nghiên cứu quyền tham gia chính trị của
cơng dân ngày càng phong phú, đa dạng.
Tuy nhiên, các nghiên cứu đó chỉ dừng lại ở mức độ chung, khái quát
về các quyền cụ thể như quyền trưng cầu ý dân, bầu cử ứng cử, khiếu nại tố
cáo... Tính đến thời điểm hiện tại, chưa có một cơng trình nào nghiên cứu cụ

3


thể, tồn diện, đi sâu về Quyền tham gia chính trị ở Việt Nam dưới góc nhìn
từ chính sách đến thực tiễn thi hành.
Ở nước ta, trong những năm qua, có một số cơng trình liên quan nghiên
cứu về Quyền tham gia chính trị, tiêu biểu như sau:
Phạm Hồng Thái (2012) “Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội
của công dân trong Hiến pháp 1992 và những vấn đề cần sửa đổi bổ sung”
Sửa đổi bổ sung Hiến pháp 1992, những vấn đề lý luận và thực tiễn, Tập I, tr
173-189, Nxb Hồng Đức.
Đào Trí Úc (2012), “Chế định chủ quyền nhân dân và việc sửa đổi
Hiến pháp 1992” Tạp chí nghiên cứu lập pháp, Số 17, trang 3-6, Văn phòng
Quốc hội, Hà Nội.
Vũ Văn Nhiêm (2009), “Chế độ bầu cử ở Việt Nam - những vấn đề lý luận
và thực tiễn”, Luận án Tiến sỹ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

Thái Vĩnh Thắng (2009)“Những bất cập của chế độ bầu cử ở Việt Nam
hiện nay”, Sửa đổi bổ sung Hiến pháp 1992, những vấn đề lý luận và thực
tiễn, Tập I, tr 173-190, Nxb Hồng Đức.
Có thể thấy, tài liệu về các quyền cụ thể của quyền tham gia chính trị
như bầu cử ứng cử, trưng cầu ý dân, khiếu nại tố cáo… khá phong phú, song
tính đến thời điểm hiện tại, chưa có bất kỳ cơng trình khoa học nào nghiên
cứu một cách tổng hợp và chuyên sâu về quyền tham gia chính trị của cơng
dân dưới góc độ pháp luật về quyền con người. Luận văn mong muốn sẽ góp
phần làm phong phú hơn nguồn tài liệu về lĩnh vực này, đồng thời, bổ sung
thêm kiến thức về Quyền tham gia chính trị ở Việt nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài hướng tới mục tiêu: tập hợp và xây dựng nền tảng lý luận về
quyền tham gia chính trị, đánh giá pháp luật và thực hiện pháp luật về Quyền

4


tham gia chính trị ở Việt Nam và trên cơ sở đó thử đề xuất kiến giải hồn
thiện pháp luật trên lĩnh vực này.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu, làm rõ vấn đề lý luận về quyền tham gia chính trị ở Việt
Nam; Nghiên cứu quy định của pháp luật Việt Nam trên cơ sở so sánh, đối
chiếu với pháp luật quốc tế về Quyền tham gia chính trị ở Việt Nam hiện nay.
- Đánh giá thực trạng việc thực thi pháp luật về Quyền tham gia chính
trị ở Việt Nam hiện nay: những thành tựu đạt được, hạn chế tồn tại, và rút ra
được nguyên nhân của thành tựu, hạn chế đó.
- Từ đó, đưa ra khuyến nghị nhằm cải thiện tính bất cập của pháp luật
và đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm quyền tham gia chính trị ở Việt Nam
hiện nay.

4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn sẽ tập trung vào các vấn đề sau:
- Quy định của Pháp luật Việt Nam hiện nay về Quyền tham gia chính trị.
- Thực trạng pháp luật Việt Nam về Quyền tham gia chính trị trong giai
đoạn hiện nay.
- Đánh giá tính đúng đắn, mức độ phù hợp giữa các quy định trong
pháp luật Việt Nam với tình hình thực tế, đồng thời xem xét các yếu tố tác
động tới việc thực thi pháp luật về bảo đảm quyền quyền tham gia chính trị.
Do phạm vi nghiên cứu của đề tài rộng, liên quan đến nhiều vấn đề,
nhiều quyền cụ thể như quyền tham gia trực tiếp, gián tiếp, quyền trưng cầu ý
dân, bầu cử ứng cử, khiếu nại tố cáo… nên đề tài chỉ dừng ở mức tổng hợp,
khái quát quyền tham gia chính trị qua đó đưa ra một số giải pháp nhằm bảo
đảm hơn nữa quyền tham gia chính trị ở Việt Nam hiện nay.
5. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy

5


vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin; Các
nguyên tắc nền tảng của luật nhân quyền quốc tế; Các quan điểm về quyền
quyền tham gia chính trị.
- Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: phân tích, tổng
hợp, xã hội học, thống kê, so sánh, đánh giá… để làm sáng tỏ các vấn đề liên
quan, đồng thời học hỏi kinh nghiệm thực tiễn của các nhà nghiên cứu về vấn
đề quyền quyền tham gia chính trị.
6. Kết quả và ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần cung cấp những tri thức
khoa học cơ bản mang tính lý luận về bảo đảm quyền tham gia chính trị; giúp
người đọc nhận thức đầy đủ và tồn diện hơn quan điểm, chủ trương, chính

sách của Đảng và Nhà nước về quyền tham gia chính trị ở Việt Nam hiện nay.
Luận văn cũng đã tổng hợp và đi sâu phân tích đánh giá thực trạng các
quyền tham gia chính trị ở Việt Nam. Từ đó, là cơ sở cho việc nghiên cứu, bổ
sung để hoàn chỉnh hơn các quyền, cách thức bảo đảm Quyền tham gia chính
trị ở Việt Nam hiện nay.
7. Điểm mới của luận văn
Luận văn là một trong những cơng trình nghiên cứu đầu tiên, có tính hệ
thống về vấn đề Quyền tham gia chính trị ở Việt Nam hiện nay, với những
điểm mới nổi bật như sau:
- Thông qua việc làm sáng tỏ những vấn đề chung có liên quan đến
quyền tham gia chính trị, luận văn đã đưa ra được khái niệm quyền tham
gia chính trị.
- Bổ sung các quyền giám sát của công dân như quyền khiếu nại, tố
cáo, khởi kiện hành chính… là những quyền khơng được nêu trong Cơng
ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị (ICCPR), Tuyên ngôn quốc tế về
Nhân quyền (UDHR). Làm cụ thể hóa một số nội dung quyền tham gia

6


chính trị hiện diện trong pháp luật Việt Nam thơng qua việc so sánh với các
quyền chính trị dân sự trong các văn kiện quốc tế.
- Đánh giá có hệ thống và khái quát về pháp luật và nêu rõ những thành
tựu, hạn chế của quyền tham gia chính trị ở Việt Nam hiện nay trong các lĩnh
vực cụ thể.
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp theo lăng kính của luật nhân quyền
nhằm bảo đảm quyền tham gia chính trị như một quyền cơ bản của con người
trong các lĩnh vực: xây dựng, thực thi các chính sách pháp luật.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Phần Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo,

kết cấu luận văn chia làm ba chương như sau:
Chương 1. Lý luận chung về Quyền tham gia chính trị.
Chương 2. Quyền tham gia chính trị trong Pháp luật và trong thực tiễn
ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3. Một số phương hướng và giải pháp bảo đảm quyền tham
gia chính trị ở Việt Nam hiện nay.

7


Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN THAM GIA CHÍNH TRỊ
1.1. Chính trị và hệ thống chính trị
1.1.1. Chính trị
Thuật ngữ “Chính trị” được nhắc đến khá sớm trong lịch sử bởi các
Triết gia như Plato, Aristotle, Khổng Tử… Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn
lịch sử khác nhau, thì quan niệm về chính trị cũng như chủ thể tham gia chính
trị cũng hồn tồn khác nhau.
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, khi quyền lực nhà
nước thuộc về một người (vua) hoặc một nhóm người (giai cấp q tộc,
chủ nơ), người dân chỉ có nghĩa vụ phục tùng vơ điều kiện mà khơng có
quyền tham gia vào các hoạt động quản lý và điều hành đất nước, khi đó
chính trị có nghĩa là nghệ thuật cai trị và quản lý đất nước hay Khoa học
giành và nắm giữ quyền lực.
Bước sang thời kỳ Nhà nước tư bản, các trào lưu triết học ánh sáng thế
kỷ 18 đã được hình thành với sự xuất hiện của nhiều nhà tư tưởng lỗi lạc như
Rousseau, Montesquier, Thomas Paine… Từ đó, hàng loạt học thuyết về chủ
nghĩa tự do, khẳng định quyền sống, quyền tự do, an ninh thân thể, quyền tự
do tôn giáo, tự do ngôn luận cũng ra đời. Đặc biệt là tác phẩm Khế ước xã hội
của J. Rousseau với một lý thuyết hoàn toàn mới về nguồn gốc và bản chất

của Nhà nước. Theo J.Rousseau, Nhà nước không phải là một thế lực thống
trị xã hội mà là một tổ chức quyền lực công, được người dân trao cho quyền
lực và đổi lại họ được sống dưới sự bảo vệ của Nhà nước trong một trật tự
luật pháp do Nhà nước ban hành (luật pháp không trái với đạo đức và luân
lý). Dưới nhãn quan triết học này, quyền lực chính trị xuất phát từ dân chúng,
nó được tạo lập để phục vụ xã hội. Từ đây, Chính trị được hiểu là nghệ thuật

8


hay khoa học vận hành và quản lý xã hội bằng quyền lực Nhà nước nhưng nó
phải bị hạn chế bằng luật pháp và được giám sát bởi người dân thông qua các
tổ chức xã hội, nghề nghiệp, tôn giáo.
Ở Việt Nam, theo Từ điển Bách khoa, Chính trị là tồn bộ những hoạt
động có liên quan đến các mối quan hệ giai cấp, dân tộc, quốc gia và các tầng
lớp xã hội, mà cốt lõi là vấn đề giành chính quyền, duy trì và sử dụng quyền
lực nhà nước, xác định hình thức tổ chức, nhiệm vụ nội dung hoạt động của
nhà nước [38]. Như vậy, chính trị bao giờ cũng gắn liền với giai cấp. Theo
V.I Lênin:“Chính trị phải là việc của nhân dân, việc của giai cấp vô sản"
[43]. Khái quát lại, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, chính trị là
mối quan hệ giữa các giai cấp, quốc gia xoay quanh vấn đề giành, giữ và thực
thi quyền lực chính trị, mà tập trung nhất là quyền lực nhà nước.
Có thể thấy, quyền tham gia chính trị phải dựa trên cơ sở quyền lực
chính trị, và thuộc về đối tượng nắm giữ quyền lực chính trị. Trong chế độ xã
hội chủ nghĩa, với vị trí là chủ đất nước,người dân thuộc mọi thành phần,
khơng phân biệt tầng lớp đều có đủ tư cách để tham gia trực tiếp hoặc gián
tiếp vào đời sống chính trị thông qua những hoạt động xã hội cụ thể của mình.
1.1.2. Hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị là một trong những vấn đề cơ bản, chi phối mọi mặt
đời sống chính trị - xã hội của các quốc gia. Để xác định đối tượng tác động

của quyền tham gia chính trị, theo tác giả cần làm rõ khái niệm hệ thống
chính trị, các yếu tố cấu thành hệ thống chính trị.
Khi xã hội lồi người xuất hiện chế độ tư hữu, xã hội cũng bắt đầu phân
hoá thành các nhóm xã hội, giai tầng có địa vị khác nhau, có quyền và lợi ích
khác nhau. Các nhóm xã hội, tầng lớp này dần hình thành các lực lượng chính
trị - xã hội. Nhằm bảo vệ, củng cố lợi ích của mình, mỗi nhóm xã hội, mỗi
giai tầng, mỗi lực lượng chính trị xã hội đã thiết lập các thiết chế xã hội đặc

9


trưng. Trong quá trình tồn tại và phát triển, giữa các thiết chế chính trị - xã
hội ln có sự liên hệ ràng buộc, tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau hình
thành nên hệ thống chính trị - xã hội. Như vậy có thể hiểu hệ thống chính trị
là liên minh các thiết chế chính trị - xã hội có liên hệ mật thiết, tồn tại và hoạt
động nhằm bảo đảm sự tồn tại và phát triển của tồn xã hội đồng thời bảo vệ
lợi ích, thực hiện những mục đích của giai cấp thống trị trong xã hội.
Về cấu trúc hình thức, hệ thống chính trị là một tập hợp các thiết chế
chính trị - xã hội được thành lập và hoạt động vì những mục đích chính trị xã
hội khác nhau. Các thiết chế đó gồm có nhà nước, các đảng phái chính trị, các
tổ chức đồn thể chính trị - xã hội, trong đó nhà nước là tổ chức quan trọng
nhất. Các tổ chức đó được sắp xếp theo một trật tự khách quan, khoa học và
ln có mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau [30].
Về nội dung, hệ thống chính trị được hiểu là một cơ chế thực hiện
quyền lực chính trị trong xã hội. Có thể nói, quyền lực chính trị là cốt lõi của
Hệ thống chính trị. Quyền lực đó được vật chất hố bằng các thiết chế chính
trị xã hội và được biểu hiện thơng qua các quan hệ chính trị giữa các lực
lượng chính trị - xã hội. Đây là khái niệm phản ánh đặc trưng của những quan
hệ quyền lực chính trị; cũng như các bộ phận, các nhân tố tham gia vào các
q trình, quy trình chính trị trong thể chế chính trị dân chủ hiện đại (dân chủ

xã hội chủ nghĩa, dân chủ tư bản chủ nghĩa) [8].
Tuỳ theo các cách tiếp cận khác nhau về nội dung, hình thức hay
cách thức tổ chức vận hành của hệ thống chính trị mà có nhiều cách định
nghĩa về Hệ thống chính trị. Nhưng xét một cách nhất quán nhất có thể
định nghĩa: “Hê ̣ thớ ng chính tri ̣ là một chỉnh thể

thống nhất bao gồm các

bộ phận cấu thành là các thiết chế chính trị có vị trí, vai trị khác nhau
nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình tham gia thực
hiện quyền lực chính trị” [8].

10


Từ quan điểm trên có thể xem Hệ thống chính trị là khái niệm dùng để
chỉ một chỉnh thể bao gồm các tổ chức như: Đảng chính trị, nhà nước, các tổ
chức chính trị - xã hội (hợp pháp); với những quan hệ tác động qua lại giữa
các nhân tố đó trong việc tham gia vào các q trình hoạch định và thực thi
các quyết sách chính trị nhằm bảo đảm quyền thống trị của giai cấp, lực lượng
cầm quyền, đồng thời đáp ứng nhu cầu ổn định và phát triển xã hội.
1.1.3. Các yếu tố cấu thành của Hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị được cấu thành từ nhiều bộ phận chức năng khác
nhau. Có thể coi mỗi bộ phận đó là một tiểu hệ thống của hệ thống chính trị.
Như vậy, cấu trúc của hệ thống chính trị gồm các bộ phận sau:
- Đảng chính trị, là một hiện tượng đặc thù của xã hội có phân chia giai
cấp và đấu tranh giai cấp. Đảng chính trị - yếu tố cơ bản của hệ thống chính
trị, hệ thống tổ chức quyền lực chính trị, của chế độ chính trị và xã hội cơng
dân - là cơng cụ tập hợp của một giai cấp; tổ chức lãnh đạo đấu tranh giai cấp
vì mục tiêu giành, giữ, sử dụng quyền lực nhà nước và định hướng chính trị

cho phát triển xã hội.
- Nhà nước, là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị được giai
cấp thống trị thành lập nhằm thực hiện quyền lực chính trị của mình. Nhà
nước vì thế mang bản chất giai cấp. Nhà nước xuất hiện kể từ khi xã hội loài
người bị phân chia thành những lực lượng giai cấp đối kháng nhau; nhà
nước là bộ máy do lực lượng nắm quyền thống trị (kinh tế, chính trị, xã hội)
thành lập nên, nhằm mục đích điều khiển, chỉ huy tồn bộ hoạt động của xã
hội trong một quốc gia, trong đó chủ yếu để bảo vệ các quyền lợi của lực
lượng thống trị.
- Các tổ chức chính trị - xã hội (hợp pháp) bao gồm các tổ chức mà hoạt
động của chúng vừa mang tính chính trị, vừa mang tính xã hội. Tùy theo điều
kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở mỗi nước mà các tổ chức chính trị xã hội có

11


đặc điểm riêng về tổ chức và phương thức hoạt động. Thông thường các tổ
chức này không đặt ra mục tiêu giành hoặc tham gia chính quyền; mà thường
vì lợi ích của các thành viên trong tổ chức của mình tìm cách tác động, gây
ảnh hưởng đối với chính quyền và đảng phái chính trị [38].
1.1.4. Nguyên tắc hoạt động của hệ thống chính trị
Mỗi hệ thống chính trị có những nguyên tắc và cơ chế vận hành riêng
từ đó các quan hệ, hành vi chính trị được định hướng và tạo thành một bộ
phận hữu cơ của hệ thống. Ngày nay, ở nhiều nước trên thế giới phổ biến một
số nguyên tắc sau:
- Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân, nhà nước do nhân dân lập ra, thông qua hoạt động bầu cử, nhân dân
trao quyền lực chính trị của mình cho nhà nước để thay mặt mình, thực hiện
cơng việc quản lý, điều hành đất nước. Do đó, trong mọi hoạt động, Nhà nước

luôn phải đảm bảo cho người dân thực hiện quyền lực chính trị của mình bằng
các hình thức dân chủ trực tiếp hoặc gián tiếp. Từ nguyên tắc này, phát sinh
một loạt các nguyên tắc sinh hoạt và ứng xử chính trị khác liên quan đến việc
bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
- Ủy quyền có điều kiện và có thời hạn:
Nguyên tắc này xác định ai là người có thể được ủy quyền và ủy quyền
trong bao lâu. Để bảo đảm nguyên tắc này phải xây dựng thể chế bầu cử bao
gồm lựa chọn các ứng viên, thể thức bầu cử và thủ tục truất quyền khi cần thiết.
- Nguyên tắc dân chủ
Bản chất của nguyên tắc này là tạo các điều kiện kinh tế - xã hội và
pháp lý để nhân dân tham gia ngày càng nhiều và thực chất vào công việc nhà
nước, tự quyết định vận mệnh của mình thơng qua các cơ chế dân chủ.
Những biểu hiện cụ thể của nguyên tắc này là:

12


(1) Công khai các hoạt động của nhà nước.
(2) Tạo điều kiện để dân tiếp cận thông tin.
(3) Tạo điều kiện để dân bày tỏ nguyện vọng (dân chủ trực tiếp, gián tiếp).
(4) Bầu cử tự do để nhân dân lựa chọn các đại biểu và thể hiện ý chí,
phải hỏi dân khi quyết định những vấn đề quan trọng.
(5) Thiểu số phục tùng quyết định của đa số, đa số tôn trọng và bảo vệ
thiểu số.
- Nguyên tắc thống nhất - phân quyền
Đây là hai mặt của một vấn đề trong đời sống chính trị. Khơng có
thống nhất và tập trung quyền lực đủ mức thì sẽ khơng có quyền lực chính trị
hoặc quyền lực nhà nước và sẽ khơng có quyền để phân chia (hoặc phân
cơng); khơng có thống nhất thì khơng cịn quyền lực nhà nước (tức là chỉ cịn
quyền lực tập đồn hoặc quyền lực cát cứ).

Sự thống nhất quyền lực nhà nước thể hiện:
(1) Xã hội cơng dân thống nhất, trên đó xây dựng nhà nước;
(2) Lãnh thổ quốc gia dân tộc thống nhất;
(3) Ý chí nhân dân được tổng hợp lại thành những văn bản (khế ước) có
tính pháp lý hợp pháp (hiến pháp và pháp luật...) từ đây xây dựng những thể
chế quyền lực thống nhất (cơ quan đại biểu cao nhất, cơ quan hành chính cao
nhất, cơ quan xét xử cao nhất...).
(4) Thống nhất bởi đảng cầm quyền. Đảng cầm quyền chi phối hệ
thống chính trị bằng các phương thức chính trị như ảnh hưởng cương lĩnh,
đường lối, nêu gương, tổ chức, vận động giáo dục...
Quyền lực là thống nhất nhưng cần có sự phân quyền để tạo sự kiểm
sốt trở lại với quyền lực nhà nước. Nếu khơng có sự kiểm soát, sẽ dẫn đến
chuyên quyền, sử dụng tuỳ tiện quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, khơng thể
kiểm sốt quyền lực nhà nước trong tình trạng quyền lực đó khơng được phân

13


chia. Hiện nay, các nước trên thế giới thường phân chia quyền lực nhà nước
thành ba nhánh: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong đó, quyền lập pháp
được giao cho nghị viện, quyền hành pháp được giao cho chính phủ, quyền tư
pháp được giao cho toà án. Các cơ quan này hoạt động độc lập tương đối, tạo
thành cơ chế giám sát lẫn nhau.
Sự tập trung quyền lực quá đáng sẽ dẫn đến sự chuyên quyền, độc
đoán; ngược lại sự phân tán quyền lực quá mức sẽ dẫn đến tình trạng cát cứ,
quyền lực nhà nước thiếu thống nhất và yếu đi. Do đó, để sử dụng quyền lực
nhà nước có hiệu quả cùng với sự phân cơng khoa học, cần có cơ chế phối
hợp chặt chẽ thì địi hỏi phải có sự kiểm sốt quyền lực trong từng cơ quan,
giữa các cơ quan nhà nước và sự kiểm sốt của nhân dân, của các tổ chức
chính trị, xã hội đối với nhà nước.

1.1.5. Hệ thống chính trị ở Việt Nam
Ở Việt Nam hiện nay, giai cấp công nhân và nhân dân lao động đang là
chủ thể chân chính của quyền lực. Vì vậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, hệ
thống chính trị là cơng cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động và
bao gồm nhiều tổ chức, mỗi tổ chức có vị trí, vai trị khác nhau nhưng cùng
tác động vào các quá trình phát triển kinh tế - xã hội nhằm bảo đảm quyền lực
của nhân dân, cụ thể:
- Đảng Cộng sản Việt Nam:
Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp cơng nhân, đại
biểu trung thành lợi ích giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân
tộc. Đảng là một bộ phận của hệ thống chính trị nhưng lại là hạt nhân lãnh
đạo của toàn bộ hệ thống chính trị. Vai trị lãnh đạo của Đảng thể hiện trên
những nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược,
những quan điểm, chủ trương phát triển kinh tế-xã hội; đồng thời Đảng là
người lãnh đạo và tổ chức thực hiện Cương lĩnh, đường lối của Đảng.

14


Thứ hai, Đảng lãnh đạo xã hội chủ yếu thông qua Nhà nước và các
đoàn thể quần chúng. Đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng được Nhà
nước tiếp nhận, thể chế hoá cụ thể bằng pháp luật và những chủ trương, chính
sách, kế hoạch, chương trình cụ thể. Vì vậy, Đảng luôn quan tâm đến việc xây
dựng Nhà nước và bộ máy của Nhà nước, đồng thời kiểm tra việc Nhà nước
thực hiện các Nghị quyết của Đảng.
Thứ ba, Đảng lãnh đạo xã hội thông qua hệ thống tổ chức Đảng các cấp
và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Đảng lãnh đạo công tác cán bộ bằng
việc xác định đường lối, chính sách cán bộ, lựa chọn, bố trí, giới thiệu cán bộ
có đủ tiêu chuẩn vào các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước và các đồn thể

quần chúng và các tổ chức chính trị - xã hội.
Ngồi ra, Đảng cịn lãnh đạo bằng phương pháp giáo dục, thuyết phục
và nêu gương, làm công tác vận động quần chúng; lãnh đạo thực hiện tốt
quy chế dân chủ...
- Nhà nước:
Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị ở nước ta, là cơng cụ tổ chức
thực hiện ý chí và quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách
nhiệm trước nhân dân để quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Mặt
khác, Nhà nước chịu sự lãnh đạo của giai cấp cơng nhân, thực hiện đường lối
chính trị của Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà nước thực hiện và bảo đảm đầy đủ
quyền làm chủ của nhân dân.
Như vậy, Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là cơ quan quyền lực, vừa là
bộ máy chính trị, hành chính, vừa là tổ chức quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội
của nhân dân. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối
hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp.
Trong đó, Quốc hội là cơ quan lập pháp, cơ quan đại diện cao nhất của

15


nhân dân do nhân dân trực tiếp bầu ra, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất
có quyền lập ra Hiến pháp và luật pháp (lập hiến và lập pháp). Quốc hội quyết
định những chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ phát triển kinh
tế - xã hội, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy
Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân. Quốc hội thực hiện
quyền giám sát tối cao với tồn bộ hoạt động của Nhà nước.
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao
nhất của nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ thống nhất

quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội, an
ninh, quốc phòng và đối ngoại của Nhà nước. Chính phủ là cơ quan chấp
hành, chịu trách nhiệm trước Quốc hội và phải báo cáo công tác với Quốc hội.
Trên ý nghĩa đó, Chính phủ được gọi là cơ quan hành pháp.
Cơ quan tư pháp gồm: Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân các
cấp. Đây là những cơ quan được lập ra trong hệ thống tổ chức Nhà nước để
xử lý những tổ chức và cá nhân vi phạm pháp luật, bảo đảm việc thực thi
pháp luật một cách nghiêm minh, chính xác.
Tồ án các cấp là cơ quan nhân danh Nhà nước, thể hiện thái độ và ý
chí của Nhà nước trước các vụ án thông qua hoạt động độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật. Tồ án là cơ quan duy nhất có quyền áp dụng chế tài hình sự,
khơng ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của
tồ án đã có hiệu lực pháp luật.
Để bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, bảo đảm việc xét
xử đúng người đúng tội, Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức thành hệ thống,
tập trung thống nhất và độc lập thực hiện thẩm quyền của mình đối với các cơ
quan khác của Nhà nước. Chức năng chính của Viện kiểm sát là Thực hành
quyền công tố, kiểm sát các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử... nhằm bảo

16


đảm mọi hành vi phạm tội đều được xử lý nhanh chóng, kịp thời, chống bỏ lọt
tội phạm, làm oan người vơ tội. Với ý nghĩa đó, Tồ án, Viện kiểm sát được
gọi là cơ quan tư pháp.
- Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội...
Đây là những tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp được tổ chức để tập
hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản đại diện
cho lợi ích của nhân dân, tham gia vào hệ thống chính trị, tuỳ theo tính chất,
tơn chỉ, mục đích của mình nhằm bảo vệ quyền lợi dân chủ của nhân dân.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đồn thể nhân dân có vai trị rất quan
trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất
nước; phát huy dân chủ, nâng cao trách nhiệm cơng dân của các hội viên,
đồn viên, giữ gìn kỷ cương phép nước, thúc đẩy cơng cuộc đổi mới, thắt chặt
mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đồn thể nhân dân là cơ sở chính trị
của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí và nguyện vọng; phát huy khả
năng tham gia bầu cử Quốc hội và Hội đồng Nhân dân; tuyên truyền vận động
nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; thực hiện
giám sát của nhân dân với cán bộ, công chức và giải quyết những mâu thuẫn
trong nội bộ nhân dân.
Các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân có nhiệm vụ giáo dục chính
trị tư tưởng, động viên và phát huy tính tích cực xã hội của các tầng lớp nhân
dân, góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị; chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng
và hợp pháp của nhân dân; tham gia vào công việc quản lý Nhà nước, quản lý
xã hội, giữ vững và tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và
nhân dân, góp phần thực hiện và thúc đẩy q trình dân chủ hố và đổi mới xã
hội, thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức theo một hệ thống từ Trung

17


ương đến cơ sở. Cơ sở phân cấp theo quản lý hành chính gồm có xã,
phường, thị trấn. Hệ thống chính trị ở cơ sở bao gồm: Tổ chức cơ sở Đảng,
Hội đồng Nhân dân xã, phường; Uỷ ban Nhân dân xã, phường; Mặt trận Tổ
quốc xã, phường và các tổ chức chính trị - xã hội khác như: Đồn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến
binh xã, phường, thị trấn…
Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trị rất quan trọng trong việc tổ chức

và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế-xã hội, tổ chức cuộc
sống của cộng đồng dân cư.
1.2. Quyền tham gia chính trị
1.2.1. Khái niệm
Tư tưởng về quyền tham gia chính trị (Right of political participation)
xuất hiện từ rất sớm cùng với các tư tưởng về dân chủ, tự do, bình đẳng, đặc
biệt là sau cuộc cách mạng tư sản - cuộc cách mạng lật đổ sự chuyên chế,
xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, tự do. Theo đó, quyền lực nhà nước
phải thuộc về nhân dân, đưa nhân dân từ địa vị bị thống trị, trở thành người
chủ của đất nước, có quyền trực tiếp hay gián tiếp tham gia quản lý, quyết
định mọi vấn đề quan trọng của đất nước. Những tư tưởng về chủ quyền
nhân dân từng được đề cập trong Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Hoa Kỳ
hay trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1789 và Tuyên ngôn
năm 1793 của Pháp [11].
Khi Tuyên ngôn quốc tế về Nhân quyền 1948 (UDHR) ra đời, những tư
tưởng này đã được ghi nhận:
Tất cả mọi người đều có quyền tham gia vào quản lý đất nước
mình, một cách trực tiếp hoặc thông qua những người đại diện mà họ

18


lựa chọn. Mọi người đều có quyền bình đẳng trong tiếp cận các dịch vụ
cơng của đất nước mình. Nguyện vọng của nhân dân là cơ sở quyền lực
của chính quyền, nguyện vọng này sẽ được thể hiện trong những cuộc
bầu cử định kỳ, phổ thơng, bình đẳng và bỏ phiếu kín hoặc thơng qua
những thủ tục bầu cử tự do tương đương [10, Điều 21].
Sau đó được tái khẳng định trong Điều 25 của Công ước quốc tế về các

quyền dân sự chính trị 1966 (ICCPR).
Ở Việt Nam, Hiến pháp 2013 đã có những quy định nằm trong nội hàm
quyền tham gia chính trị của cơng dân:
1. Cơng dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội,
tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề
của cơ sở, địa phương và cả nước. 2. Nhà nước tạo điều kiện để công
dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong
việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân [27, Điều 28];
Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai
mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng
nhân dân. Việc thực hiện các quyền này do luật định [27, Điều 27].
Đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu cũng như những bài viết của các
học giả trong nước về từng khía cạnh của Quyền tham gia chính trị như Chủ
quyền nhân dân; Quyền bầu cử, ứng cử; Quyền tham gia vào các cơ quan
thuộc bộ máy nhà nước… Tuy nhiên, nếu nhìn tổng thể quyền tham gia chính
trị như là nhóm quyền theo tinh thần của Điều 21 UDHR và Điều 25 ICCPR
thì trong các cơng trình nghiên cứu ở Việt Nam chưa có tài liệu nào đề cập
đến, giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người của Khoa luật Đại
học Quốc gia cũng chỉ liệt kê một số điều luật có liên quan. Vì vậy, muốn làm
sáng tỏ vấn đề này, cần đi tìm hiểu và phân tích về các nội dung có liên quan,
cụ thể như sau:

19


×