Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

(Luận văn thạc sĩ) tái hòa nhập xã hội đối với người chưa thành niên phạm tội mãn hạn tù theo pháp luật thi hành án hình sự việt nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh hà giang)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 103 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

PHM TH VIT

TáI HòA NHậP XÃ HộI
ĐốI VớI NGƯờI CHƯA THàNH NIÊN PHạM TộI MÃN HạN Tù
THEO PHáP LUậT THI HàNH áN HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tØnh Hµ Giang)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2016


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

PHM TH VIT

TáI HòA NHậP XÃ HộI
ĐốI VớI NGƯờI CHƯA THàNH NIÊN PHạM TộI MÃN HạN Tù
THEO PHáP LUậT THI HàNH áN HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tØnh Hµ Giang)
Chun ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN KHẮC HẢI


HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong bất kỳ
cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các
mơn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Phạm Thị Việt


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÁI HÒA NHẬP XÃ HỘI ĐỐI
VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI MÃN HẠN TÙ............... 7
1.1.

Khái niệm tái hòa nhập xã hội đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội

mãn hạn tù .....................................................................................................7

1.2.

Tầm quan trọng của các chƣơng trình tái hịa nhập đối với ngƣời chƣa
thành niên phạm tội mãn hạn tù ..................................................................11

1.3.

Chuẩn mực quốc tế về tái hòa nhập xã hội cho ngƣời chƣa thành niên
phạm tội .......................................................................................................12

1.4.

Chƣơng trình tái hòa nhập cho ngƣời chƣa thành niên phạm tội mãn
hạn tù ...........................................................................................................15

1.5.

Pháp luật về tái hòa nhập xã hội đối với ngƣời chƣa thành niên phạm
tội mãn hạn tù ..............................................................................................18

1.5.1.

Tái hòa nhập xã hội đối với ngƣời phạm tội tại cơ sở giam giữ ...................18

1.5.2.

Trả tự do sớm khỏi các cơ sở giam giữ .......................................................23


1.5.3.

Tái hòa nhập xã hội đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội sau khi
đƣợc trả tự do khỏi cơ sở giam giữ .............................................................29

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1..........................................................................................34
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ TÁI HÒA NHẬP
XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
MÃN HẠN TÙ CỦA TỈNH HÀ GIANG ................................................36
2.1.

Đánh giá chung về tình hình địa lý, dân cƣ, xã hội và tình hình tội
phạm của tỉnh Hà Giang ..............................................................................36


2.2.

Những kết quả đạt đƣợc và những tồn tại trong việc áp dụng pháp luật
về tái hòa nhập xã hội đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội mãn
hạn tù trên địa bàn tỉnh Hà Giang ...............................................................40

2.2.1.

Những kết quả đạt đƣợc trong cơng tác tái hịa nhập đối với ngƣời
chƣa thành niên phạm tội mãn hạn tù trên địa bàn tỉnh Hà Giang ..............40

2.2.2.

Những tồn tại trong công tác tái hòa nhập xã hội đối với ngƣời chƣa
thành niên phạm tội mãn hạn tù trên địa bàn tỉnh Hà Giang ......................53


2.3.

Nguyên nhân dẫn đến các tồn tại, hạn chế trong cơng tác tái hịa nhập
xã hội đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội mãn hạn tù trên địa bàn
tỉnh Hà Giang ..............................................................................................67

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2..........................................................................................76
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÁI HÒA NHẬP XÃ HỘI ĐỐI VỚI
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI MÃN HẠN TÙ...............78
3.1.

Những giải pháp hoàn thiện pháp luật về tái hòa nhập xã hội đối với
ngƣời chƣa thành niên phạm tội mãn hạn tù ...............................................78

3.2.

Một số giải pháp, đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng các
quy định về tái hòa nhập xã hội đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội
mãn hạn tù ...................................................................................................80

3.3.

Các giải pháp khác ......................................................................................83

3.3.1.

Tăng cƣờng sự lãnh đạo của các cơ quan, ngƣời có thẩm quyền trong
cơng tác tái hịa nhập xã hội đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội

chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phƣơng ..........................................83

3.3.2.

Nâng cao trình độ, năng lực và trách nhiệm nghề nghiệp của đội ngũ
cán bộ trong cơng tác tái hịa nhập xã hội đối với ngƣời chƣa thành
niên phạm tội mãn hạn tù ............................................................................84

3.3.3.

Tăng cƣờng sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức và cộng đồng trong
công tác tái hòa nhập xã hội đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội mãn
hạn tù............................................................................................................85

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3..........................................................................................87
KẾT LUẬN ..............................................................................................................89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................92


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu bảng

Tên bảng

Bảng 2.1: Bảng thống kê ngƣời chƣa thành niên vi phạm pháp luật kết quả xử lý từ 2011-2015

Trang
38


Bảng 2.2: Khảo sát số ngƣời chấp hành xong án phạt tù từ năm 2002
- 2015

41

Bảng 2.3: Khảo sát phân tích về tình trạng chấp hành pháp luật của
ngƣời chƣa thành niên phạm tội đã chấp hành xong án từ
2011- 2015

41

Bảng 2.4: Khảo sát về tình trạng việc làm của ngƣời chƣa thành niên
đƣợc mãn hạn tù từ 2011-2015

43

Bảng 2.5: Thống kê số liệu ngƣời chƣa thành niên tái hòa nhập xã
hội của tỉnh Hà Giang từ năm 2011 đến năm 2015

46

Bảng 2.6: Số liệu về ngƣời chƣa thành niên phạm tội đƣợc đặc xá từ
2011 đến 2015 đƣợc trở về tại tỉnh Hà Giang

47

Bảng 2.7: Bảng số liệu về tái phạm, tái phạm nguy hiểm của tỉnh Hà
Giang từ 2011-2015

64



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Tái hoà nhập xã hội đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội mãn hạn tù là
một công tác gắn liền với việc thực thi các biện pháp hoà nhập cộng đồng cho ngƣời
chƣa thành niên phạm tội sau khi đƣợc trở về với xã hội từ cơ sở giam giữ. Giúp đỡ
và tạo điều kiện cho những ngƣời đã chấp hành xong án phạt tù xây dựng một cuộc
sống bình thƣờng đồng thời giáo dục họ trở thành những cơng dân có ích cho xã
hội, hạn chế tối đa những trƣờng hợp tái phạm không chỉ là mục tiêu chung mà còn
đƣợc thể hiện rất rõ theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành
Trung ƣơng Đảng khoá VII đã nhấn mạnh: “Đối xử nhân đạo với người bị phạt tù.
Có chương trình dạy nghề cho phạm nhân và giới thiệu việc làm cho họ sau khi ra tù,
giúp họ nhanh chóng tái hồ nhập cộng đồng”. Bên cạnh đó, cơng tác tái hồ nhập
xã hội đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội đƣợc thực hiện dựa trên nguyên tắc
của Công ƣớc quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 mà Việt Nam đã
tham gia ký kết năm 1982, theo đó: “Chế độ giam giữ, thi hành án phải nhằm mục
đích chính yếu trong việc đối xử với tù nhân là cải tạo và đưa họ trở lại xã hội”.
Tái hoà nhập xã hội đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội mãn hạn tù là
một hoạt động có liên quan đến nhiều cơ quan, ban, ngành và toàn xã hội. Khoản 2
Điều 39 Luật Thi Hành án Hình sự năm 2010 quy định:
Trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Cơng an cấp
huyện phối hợp với gia đình phạm nhân, chính quyền địa phƣơng, cơ
quan, tổ chức, cá nhân quan tâm động viên phạm nhân tích cực học tập,
lao động, rèn luyện để đƣợc hƣởng sự khoan hồng của Nhà nƣớc; hỗ trợ
các hoạt động giáo dục, dạy nghề cho phạm nhân và chuẩn bị các điều
kiện cần thiết để phạm nhân tái hoà nhập cộng đồng sau khi chấp hành
xong án phạt tù [40, Điều 39].
Tuy nhiên cũng cần nhận thức một cách đầy đủ rằng đây vừa là quyền vừa là
trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền nhằm góp phần đƣa ngƣời phạm tội trở

lại cuộc sống lƣơng thiện, góp phần ổn định an ninh, trật tự tại địa phƣơng, minh
chứng cho chủ trƣơng đúng đắn của Đảng và Nhà nƣớc.
1


Để đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lƣợng công tác tái hoà nhập xã hội cho
ngƣời phạm tội theo tinh thần Nghị quyết số 08 - NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị
quyết số 49 - NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị:
Chuẩn bị điều kiện về cán bộ, cơ sở vật chất để giao cho Bộ Tƣ
pháp giúp Chính phủ thống nhất quản lý công tác thi hành án. Xác định
rõ trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân xã, phƣờng, thị trấn và của cơ quan
chuyên môn của uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trong việc thi hành các
hình phạt khơng phải là hình phạt tù để thực hiện nghiêm túc các bản án
của Toà án. Từng bƣớc thực hiện việc xã hội hố và quy định những hình
thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan nhà nƣớc thực
hiện một số công việc thi hành án.
Thực tiễn đã cho thấy tình hình tội phạm ngày càng phức tạp, số lƣợng ngƣời
phạm tội mãn hạn tù hàng năm có chiều hƣớng gia tăng, do đó việc tái hoà nhập xã
hội cho các đối tƣợng này cần đƣợc quan tâm một cách đúng đắn. Việc tiếp nhận số
lƣợng các đối tƣợng đã bị cách ly với xã hội trong một thời gian dài là một thách
thức khơng nhỏ trong cơng tác tái hồ nhập xã hội.
Trong những năm vừa qua thực tiễn cơng tác tái hồ nhập xã hội có những
biến chuyển tích cực và đạt đƣợc một số thành tích nhất định. Tuy nhiên, tái hồ
nhập xã hội đƣợc xác định là cơng tác mang tầm quốc gia và lâu dài do đó dù nhiều
chƣơng trình tái hồ nhập đã đƣợc thực hiện và đạt đƣợc những hiệu quả nhất định
thì cịn những mặt hạn chế và những tồn tại, chƣa thực sự thu hút đƣợc sự quan tâm
và tham gia của toàn xã hội. Thời gian chấp hành hình phạt là quãng thời gian hạn
chế tự do, cách ly ngƣời bị kết án khỏi cộng đồng xã hội để cải tạo giáo dục họ tại
trại giam, việc hạn chế lâu dài các chức năng xã hội bình thƣờng của một con ngƣời
đồng thời gây ra sự lãng quên các thói quen xã hội có ích của họ nhƣ học tập, làm

việc, quan hệ cha mẹ, vợ chồng, bạn bè, đồng nghiệp, vì vậy việc khôi phục lại các
chức năng xã hội này là một việc rất khó khăn và tƣơng đối phức tạp. Mặt khác hiện
nay các văn bản về tái hoà nhập xã hội còn chƣa đồng bộ và thống nhất. Thực tế
hiện nay cho thấy, các quy định về việc tái hoà nhập xã hội đối với ngƣời phạm tội
nằm rải rác ở các văn bản pháp luật khác nhau nhƣ Luật hình sự, Luật thi hành án
phạt tù hoặc trong các văn bản Chỉ thị, Nghị quyết của Chính phủ và ngành Công an
2


nhƣ Chƣơng trình quốc gia phịng chống tội phạm, chƣơng trình phịng chống và
kiểm sốt ma t. Ngồi ra cơng tác tái hoà nhập xã hội cho ngƣời phạm tội chƣa
thực sự đƣợc quan tâm đúng mức cũng góp phần làm cho cơng tác tái hồ nhập xã
hội chƣa thực sự phát huy hết vai trị của nó trong q trình giáo dục, cảm hố
ngƣời phạm tội để khi mãn hạn tù họ trở thành những ngƣời có ích cho xã hội. Trên
địa bàn tỉnh Hà Giang, ngƣời chƣa thành niên phạm tội mãn hạn tù trong những
năm qua mặc dù đã đƣợc sự quan tâm của các cấp, các ngành triển khai các biện
pháp tái hòa nhập xã hội nhƣng vẫn còn nhiều trƣờng hợp tái phạm, tái phạm nguy
hiểm là do chƣa nhận đƣợc sự quan tâm đúng mực của gia đình, xã hội khiến cho họ
khó khăn trong việc hịa nhập với nơi mình sinh sống.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài “Tái hoà nhập xã hội
đối với người chưa thành niên phạm tội mãn hạn tù theo pháp luật thi hành án
hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang)” làm luận
văn thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có một số cơng trình nghiên cứu về những vấn đề liên quan đến tái hoà
nhập xã hội đối với ngƣời phạm tội nói chung và ngƣời chƣa thành niên phạm tội
mãn hạn tù nói riêng. Cụ thể là các cơng trình nhƣ: Phan Xn Sơn, Xây dựng mơi
trường giáo dục phạm nhân trong các trại giam - Cơ sở lý luận, thực trạng, giải
pháp, Đề tài khoa học cấp cơ sở, Hà Nội, năm 2000; PGS.TS Nguyễn Quốc Nhật,
Th.S Phạm Trung Hoà, Th.S Trần Hải Âu (2001), Giáo dục, giúp đỡ người tù tha

tái hoà nhập cộng đồng ở Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2001;
Dƣơng Thanh Mai, Nguyễn Hữu Duyện, Ngơ Văn Thâu, Nguyễn Hồng Hà,
Nguyễn Văn Hiển, Nguyễn Quang Hƣng. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tái
hòa nhập cộng đồng của công dân sau thời gian cải tạo, giam giữ. Thông tin khoa
học pháp lý. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tƣ pháp. Tháng 4/2001; Vụ
pháp luật hình sự hành chính, Bộ Tƣ pháp - Rà sốt, đánh giá pháp luật, chính sách
và thực tiễn tái hồ nhập cộng đồng đối với người chưa thành niên vi phạm pháp
luật ở Việt Nam, năm 2007; Phạm Văn Lợi - Thực trạng pháp luật thi hành án phạt
tù và hƣớng hồn thiện, năm 2006, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật, số 2; Hồ Sĩ Sơn
(2009), "Hình phạt tù và vấn đề tái hòa nhập cộng đồng ở Việt Nam hiện nay", Kỷ

3


yếu hội thảo khoa học: Pháp luật và thực tiễn về tái hòa nhập xã hội của những
người mãn hạn tù ở Việt Nam và Na Uy, Viện Nhà nƣớc và Pháp luật và Norwegian
Center for Human Rights tổ chức tại Hạ Long - Quảng Ninh, ngày 26 - 27/11; Trần
Thị Quang Vinh (2009), "Phòng ngừa tái phạm tội đối với người bị kết án tù của,
Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh", Kỷ yếu hội thảo khoa học: Pháp luật và
thực tiễn về tái hòa nhập xã hội của những người mãn hạn tù ở Việt Nam và Na Uy,
Viện Nhà nƣớc và Pháp luật và Norwegian Center for Human Rights tổ chức tại Hạ
Long - Quảng Ninh, ngày 26 - 27/11. Một số giáo trình giảng dạy ở các trƣờng Đại
học chuyên ngành (Đại học Luật, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Học viên An
Ninh, Đại học Cảnh sát…) cũng đề cập đến vấn đề này. Mặt khác tái hoà nhập xã hội
đối với ngƣời phạm tội chƣa đáp ứng hết những đòi hỏi trong thực tiễn, pháp luật
điều chỉnh về lĩnh vực này còn nhiều vấn đề phải đi sâu nghiên cứu và làm rõ. Vì thế,
tác giả cho rằng việc nghiên cứu, tìm hiểu về chế định này là cần thiết và hữu ích.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề về mặt lý luận và những
quy định cụ thể của pháp luật Việt Nam về tái hoà nhập xã hội đối với ngƣời phạm

tội. Thơng qua việc phân tích tình hình tái hồ nhập xã hội nói chung và đi sâu phân
tích cơng tác tái hồ nhập xã hội đối với ngƣời phạm tội của tỉnh Hà Giang trong
những năm gần đây (2011 - 2015), luận văn đánh giá đƣợc thực trạng của cơng tác
tái hồ nhập xã hội đối với ngƣời phạm tội của tỉnh Hà Giang nói riêng. Trên cơ sở
đó, luận văn đƣa ra các giải pháp, đề xuất có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn để
vận dụng có hiệu quả vào cơng tác tái hoà nhập xã hội, nhằm nâng cao hiệu quả của
công tác này trong thời gian sắp tới. Đồng thời luận văn cũng đƣa ra một vài kiến
nghị nhằm hoàn thiện pháp luật nƣớc ta về vấn đề này.
Để đạt đƣợc các mục tiêu trên, đề tài có các nhiệm vụ sau:
Một là, làm rõ hơn các vấn đề lý luận và thực tiễn về cơng tác tái hồ nhập
xã hội nhƣ: Khái niệm tái hoà nhập xã hội đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội;
các quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự; thi hành án hình sự và các luật
có liên quan về tái hoà nhập xã hội đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội.
Hai là, đánh giá đúng thực trạng công tác tái hoà nhập xã hội của tỉnh Hà
Giang trong những năm gần đây để tìm ra những thiếu sót, tồn tại và nguyên nhân
của thực trạng trên, từ đó xác định đúng bản chất của vấn đề. Đồng thời tác giả đƣa
4


ra một số giải pháp cho phù hợp, tiến tới hoàn thiện các quy định của pháp luật về
tái hoà nhập xã hội đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Công tác tái hoà nhập đối với ngƣời phạm tội đƣợc thực hiện ở nhiều giai
đoạn khác nhau với những đối tƣợng khác nhau, nhƣng đều đƣợc gọi chung là
ngƣời phạm tội. Phạm vi đề tài này tác giả tập trung nghiên cứu các quy định về tái
hoà nhập xã hội đối ngƣời chƣa thành niên phạm tội ở giai đoạn chấp hành án và
sau khi chấp hành án xong và thực tiễn thực thi trên địa bàn tỉnh Hà Giang trong
những năm gần đây (2011 - 2015).
5. Cơ sở nghiên cứu của đề tài
Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên phƣơng pháp luận của Chủ nghĩa duy vật

biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Cơ sở pháp lý: nghiên cứu của đề tài là Hiến pháp năm 2013, Nghị quyết số
08 - NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49 - NQ/TW ngày 02/06/2005 của
Bộ Chính trị, các quy định của Bộ luật hình sự sửa đổi bổ sung năm 2009, Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật thi hành án năm 2010, các văn bản hƣớng dẫn thi
hành và một số văn bản hƣớng dẫn của các cơ quan chuyên môn về công tác tái hoà
nhập xã hội đối với ngƣời phạm tội.
Cơ sở thực tiễn: Thực tiễn cơng tác tái hồ nhập xã hội đối với ngƣời chƣa
thành niên phạm tội tại tỉnh Hà Giang. Ngồi ra luận văn cịn dựa trên các cơng
trình nghiên cứu của các nhà luật học, các cơng trình nghiên cứu của các nhà
chuyên môn trong lĩnh vực tội phạm học và các quy định của pháp luật Việt Nam về
lĩnh vực này.
6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn đƣợc nghiên cứu dựa trên cơ sở phƣơng pháp biện chứng khoa học
kết hợp với một số phƣơng pháp thống kê, tổng hợp; phƣơng pháp điều tra xã hội
học; phƣơng pháp phân tích, lựa chọn; phƣơng pháp đối chiếu, so sánh; phƣơng
pháp khảo sát thực tiễn; phƣơng pháp hệ thống và một số phƣơng pháp bổ trợ khác.
7. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn chủ yếu nghiên cứu, phân tích các quy định của pháp luật cũng nhƣ
thực trạng công tác tái hoà nhập xã hội đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội của
5


tỉnh Hà Giang một cách có hệ thống trên cơ sở lý luận và thực tiễn, từ đó đƣa ra
những kiến nghị nhằm hồn thiện pháp luật góp phần nâng cao chất lƣợng cơng tác
tái hồ nhập xã hội của cả nƣớc nói chung và tỉnh Hà Giang nói riêng.
8. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
có 3 chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề chung về tái hòa nhập xã hội đối với ngƣời chƣa

thành niên phạm tội mãn hạn tù.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về tái hòa nhập xã hội đối với ngƣời
chƣa thành niên phạm tội mãn hạn tù của tỉnh Hà Giang.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả tái
hòa nhập xã hội đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội mãn hạn tù.

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÁI HÒA NHẬP XÃ HỘI
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI MÃN HẠN TÙ
1.1. Khái niệm tái hòa nhập xã hội đối với người chưa thành niên phạm
tội mãn hạn tù
Tái hòa nhập xã hội đối với ngƣời phạm tội là một q trình tính từ khi một
ngƣời trở thành bị can bị cáo, bị kết án, chấp hành án và mãn hạn tù trở về nơi sinh
sống. Đa số các quan điểm đều cho rằng ngƣời mãn hạn tù bao gồm tất cả các đối
tƣợng hết thời hạn cải tạo ở các trại giam, trại cải tạo, có quyết định đƣợc tha về địa
phƣơng. Tuy nhiên quan điểm này chƣa phân biệt rõ đƣợc đối tƣợng tù tha với các
đối tƣợng hết thời hạn cải tạo ở các cơ sở tập trung nhƣ cơ sở giáo dục, trƣờng giáo
dƣỡng, cơ sở chƣa bệnh, cai nghiện đƣợc tha về địa phƣơng. Bên cạnh đó cũng có
quan điểm cho rằng tù tha là tất cả các đối tƣợng “hết thời hạn chấp hành hình phạt
tù” về địa phƣơng. Đây là những đối tƣợng đã hết thời hạn chấp hành bản án do Toà
án nhân dân quyết định, đƣợc tha về địa phƣơng [35, tr. 11-12]. Rõ ràng, quan điểm
này cũng chƣa thật đầy đủ, bởi lẽ nếu xác định nhƣ vậy đối tƣợng mãn hạn tù chỉ
bao gồm những đối tƣợng đã chấp hành xong bản án ở các trại giam, trại cải tạo hết
thời gian cải tạo theo quyết định của Toà án đƣợc tha về địa phƣơng, nhƣ vậy theo
cách hiểu này thì số đối tƣợng tù tha đƣợc giảm thời hạn chấp hành án, đƣợc đặc xá
không nằm trong diện đối tƣợng tù tha. Theo từ điển nghiệp vụ phổ thơng thì: “tù
tha về là những kẻ phạm tội bị phạt án tù giam đã hết hạn được tha hoặc chưa hết

hạn nhưng được ân xá, ân giảm tha về. Cần quản lý chặt chẽ đối tượng tù tha về và
cần bố trí cơng ăn việc làm cho họ, tạo điều kiện để cho họ làm ăn lương thiện”.
Nếu hiểu theo quan điểm này thì đối tƣợng mãn hạn tù bao gồm số đối tƣợng bị
phạt án tù giam đƣợc tha kể cả số đã hết thời hạn nhƣng ân xá, ân giảm tha về do có
nhiều tiến bộ trong q trình cải tạo. Khái niệm này đã có cái nhìn tồn diện hơn so
với những quan điểm trên về đối tƣợng mãn hạn tù, tuy nhiên chƣa phân định đƣợc
rõ số tù giam có thời hạn với số tù chung thân đƣợc tha về và cũng chƣa đề cập tới
vấn đề đối tƣợng tù tha đƣợc đặc xá. Để có đƣợc khái niệm đầy đủ về ngƣời mãn hạn
tù, cần phải hiểu bao gồm cả “Đối tượng được xét đặc xá tha tù là những phạm nhân
7


đang chấp hành án tại các trại giam do Bộ Cơng an và Bộ Quốc phịng quản lý, kể cả
những phạm nhân đang được tạm đình chỉ thi hành án phạt tù hoặc hỗn thi hành án
phạt tù có những hoàn cảnh đặc biệt theo luật định” [15, Điều 2]. Theo đó thì đối
tƣợng đặc xá bao gồm ba loại: Phạm nhân đang chấp hành án phạt tù tại các trại giam
thuộc Bộ Cơng an và Bộ Quốc phịng quản lý và có nhiều tiến bộ đƣợc tha trƣớc thời
hạn; Phạm nhân trong thời gian đƣợc tạm đình chỉ thi hành án phạt tù có nhiều tiến
bộ đƣợc miễn thi hành án phạt tù; Những ngƣời bị kết án tù trong thời gian đƣợc hỗn
thi hành án phạt tù có nhiều tiến bộ đƣợc miễn hình phạt tù. Tổng hợp từ những quan
điểm trên thì người chưa thành niên mãn hạn tù là những người chưa thành niên
phạm tội và đã được kết án bởi Toà án nhân dân bằng bản án tù chung thân hoặc tù
có thời hạn, phải chấp hành hình phạt tù tại các trại giam, bị cách ly khỏi đời sống
xã hội nay đã chấp hành xong hình phạt tù hoặc vì một lý do nào đó theo quy định
của pháp luật được tha ra khỏi cơ sở giam giữ và trở về nơi sinh sống - cộng đồng.
Trong khi nhiều ngƣời phạm tội bị kết án tù hoặc ở trong trƣờng giáo dƣỡng
là do đã phạm phải những tội ít nghiêm trọng, thì những ngƣời khác có tiểu sử
phạm tội khá dầy dặn. Nhƣ vậy sự hội nhập xã hội của những ngƣời phạm tội này
cũng phải khác nhau. Tại thời điểm đƣợc tha từ một cơ sở giáo dục, ngƣời phạm tội
thƣờng gặp phải những thách thức mà họ không đƣợc trang bị tốt để có thể tự đối

mặt. Những chƣơng trình giáo dục đặc biệt là cần thiết để chuẩn bị cho ngƣời phạm
tội đƣợc tha từ một cơ sở giam giữ. Những chƣơng trình hỗ trợ dựa trên cộng đồng
cũng cần thiết để giúp những ngƣời phạm tội trẻ tuổi thành công trong việc vƣợt
qua đƣợc thời kỳ chuyển tiếp đầy khó khăn này.
Các chƣơng trình và các biện pháp phải đƣợc thực hiện để xác định các nhu
cầu của những ngƣời phạm tội đang ở trong các nhà tù, trƣờng giáo dƣỡng hoặc các
nơi tạm giam, để chuẩn bị cho họ trở về cộng đồng, và để cung cấp cho họ những sự
hỗ trợ, giúp đỡ và giám sát cần thiết nhằm giúp họ tái hồ nhập cộng đồng thành
cơng sau khi hết thời hạn giam giữ.
Trong lĩnh vực tƣ pháp hình sự, "hịa nhập xã hội" dùng để chỉ các chƣơng
trình và các biện pháp mà mục tiêu là tạo điều kiện thích ứng xã hội và tâm lý của
một ngƣời phạm tội. Khái niệm tổng quát hơn của "hội nhập xã hội" do đó cũng
đƣợc sử dụng để làm nổi bật một thực tế là, và với các lý do khác nhau, hầu hết mọi
8


ngƣời phạm tội đều gặp một số khó khăn riêng trong việc hịa nhập vào gia đình,
trƣờng học, nơi làm việc, cộng đồng và xã hội. Khái niệm "tái hòa nhập" thƣờng
đề cập đến các biện pháp hòa nhập xã hội đƣợc thiết kế đặc biệt để giúp ngƣời phạm
tội đƣợc tha từ một cơ sở giam giữ hình sự (trại giam, trƣờng giáo dƣỡng) và để
giúp họ đối mặt với những thách thức liên quan đến việc trở về cộng đồng. Hỗ trợ
này bao gồm cả việc giải quyết những nhu cầu của ngƣời chƣa thành niên và kiểm
soát rủi ro mà ngƣời phạm tội có thể gây ra cho cộng đồng.
Bốn khái niệm chung đƣợc xem xét một cách ngắn gọn ở đây là vì chúng
thƣờng xuyên gây ra một số nhầm lẫn, thậm chí giữa các chuyên gia tƣ pháp, đó
là: "hịa nhập xã hội"; "tái hịa nhập xã hội"; "các yếu tố nguy cơ", và "các yếu
tố kiềm chế".
Hịa nhập xã hội là q trình hịa nhập về mặt xã hội và tâm lý với môi
trƣờng xã hội của một ngƣời. Tuy nhiên, trong lĩnh vực tƣ pháp hình sự, nó thƣờng
đƣợc đề cập cụ thể hơn tới những hình thức hỗ trợ khác nhau cho những ngƣời

phạm tội với nỗ lực nhằm ngăn cản họ tham gia vào hành vi phạm tội (phòng ngừa)
hoặc làm giảm khả năng tái phạm của họ (phục hồi).
Các chƣơng trình hịa nhập xã hội, đặc biệt là những chƣơng trình đƣợc thiết
kế cho ngƣời phạm tội chƣa thành niên, thƣờng đƣợc xem nhƣ là một dạng chƣơng
trình giáo dục đặc biệt. Ở hầu hết các quốc gia, những nỗ lực để hòa nhập ngƣời
chƣa thành niên liên quan đến một loạt các chính sách và chiến lƣợc, bao gồm cả
các chƣơng trình can thiệp sớm, tập trung vào nhóm trẻ em có nguy cơ và gia đình
họ [63], [64] những chƣơng trình dựa vào cộng đồng nhằm thay thế cho việc giam
giữ, các chƣơng trình trong cơ sở cải tạo nhằm chuẩn bị cho ngƣời chƣa thành niên
kỹ năng sống trong xã hội, và các chƣơng trình dựa vào cộng đồng nhằm tạo thuận
lợi cho ngƣời chƣa thành niên tái hòa nhập vào cộng đồng sau khi rời khỏi trƣờng
giáo dƣỡng hay trại giam [66].
Tái hòa nhập xã hội nói chung đề cập cụ thể hơn đến các chƣơng trình và
sáng kiến nhằm giúp ngƣời phạm tội đang trong các cơ sở giam giữ. Mục đích của
nó là giúp ngƣời phạm tội tái hồ nhập cộng đồng thành cơng sau khi chấp hành bản
án tại cơ sở cải tạo. Thơng thƣờng có hai loại chƣơng trình: (1) các chƣơng trình hỗ
trợ ngay trong các cơ sở giam giữ, trƣớc khi phóng thích của ngƣời phạm tội, nhằm
9


giúp ngƣời phạm tội giải quyết các vấn đề, xử lý các yếu tố nguy cơ liên quan đến
hành vi phạm tội của họ, trang bị các kỹ năng cần thiết để thực hiện tốt các chức
năng xã hội của mình và chuẩn bị tái tham gia vào cộng đồng; và (2) những chƣơng
trình dựa trên cộng đồng, thƣờng đƣợc gọi là chƣơng trình "hậu chăm sóc" nhằm
tạo thuận lợi cho hòa nhập xã hội của ngƣời phạm tội sau khi thả họ từ các cơ sở
giam giữ.
Các yếu tố nguy cơ
Một vấn đề then chốt đối với sự hỗ trợ hiệu quả cho ngƣời phạm tội hòa nhập
xã hội là nhận thức đƣợc các yếu tố đƣa họ đối mặt với nguy cơ và gây khó khăn cho
họ hoạt động bình thƣờng trong xã hội. Có rất nhiều yếu tố nguy cơ liên quan đến

hành vi phản xã hội hoặc hành vi phạm tội. Khơng có yếu tố đơn lẻ nào có thể dùng
để dự đốn chính xác một cá nhân có khả năng tham gia vào hành vi nhƣ vậy hay
khơng. Những yếu tố nguy cơ này có thể nhận thấy đƣợc ngay bên trong (bên trong
của cá nhân, chẳng hạn nhƣ khó tính, là nạn nhân từ sớm, bệnh tâm thần, bị hạn chế
học tập) hoặc bên ngồi (trong gia đình, trƣờng học, cộng đồng, và trong quan hệ
cùng trang lứa). Trong trƣờng hợp ngƣời phạm tội chƣa thành niên, các yếu tố nguy
cơ từ phía gia đình đối với hành vi phạm pháp và chống đối xã hội chính là một gia
đình khơng bình thƣờng, bị cha mẹ bỏ rơi, những nguyên tắc cứng nhắc và kém hiệu
quả của cha mẹ, thiếu sự giám sát, hoặc sự tác động một cách cƣỡng bức trong nhà.
Ví dụ về các yếu tố nguy cơ trong các trƣờng học là tình trạng q đơng, ngƣợc đãi,
phân biệt đối xử hoặc chƣơng trình giáo dục khơng đầy đủ mà có thể dẫn đến việc
nghỉ học tràn lan hoặc bỏ học giữa chừng. Nghèo đói là yếu tố nguy cơ chung trong
nhiều hoàn cảnh, bao gồm việc phát triển các hành vi chống đối xã hội và sự hạn chế
về xúc cảm hoặc cách xử sự. Một trong những yếu tố mạnh nhất là thanh thiếu niên
tham gia với bạn đồng trang lứa có lối sống lệch lạc và có độ rủi ro cao.
Các yếu tố kiềm chế
Nhiều ngƣời thể hiện ra ngoài các yếu tố nguy cơ khác nhau nhƣng họ không
nhất thiết phải liên quan đến việc phạm tội. Đây thƣờng là do sự tồn tại của một số
yếu tố bảo vệ. Các yếu tố kiềm chế là những đặc tính bảo vệ một cá nhân. Những
yếu tố kiềm chế của cá nhân bao gồm: (1) sức khỏe thể chất và sức khỏe tâm thần
tốt; (2) các mối quan hệ tích cực; (3) lịng tự trọng; (4) năng lực nhận thức (luận
10


điểm, kỹ năng giải quyết vấn đề, sự giao tiếp và kỹ năng giải quyết xung đột); và,
(5) nhận thức cảm xúc hoặc cảm xúc trí tuệ (khi mọi ngƣời có thể hiểu và điều
chỉnh những cảm xúc của họ, rèn luyện tính tự kỷ luật, và nâng cao việc kiểm sốt
xúc cảm, sự đánh giá, họ có thể đối phó tốt hơn với những sự khó chịu, hung hăng
hay bạo lực và tránh những kết quả xử sự tiêu cực).
Tái hoà nhập xã hội đối với ngƣời phạm tội là vấn đề phức tạp đòi hỏi sự

tham gia của nhiều cơ quan, tổ chức và cả cộng đồng xã hội thơng qua nhiều chính
sách và mơ hình cụ thể, đóng vai trị hỗ trợ, đảm bảo, tạo điều kiện nâng cao năng
lực thích nghi cho đối tƣợng và đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi tình hình tội
phạm ngày càng diễn biến phức tạp. Nhƣ vậy từ những phân tích nêu trên, theo tác
giả có thể hiểu: Tái hoà nhập xã hội đối với người chưa thành niên phạm tội mãn
hạn tù là khâu cuối cùng trong việc thực hiện trọn vẹn và có ý nghĩa một bản án kết
tội có hiệu lực pháp luật của Tịa án đối với người đó, là một q trình với nhiều
giai đoạn khác nhau từ khi người đó ở trong cơ sở giam giữ đến khi người đó trở về
cộng đồng với nhiều biện pháp, cách thức và chương trình hịa nhập xã hội được
thiết kế riêng biệt nhằm mục đích đưa người chưa thành niên phạm tội trở về với xã
hội trở thành những người có ích, sau một thời gian bị cách ly khỏi xã hội với sự
tham gia của chính bản thân người phạm tội và Nhà nước cũng như cộng đồng xã
hội, góp phần ổn định an ninh và phòng chống tội phạm.
1.2. Tầm quan trọng của các chương trình tái hịa nhập đối với người
chưa thành niên phạm tội mãn hạn tù
Ngƣời chƣa thành niên phạm tội có những đặc điểm riêng khiến cho các
chƣơng trình tái hòa nhập dành cho họ cũng cần phải đƣợc thiết kế riêng, từ khi họ
bị cách ly khỏi xã hội đến khi họ trở lại cộng đồng.
Mục đích chủ yếu của việc hòa nhập xã hội và tái hòa nhập xã hội là nhằm
cung cấp cho những ngƣời phạm tội những hỗ trợ cũng nhƣ sự giám sát để giúp họ
hoạt động trong xã hội nhƣ là những công dân tốt, tuân thủ pháp luật và tránh việc
tái phạm tội. Những chƣơng trình này tạo cơ hội cho ngƣời chƣa thành niên phạm
tội liên kết với gia đình và cộng đồng, sống tốt và tuân thủ pháp luật.
Tại Việt Nam, cũng nhƣ tại nhiều quốc gia khác, nhìn chung hiện nay có rất
ít những chƣơng trình hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho những ngƣời chƣa thành
11


niên phạm tội bị giam giữ. Những chƣơng trình tái hịa nhập tại các trại giam nói
chung cịn ít và chƣa sâu rộng. Vì thế, để thúc đẩy sự phát triển của chƣơng trình tái

hịa nhập cộng đồng trên cả nƣớc thì sự chủ động là yêu cầu bắt buộc. Theo hƣớng
này thì bƣớc đầu tiên bao gồm việc rà sốt lại các chính sách hiện hành và đánh giá
thực tiễn, cũng nhƣ đƣa ra những đề xuất cụ thể nhằm tăng cƣờng và phát triển
những chƣơng trình tái hịa nhập cộng đồng trên cả nƣớc.
Về những vấn đề liên quan đến ngƣời chƣa thành niên phạm tội, theo tinh
thần của Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004 (Điều 58) và Bộ luật hình
sự (Điều 69), là mục tiêu của sự can thiệp vào những vụ việc của ngƣời chƣa thành
niên vi phạm pháp luật nói chung và việc ngƣời chƣa thành niên phạm tội nói riêng,
chủ yếu nhằm giáo dục, giúp họ sửa chữa lỗi lầm, phát triển một cách lành mạnh,
trở thành những ngƣời cơng dân có ích. Luật pháp Việt Nam đã cơng nhận sự cần
thiết của việc hỗ trợ và tạo điều kiện cho những ngƣời chƣa thành niên phạm tội tái
hòa nhập cộng đồng sau khi họ mãn hạn tù hay đã chấp hành xong bản án tại các
trƣờng giáo dƣỡng.
Tuy nhiên, khái niệm nêu trên nhìn chung chỉ đƣợc đề cập rõ ràng trong các
chính sách nhƣng lại khơng có chƣơng trình hoặc kế hoạch cụ thể để thực hiện
những hoạt động này. Do đó, việc thi hành một cách tồn diện những chính sách tái
hịa nhập cộng đồng thực sự gặp khó khăn.
Các chƣơng trình phải bảo đảm đƣợc thực hiện thích ứng, phù hợp với từng
nhóm đối tƣợng, trong từng giai đoạn. Các chƣơng trình đƣợc thiết kế trong trại
giam thì ngồi mục đích trừng trị, răn đe, các chƣơng trình này phải nhằm đến cảm
hóa, giáo dục, dạy văn hóa, dạy nghề phù hợp, giúp đỡ họ xóa bỏ tự ti, mặc cảm,
phấn đấu cải tạo tốt để sau khi mãn hạn tù, trở về tái hòa nhập cộng đồng và từng
bƣớc làm lại cuộc đời. Các chƣơng trình hỗ trợ khi đối tƣợng đƣợc ra trại phải đƣợc
thiết kế riêng, phù hợp với mỗi địa phƣơng, đồng thời phải giúp đƣợc cho ngƣời
mãn hạn tù xóa đƣợc mặc cảm, tự ti, cởi mở hơn khi tiếp xúc với ngƣời xung quanh,
quyết tâm hòa nhập, tránh tái phạm tội.
1.3. Chuẩn mực quốc tế về tái hòa nhập xã hội cho người chưa thành
niên phạm tội
Việc phục hồi của ngƣời chƣa thành niên phạm tội và sự thành cơng tái hịa
12



nhập của họ là một trong những nhiệm vụ cơ bản của hệ thống tƣ pháp hình sự.
Những điều này cũng đã đƣợc thừa nhận trong các tiêu chuẩn về quyền con ngƣời
trên toàn thế giới. Nguyên tắc 10 trong Những nguyên tắc cơ bản về đối xử với tù
nhân của Liên Hợp Quốc tuyên bố rằng: “Với sự tham gia và giúp đỡ của cộng
đồng và các tổ chức xã hội và với sự quan tâm thích đáng tới những lợi ích của
người phạm tội, những điều kiện thuận lợi sẽ được tạo ra để việc hòa nhập cộng
đồng của những người phạm tội mãn tù được diễn ra trong những điều kiện tốt
nhất” [65]. Điều 8 cũng nói tới sự cần thiết phải giúp đỡ những ngƣời phạm tội
mãn hạn tù có khả năng đƣợc làm những cơng việc bình thƣờng trong xã hội bởi
những cơng việc này sẽ giúp họ tái hòa nhập vào thị trƣờng lao động của đất nƣớc
mình cũng nhƣ cho phép họ có đƣợc nguồn thu nhập để nuôi sống bản thân cũng
nhƣ giúp đỡ gia đình họ.
Đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội, Công ước về quyền trẻ em (CRC),
đƣợc Việt Nam phê chuẩn năm 1990, yêu cầu các bên của Công ƣớc phải xây dựng
những luật đặc biệt, những quy trình đặc biệt, thiết lập những cơ quan chức năng có
thẩm quyền một cách cụ thể để xử lý trƣờng hợp ngƣời chƣa thành niên phạm tội
một cách hợp lý. Những luật và quy trình này phải đảm bảo rằng ngƣời phạm tội là
ngƣời chƣa thành niên phải đƣợc đối xử với sự tôn trọng những giá trị cơ bản về
nhân phẩm của họ và những luật, quy trình nói trên cũng phải tính đến độ tuổi, cũng
nhƣ những nhu cầu của họ để thúc đẩy q trình hịa nhập xã hội của những ngƣời
phạm tội này thành công.
Điều 24.1 của Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về áp dụng
pháp luật với người chưa thành niên nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng của việc cung
cấp điều kiện vật chất, dịch vụ cũng nhƣ các sự hỗ trợ cần thiết khác để thúc đẩy
việc đảm bảo những quyền lợi cho ngƣời chƣa thành niên phạm tội trong suốt q
trình tái hịa nhập cộng đồng. Điều này quy định rằng “sẽ có những nỗ lực đƣợc
dành cho việc cung cấp cho ngƣời chƣa thành niên phạm tội những sự hỗ trợ cần
thiết hay bất cứ sự hỗ trợ hữu ích và thiết thực nào ở tất cả các giai đoạn của quá

trình tố tụng để giúp việc tái hòa nhập cộng đồng của họ đƣợc diễn ra thuận lợi”.
Quy tắc về việc bảo vệ người chưa thành niên bị tước tự do của Liên Hợp
Quốc nhấn mạnh tầm quan trọng của hai vấn đề, thứ nhất đó là tầm quan trọng của
13


việc hỗ trợ ngƣời chƣa thành niên phạm tội tại các trại giam, cơ sở giáo dục và việc
hiểu đƣợc những nhu cầu của họ và thứ hai, đó là tầm quan trọng của việc cung cấp
những chƣơng trình thích hợp cho ngƣời chƣa thành niên phạm tội để họ xác định
đƣợc nhu cầu của mình cũng nhƣ những thử thách mà họ sẽ phải đối mặt. Những
quy tắc này chỉ ra rằng giáo dục và đào tạo nghề là hai phƣơng thức chính để chuẩn
bị cho ngƣời chƣa thành niên phạm tội có thể tái hịa nhập cộng đồng thành cơng.
Theo những quy tắc này, mục đích của việc đào tạo và hỗ trợ đƣợc đặt ra với ngƣời
chƣa thành niên phạm tội là “để cung cấp cho họ sự chăm sóc, sự bảo vệ, giáo dục
và những kỹ năng nghề nghiệp và nhƣ vậy sẽ giúp họ nhận ra đƣợc chuẩn mực của
một ngƣời công dân tốt trong xã hội”.
Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về áp dụng pháp luật với
người chưa thành niên cũng quy định rằng “trong thời gian tạm giam, ngƣời chƣa
thành niên đƣợc hƣởng sự chăm sóc, bảo vệ và tất cả những hỗ trợ cá nhân cần
thiết - xã hội, giáo dục, nghề nghiệp, tâm lý, y tế và thể chất - có liên quan đến lứa
tuổi, giới tính và nhân thân của họ” (Điều 13) và quyền lợi về sự phát triển lành
mạnh, toàn diện”.
Những Quy tắc cơ bản về đối xử với phạm nhân của Liên Hợp Quốc đã làm
rõ rằng trách nhiệm của xã hội không chỉ kết thúc tại thời điểm các phạm nhân đƣợc
phóng thích: “Vì thế, nên có những cơ quan của chính phủ hay tổ chức tư nhân có
khả năng thuê những người phạm tội mãn hạn tù về làm việc và việc quan tâm đến
họ như vậy sẽ làm giảm những định kiến đối với họ và thúc đẩy việc tái hòa nhập
của họ” (Quy tắc 64).
Bộ Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên Hợp Quốc về hoạt động tư pháp đối
với người chưa thành niên nhấn mạnh sự cần thiết về phạm vi của những dịch vụ và

những cơ sở giáo dục đa dạng để đáp ứng những nhu cầu khác nhau của những
ngƣời chƣa thành niên phạm tội tái hòa nhập cộng đồng và cũng để cung cấp cho họ
những chỉ dẫn cũng nhƣ hỗ trợ và đây là khâu quan trọng để giúp họ tái hòa nhập xã
hội thành công. Mặt khác, Bộ quy tắc này cũng chứa đựng những hƣớng dẫn liên
quan đến không giam giữ (xử lý tại cộng đồng) (Điều 23), yêu cầu phải cung cấp
những hỗ trợ để giúp q trình tái hịa nhập cộng đồng đƣợc diễn ra thuận lợi (Điều
24), và yêu cầu kêu gọi những ngƣời tình nguyện, các tổ chức tình nguyện, những
14


tổ chức tại địa phƣơng và các nguồn giúp đỡ khác trong cộng đồng để góp phần
giúp cho ngƣời chƣa thành niên phạm tội trở lại với cuộc sống bình thƣờng một
cách hiệu quả trong môi trƣờng xã hội và trong gia đình.
1.4. Chương trình tái hịa nhập cho người chưa thành niên phạm tội
mãn hạn tù
Trong việc thiết kế và thực thi những can thiệp nhằm giúp cho việc tái hòa
nhập ngƣời chƣa thành niên phạm tội về với cộng đồng thành công và giúp họ tránh
những liên quan đến tội phạm về sau, có rất nhiều điều cần lƣu ý. Những ngƣời sau
khi đƣợc giải phóng khỏi nhà tù, họ có thể lại phải đối mặt với vơ số những thách
thức có thể khiến họ lại tái phạm.
Những ngƣời phạm tội phải đối mặt với nhiều thử thách. Họ có khoảng thời
gian bị cơ lập và cách ly với xã hội; bị ngƣợc đãi về thể xác và tinh thần; có cơng
việc lƣơng thấp hay thất nghiệp hoặc từ nhỏ có lối sống liên quan đến tội phạm.
Những khuyết tật về thể chất và tinh thần, cũng nhƣ vấn đề sức khỏe đôi khi liên
quan đến sự lạm dụng hay nghiện ma túy là những điều thách thức họ. Nhiều ngƣời
phạm tội đối mặt với việc thiếu các kĩ năng khiến họ gặp khó khăn trong việc cạnh
tranh và thành công trong cộng đồng: các kỹ năng kết hợp cá nhân kém, nền tảng
giáo dục chính quy là thấp, mù chữ hay khơng biết làm tốn, vận hành nhận thức và
cảm xúc nghèo kém, hoặc thiếu kỹ năng quản lý kế hoạch và tài chính [62]. Khi
những ngƣời phạm tội đƣợc đƣa vào cơ sở giam giữ, họ phải đối mặt thêm những

thách thức khác, là hậu quả trực tiếp của việc bị bỏ tù và khó khăn của việc chuyển
giao họ về cộng đồng [61]. Thêm vào đó là một số thách thức trong thực tiễn sau
khi ngƣời phạm tội đƣợc ra tù, bao gồm việc tìm thấy chỗ ở hợp lý với rất ít tiền
bạc, quản lý tài chính với số tiền tiết kiệm rất ít hoặc thậm chí khơng có, cho đến
khi họ bắt đầu kiếm đƣợc thu nhập hợp pháp, đánh giá những nhu cầu cần thiết
hàng ngày, đánh giá dịch vụ và những hỗ trợ cho những nhu cầu cụ thể của họ.
Giáo dục và đào tạo hướng nghiệp
Khơng có khả năng kiếm sống trong cộng đồng, những ngƣời phạm tội
thƣờng quay lại với những hoạt động phạm tội. Lý giải về những nhu cầu có sức ép
nhất đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội chính là ở nhu cầu về giáo dục và đào
tạo việc làm. Trong quá trình giải quyết nhu cầu của những ngƣời phạm tội chƣa
15


thành niên, nhu cầu về giáo dục và đào tạo nghề để có thể cung cấp cho thị trƣờng
lao động là cấp bách nhất. Thất bại trong việc giải quyết yêu cầu này sẽ tác động bất
lợi tới việc hòa nhập cộng đồng của ngƣời phạm tội.
Những ngƣời phạm tội chƣa thành niên trong độ tuổi đi học bắt buộc có
quyền đƣợc hƣởng nền giáo dục phù hợp với nhu cầu và khả năng của họ, đƣợc
thiết kế nhằm chuẩn bị cho họ trở lại cộng đồng. Những ngƣời đã qua tuổi đi học
bắt buộc và có mong muốn đƣợc học tiếp, đƣợc cho phép và khuyến khích đi học,
và cần có những cố gắng để cung cấp cho họ khả năng tiếp cận những chƣơng trình
giáo dục phù hợp. Việc giáo dục cũng phải do những giáo viên có đủ phẩm chất
thơng qua chƣơng trình có sự liên thơng với hệ thống giáo dục thông thƣờng, để
những ngƣời chƣa thành niên sau khi đƣợc thả có thể tiếp tục q trình học tập mà
khơng gặp khó khăn. Các chƣơng trình giáo dục cho ngƣời phạm tội thành niên cũng
rất quan trọng. Tất cả những ngƣời phạm tội mù chữ hoặc gặp khó khăn trong việc
học tập cần đƣợc tham gia vào các chƣơng trình giáo dục đặc biệt hay dành riêng cho
ngƣời chậm hiểu.
Ngƣời phạm tội đƣợc quyền tham gia vào sự đào tạo hƣớng nghiệp những

nghề nghiệp có thể chuẩn bị cho họ một cơng việc có thu nhập. Trong phạm vi nhất
định, họ có thể đƣợc quyền lựa chọn loại đào tạo hƣớng nghiệp mà họ đƣợc nhận.
Trong những trƣờng hợp cụ thể, các chƣơng trình đào tạo hƣớng nghiệp cần thiết kế
để cung cấp cho những ngƣời phạm tội những kĩ năng có thể phù hợp với những cơ
hội nghề nghiệp hiện có trong cộng đồng nơi họ hòa nhập.
Nghề nghiệp
Điểm mấu chốt trong mọi trƣờng hợp tái hịa nhập thành cơng của ngƣời phạm
tội nằm ở khả năng của họ trong việc đảm bảo và duy trì cơng việc có thu nhập.
Nghề nghiệp cung cấp không chỉ thu nhập cần thiết để hỗ trợ
những điều kiện đầy đủ về vật chất, mà còn cung cấp một cấu trúc và
cơng việc làm hằng ngày. Nó tạo các cơ hội để mở rộng mạng lƣới xã hội
của một ngƣời tới những thành viên hữu ích của xã hội. Thêm vào đó,
nghề nghiệp cịn đóng góp vào việc tăng cƣờng lòng tự trọng và sức khỏe
tâm lý khác.
Những nỗ lực để tìm ra nghề nghiệp phù hợp với ngƣời phạm nhân trong một
16


cơ sở giam giữ cần đƣợc bắt đầu trƣớc khi họ mãn hạn tù. Việc này bao gồm đánh
giá những kĩ năng hiện tại của họ, nhận diện những cơ hội nghề nghiệp, đem lại sự
giáo dục thích hợp và đào tạo hƣớng nghề để tăng cƣờng khả năng đƣợc tuyển dụng
của họ trƣớc khi họ đƣợc phóng thích. Điều quan trọng nữa là những dịch vụ nghề
nghiệp cần đƣợc cung cấp liên tục từ thời điểm ngƣời phạm tội vào tù cho đến khi
họ trở lại cộng đồng...
Chăm sóc sức khỏe tinh thần
Những phạm nhân chƣa thành niên đang bị ảnh hƣởng bởi bệnh tâm thần
thƣờng gặp vấn đề khi hòa nhập cộng đồng. Họ phải trải qua những sự cơ lập với xã
hội cực kì khắc nghiệt cũng nhƣ thƣờng có nguy cơ rối loạn do lạm dụng ma túy.
Họ cũng thƣờng xuyên đối mặt với những khó khăn, đặc biệt trong việc hịa nhập
với gia đình mình cũng nhƣ các cơ hội nghề nghiệp hoặc giáo dục phù hợp. Những

thách thức từ những bệnh tâm thần của ngƣời chƣa thành niên phạm tội đòi hỏi sự
phát triển của những mơ hình điều trị dựa vào cộng đồng trong việc tiếp tục chăm
sóc nhằm giải quyết những rủi ro, nhu cầu và khả năng dễ bị tổn thƣơng của nhóm
ngƣời phạm tội này.
Liên hệ với gia đình và cộng đồng
Trong quá trình bị giam giữ, ngƣời chƣa thành niên phạm tội có quyền đƣợc
liên hệ với gia đình của họ. Trên thực tế, việc tái hòa nhập thành cơng thƣờng phụ
thuộc vào việc duy trì, và đơi khi là sự cải thiện mối quan hệ của ngƣời phạm tội
với ngƣời thân và những thành viên của cộng đồng. Sự hỗ trợ từ gia đình sẽ là một
trong những sức mạnh giúp tái hịa nhập thành cơng. Gia đình và cộng đồng có thể
và nên đóng vai trị hàng đầu trong việc giúp ngƣời phạm tội chuẩn bị quay trở lại
cộng đồng. Nguồn động viên, giúp đỡ từ gia đình và cộng động là điều lí tƣởng cho
việc tƣ vấn và hỗ trợ trong việc lên kế hoạch trả tự do cho những ngƣời phạm tội trẻ
tuổi cũng nhƣ tái hòa nhập vào cộng đồng.
Một phƣơng pháp khác giúp cho việc tái hòa nhập cộng đồng dễ dàng hơn là
cho phép những cuộc thăm nhà hay tạm rời khỏi nơi giáo dục. Điều đó cho phép
ngƣời phạm tội giữ đƣợc mối liên hệ với gia đình, tăng cƣờng sự chuyển tiếp dần
dần từ cuộc sống nơi giáo dục tới cộng đồng.
Việc ân xá sớm có thể đƣợc bảo đảm nhƣ là một phần của các chƣơng trình
17


phóng thích sớm hay chƣơng trình có điều kiện với sự giám sát của cộng đồng. Việc
này có thể bao gồm sự giám sát, các nhóm nhỏ tổ chức những hoạt động thể thao
hoặc hoạt động văn hóa nghỉ ngơi xa nhà với các nhân viên của cơ sở giam giữ, hay
là việc tạm thả cá biệt cho phép ngƣời phạm tội về thăm gia đình, đến trƣờng hay
tham gia các khóa đào tạo hƣớng nghiệp hoặc tìm hiểu các cơ hội nghề nghiệp bên
ngoài cơ sở giam giữ.
1.5. Pháp luật về tái hòa nhập xã hội đối với người chưa thành niên
phạm tội mãn hạn tù

1.5.1. Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại cơ sở giam giữ
Việc tái hịa nhập thành cơng của ngƣời chƣa thành niên phạm tội phải bắt đầu
ngay trong khi họ đang trong trại giam. Vì mỗi ngƣời chƣa thành niên phạm tội
khơng giống nhau nên những chƣơng trình và sự can thiệp phải dựa trên kế hoạch
riêng cho từng ngƣời. Do đó, các cơ quan nên đề ra những chƣơng trình và sự giúp đỡ
đối với những nhu cầu của các cá nhân phạm tội này. Khi xác định đƣợc những nhu
cầu của ngƣời phạm tội, sự giúp đỡ, giáo dục hoặc những chƣơng trình việc làm để
họ có thể mở rộng cánh cửa cho việc tái hòa nhập xã hội đƣợc thành công.
Ở nhiều quốc gia, các cơ sở giam giữ thực hiện điều này bằng cách thuê
những ngƣời quản lý ca (quản lý từng vụ). Những ngƣời quản lý ca đánh giá toàn
diện những nhu cầu và rủi ro đối với từng phạm nhân vào thời điểm họ nhập trại
giam. Dựa vào sự đánh giá này, ngƣời quản lý ca sau đó phát triển, giám sát, cải tạo
và có kế hoạch tái hịa nhập cộng đồng cho từng phạm nhân. Kế hoạch đƣa ra phải
dựa vào những điểm mạnh ngƣời phạm tội, các nhân tố nguy hiểm, những nhu cầu
chính và nó là chiến lƣợc nhằm giúp đỡ ngƣời phạm tội giải quyết những vấn đề của
chính mình khi họ trong trại giam.
Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 đã thể hiện tƣ tƣởng
chỉ đạo xuyên suốt về vấn đề tái hòa nhập xã hội đối với ngƣời phạm tội, theo đó tại
Điều 3 có quy định về nguyên tắc xử lý nhƣ sau: "Đối với người bị phạt tù thì buộc
họ phải chấp hành hình phạt trong trại giam, phải lao động, học tập để trở thành
người có ích cho xã hội; nếu họ có nhiều tiến bộ thì xét để giảm việc chấp hành
hình phạt" [36]. Bên cạnh đó Điều 27 Bộ luật Hình sự cũng đã nhấn mạnh mục đích
của hình phạt nhƣ sau: "Hình phạt khơng chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn
18


giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các
quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới" [36, Điều 27].
Theo quy định tại Điều 16 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 về nhiệm vụ, quyền
hạn, cơ cấu tổ chức của trại giam thì: Trại giam là cơ quan thi hành án phạt tù, có

nhiệm vụ quyền hạn "tiếp nhận, tổ chức quản lý giam giữ, giáo dục cải tạo phạm
nhân" [40]. Trại giam có phân trại, khu giam giữ, nhà giam, các cơng trình phục vụ
việc quản lý giam giữ, phục vụ sinh hoạt, chăm sóc y tế, giáo dục cải tạo phạm
nhân; các cơng trình phục vụ làm việc, sinh hoạt của sĩ quan, quân nhân chuyên
nghiệp, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân, viên chức công tác tại trại giam. Tổ chức bộ
máy quản lý của trại giam gồm có Giám thị, Phó giám thị, Trƣởng phân trại, Phó
trƣởng phân trại, Đội trƣởng, Phó đội trƣởng; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ
sĩ quan; chiến sĩ và công nhân, viên chức. Giám thị, Phó giám thị, Trƣởng phân trại,
Phó trƣởng phân trại, Đội trƣởng, Phó đội trƣởng phải là ngƣời đã tốt nghiệp đại
học cảnh sát, đại học an ninh, đại học luật trở lên và bảo đảm các tiêu chuẩn khác
theo quy định của Chính phủ.
Q trình giáo dục, cải tạo phạm nhân là q trình kiểm sốt, tổ chức và
hƣớng dẫn các loại hình hoạt động và giao tiếp của ngƣời phạm tội đƣợc thực hiện
một cách có mục đích, có kế hoạch trong những điều kiện cụ thể của trại giam trên
cơ sở quy định của pháp luật. Đây là một q trình khó khăn, phức tạp do những
hành vi thói quen xấu, nhất là những ngƣời đã bị ảnh hƣởng và chi phối bởi những
quan điểm, tƣ tƣởng sai lầm, nhân cách lệch lạc, suy thoái đến mức trầm trọng.
Những ngƣời phạm tội đã mang trong họ những phẩm chất tâm lý tiêu cực nhƣ: triết
lý sống thấp hèn, thói quen vơ đạo đức, tính hung bạo, nhẫn tâm, tàn ác, tham lam,
ích kỉ, cục cằn, thiếu văn hóa, lối sống tự do, bừa bãi, vô kỉ luật của phạm nhân là
khá phổ biến và khơng thể ngày một ngày hai có thể thay đổi đƣợc. Tuy nhiên, dù
nhân cách của ngƣời phạm tội có suy thối, vơ đạo đức đến mức nào thì ở mỗi con
ngƣời vẫn cịn tính nhân bản, trong sâu thẳm tâm hồn của họ, ít nhiều vẫn cịn lƣơng
tri, nỗi niềm trắc ẩn, điều mà có thể khơi dậy đƣợc. Trại giam là nơi tiếp nhận ngƣời
phạm tội, sau đó tổ chức quản lý giam giữ và giáo dục cải tạo phạm nhân. Đầu tiên
ngƣời phạm tội sẽ đƣợc phân loại để quản lý, giáo dục, hƣớng nghiệp, dạy nghề cho
phù hợp với từng loại đối tƣợng, phạm nhân mới đến trại giam đƣợc học chƣơng
19



×