Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

(Luận văn thạc sĩ) tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong tố tụng dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 105 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN VĂN HUY

TẠM ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN VĂN HUY

TẠM ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số

: 838 01 01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. PHAN QUỐC NGUYÊN

Hà Nội – 2020




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
kết quả trong Luận văn chưa được cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn bảo đảm tính chính xác, tin cậy
và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này, đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Trần Văn Huy


MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU........................................................................................................................1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TẠM ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN
DÂN SỰ .........................................................................................................................8
1.1. Khái niệm tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ...........................................8
1.2. Đặc điểm của tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự .................................... 11
1.3. Ý nghĩa của tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự...................................... 12
1.4. Cơ sở khoa học của tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ......................... 12
1.5. Phân loại căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự .............................. 15
1.6. Lược sử pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về tạm đình chỉ giải quyết vụ

án dân sự ............................................................................................................. 17
1.6.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến 1959 .......................................................... 18
1.6.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến 1989 .......................................................... 19
1.6.3. Giai đoạn từ năm 1990 đến 2004 .......................................................... 19
1.6.4. Giai đoạn từ năm 2005 đến 2015 .......................................................... 21
1.6.5. Giai đoạn từ năm 2016 đến nay ............................................................ 22
Kết luận chương 1 ......................................................................................................23
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT
NAM VỀ TẠM ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ .......................25
2.1. Căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.............................................. 25
2.1.1. Trường hợp đương sự là cá nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã hợp nhất,
sáp nhập, chia, tách, giải thể ........................................................................... 26
2.1.2. Trường hợp đương sự là cá nhân mất năng lực hành vi dân sự, người chưa
thành niên mà chưa xác định được người đại diện theo pháp luật ..................... 31


2.1.3. Trường hợp chấm dứt đại diện hợp pháp của đương sự mà chưa có
người thay thế .................................................................................................. 34
2.1.4. Trường hợp cần đợi kết quả giải quyết vụ án khác hoặc sự việc được
pháp luật quy định ........................................................................................... 36
2.1.5. Trường hợp cần đợi kết quả thực hiện ủy thác tư pháp, ủy thác thu thập
chứng cứ hoặc đợi cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ ................... 38
2.1.6. Trường hợp cần đợi kết quả xử lý văn bản quy phạm pháp luật có liên
quan đến việc giải quyết vụ án ........................................................................ 42
2.1.7. Trường hợp theo quy định tại Điều 41 của Luật phá sản ..................... 43
2.1.8. Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật................................ 44
2.2. Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ....................................... 46
2.3. Thời điểm ban hành Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ....... 48
2.3.1. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án ..................................... 49
2.3.2. Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án ....................................................... 49

2.3.3. Sau khi tạm ngừng phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án .............................. 50
2.4. Thẩm quyền ban hành Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ........ 52
2.4.1. Trước khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án ...................................... 52
2.4.2. Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án ....................................................... 52
2.4.3. Sau khi tạm ngừng phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án .............................. 52
2.5. Quy trình tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ......................................... 53
2.5.1. Xác định căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ......................... 53
2.5.2. Soạn thảo Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ................ 53
2.5.3. Ban hành Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ................. 54
2.6. Thời hạn tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự........................................... 55
2.7. Hậu quả pháp lý của tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự........................ 56
2.8. Quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự ............................................... 58
2.9. Kiểm sát Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ......................... 61
Kết luận chương 2 ......................................................................................................65


Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ MỘT SỐ KIẾN
NGHỊ VỀ TẠM ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ .........................66
3.1. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về tạm
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.......................................................................... 66
3.2. Nguyên nhân của những vướng mắc, bất cập trong việc áp dụng pháp luật
về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự............................................................. 71
3.2.1. Nguyên nhân khách quan ....................................................................... 71
3.2.2. Nguyên nhân chủ quan........................................................................... 73
3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự............................................................. 75
3.3.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về tạm đình
chỉ giải quyết vụ án dân sự .............................................................................. 75
3.3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về tạm đình
chỉ giải quyết vụ án dân sự ................................................................................ 86

Kết luận Chương 3.....................................................................................................89
KẾT LUẬN .................................................................................................................92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................................................94


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLTTDS

:

Bộ luật Tố tụng dân sự

BLTTDS 2004

:

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004

BLDS 2015

:

Bộ luật dân sự năm 2015

BLTTDS 2015

:

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015


HĐTP – TANDTC

:

Hội đồng Thẩm phán – Tòa án nhân dân tối cao

HĐXX

:

Hội đồng xét xử

TAND

:

Tòa án nhân dân

TANDTC

:

Tòa án nhân dân tối cao

UBND

:

Ủy ban nhân dân


VKS

:

Viện kiểm sát

VKSND

:

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

:

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

VADS

:

Vụ án dân sự


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc Tịa án giải quyết các VADS là nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của các đương sự trong vụ án. Tuy nhiên, trong q trình giải quyết vụ
án, có thể xuất hiện những sự kiện pháp lý nhất định làm cho Tịa án khơng

thể tiếp tục tiến hành tố tụng, nếu Tịa án vẫn tiếp tục tiến hành có thể sẽ
khơng bảo đảm được quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án và kết
quả giải quyết của vụ án. Khi đó, Tịa án phải tạm đình chỉ giải quyết VADS.
Tạm đình chỉ giải quyết VADS là một chế định quan trọng được quy
định trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Trải qua quá trình đấu tranh
cách mạng, xây dựng Chủ nghĩa xã hội và pháp điển hóa ở nước ta, các quy
định về tạm đình chỉ giải quyết VADS đã được mở rộng và ngày càng hồn
thiện, phù hợp với thực tiễn hơn; điển hình phải kể đến các quy định về chế
định này trong BLTTDS 2015. Bộ luật này đã kế thừa và phát triển những quy
định phù hợp với thực tiễn của các BLTTDS trước đây, hướng tới sự hoàn
thiện của các quy định về tạm đình chỉ giải quyết VADS trong hệ thống pháp
luật tố tụng dân sự Việt Nam; nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các
đương sự và bảo đảm tính chính xác, đúng đắn trong việc giải quyết vụ án.
Tuy nhiên, bên cạnh nhiều quy định mới về tạm đình chỉ giải quyết
VADS thể hiện những điểm tích cực lớn thì BLTTDS 2015 cũng đã cho thấy
một số bất cập, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật như: Một số quy
định còn chưa rõ ràng dẫn đến những cách hiểu và áp dụng pháp luật không
thống nhất; tình trạng các VADS bị tạm đình chỉ cịn chiếm một số lượng lớn
trong số các vụ án dân sự được Tòa án thụ lý, một số nơi số lượng VADS bị
tạm đình chỉ có xu hướng tăng và có nhiều Quyết định tạm đình chỉ khơng
đúng quy định của pháp luật... Do đó, dẫn đến nhiều vụ án bị kéo dài thời gian
giải quyết một cách không cần thiết, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi
ích hợp pháp của các đương sự và ảnh hưởng đến kết quả giải quyết vụ án [16].

1


Vậy, vấn đề đặt ra là: Chế định này cần được hiểu, áp dụng như thế nào
cho chính xác và thống nhất? Nó phát sinh những vướng mắc, bất cập gì?
Nguyên nhân do đâu? Giải pháp nào để giải quyết những vướng mắc, bất cập?

Thiết nghĩ, để trả lời vấn đề đặt ra nêu trên, việc nghiên cứu một cách
chuyên sâu, có hệ thống và tồn diện các vấn đề pháp lý về tạm đình chỉ giải
quyết VADS trên cơ sở các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp
luật; chỉ ra những vướng mắc, bất cập và nguyên nhân của những vướng mắc,
bất cập; từ đó, đưa ra giải pháp nhằm góp phần hồn thiện hơn các quy định của
pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong thực tiễn là rất cần thiết.
Cho đến nay, có rất ít cơng trình, đề tài nghiên cứu về tạm đình chỉ giải
quyết VADS. Một số cơng trình, đề tài nghiên cứu đã cơng bố cịn chưa
nghiên cứu một cách chuyên sâu, có hệ thống và tồn diện các vấn đề pháp lý
về tạm đình chỉ giải quyết VADS. Đặc biệt, kể từ khi BLTTDS 2015 ra đời,
chưa có cơng trình, đề tài nào đã cơng bố nghiên cứu chuyên sâu và hệ thống
trên cơ sở các quy định của Bộ luật này; Bộ luật này có nhiều điểm mới tích
cực nhưng cũng khơng ít những hạn chế về đề tạm đình chỉ giải quyết VADS.
Vì vậy, với mong muốn góp phần trong việc giải quyết các vấn đề đặt ra
đối với chế định tạm đình chỉ giải quyết VADS trong pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài “Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân
sự trong tố tụng dân sự Việt Nam” làm Luận văn Thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Như đã nêu, hiện nay có rất ít cơng trình, đề tài nghiên cứu về tạm đình
chỉ giải quyết VADS. Đặc biệt là các cơng trình, đề tài nghiên cứu trên cơ sở
các quy định của BLTTDS 2015; chủ yếu là một số bài viết đăng trên các báo,
tạp chí, trang thơng tin điện tử về chế định tạm đình chỉ giải quyết VADS như:
- Bài viết “Quy định về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015 cần được hướng dẫn cụ thể hơn” của TS. Bùi Thị
Huyền - Trường Đại học Luật Hà Nội đăng trên Tạp chí dân chủ và pháp luật;

2


- Bài viết “Quy định về "Đình chỉ" trong bộ luật tố tụng dân sự” của

Thạc sĩ Tống Công Cường – Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh
đăng trên Tạp chí khoa học pháp lý số 4 (41) năm 2007;
- Bài viết “Một số giải pháp nâng cao chất lượng cơng tác kiểm sát
quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự” của tác giả Lê Thị Hồng
Hạnh – VKSND thành phố Hà Nội, đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 09/2018;
- Bài viết “Vướng mắc, bất cập và kiến nghị hoàn thiện một vài quy định
của Bộ luật Tố tụng Dân sự” của Thạc sĩ Thái Chí Bình - TAND thành phố
Châu Đốc, tỉnh An Giang đăng trên Trang thông tin điện tử của Bộ Tư pháp;
- Bài viết “Tạm đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định Bộ luật tố tụng
Dân sự năm 2015” của tác giả Nguyễn Thị Liên – VKSND huyện Cát Hải
đăng trên trang thông tin điện tử của VKSND thành phố Hải Phòng;
- Bài viết “Về thời điểm ban hành quyết định tạm đình chỉ giải quyết
vụ án dân sự” và “Hội đồng xét xử ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân
sự như thế nào?” của tác giả Ngọc Trâm đăng trên Tạp chí Tịa án;
- Bài viết “Bất cập trong tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự” đăng
trên Tạp chí Kiemsat online;… Và một số bài viết liên quan khác trên internet.
Ngoài một số bài viết nêu trên, phải kể đến là đề tài Luận văn Thạc sĩ
Luật học: “Tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của
Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2004” của tác giả Phạm Hải Tâm. Tại đề tài này,
tác giả đã nghiên cứu về một số vấn đề lý luận cơ bản của tạm đình chỉ giải
quyết VADS; nghiên cứu về các quy định của BLTTDS 2004 và thực tiễn áp
dụng các quy định của Bộ luật này; từ đó, tác giả đã chỉ ra được một số hạn
chế của pháp luật và đưa ra được một số kiến nghị nhằm hồn thiện quy định
của pháp luật về tạm đình chỉ giải quyết VADS.
Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của đề tài trên rất rộng, bao gồm cả về
tạm đình chỉ và đình chỉ giải quyết cả VADS và việc dân sự. Do đó, đề tài này
mới chỉ nghiên cứu một cách cơ bản về một số vấn đề lý luận của tạm đình

3



chỉ giải quyết VADS và thực trạng quy định của pháp luật trên cơ sở các quy
định của BLTTDS 2004; chưa tập trung nghiên cứu một cách chuyên sâu, có
hệ thống và tồn diện các vấn đề về tạm đình chỉ giải quyết VADS. Hơn nữa,
đối tượng nghiên cứu của đề tài trên là các quy định của BLTTDS 2004. Do
vậy, đến nay một số kết quả nghiên cứu của đề tài trên đã khơng cịn phù hợp,
bởi BLTTDS Việt Nam hiện hành là BLTTDS 2015 và Bộ luật này đã có
nhiều điểm mới so với BLTTDS 2004.
Tóm lại, một số bài viết và đề tài nêu trên có các góc độ tiếp cận, nghiên
cứu khác nhau về những khía cạnh nhất định của tạm đình chỉ giải quyết VADS.
Cho đến nay, chưa có một cơng trình, đề tài nghiên cứu nào đã nghiên cứu
một các chuyên sâu, có thệ thống và toàn diện các vấn đề pháp lý về tạm đình
chỉ giải quyết VADS trên cơ sở các quy định của BLTTDS 2015.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu có mục đích xây dựng cơ sở lý luận về tạm đình chỉ
giải quyết VADS trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Tiếp đến, trên cơ sở
nghiên cứu các vấn đề lý luận, thực trạng quy định của BLTTDS 2015 về tạm
đình chỉ giải quyết VADS và thực tiễn áp dụng các quy định của BLTTDS 2015
trong công tác giải quyết các VADS của Tòa án, tác giả chỉ ra các vướng mắc,
bất cập của vấn đề này và những nguyên nhân của vướng mắc, bất cập đó.
Từ đó, tác giả đưa ra một số kiến nghị nhằm khắc phục những vướng
mắc, bất cập của tạm đình chỉ giải quyết VADS; hoàn thiện các quy định của
pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về tạm đình chỉ giải quyết
VADS trong công tác giải quyết các VADS của Tịa án.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích trên, Luận văn có những nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau:
- Phân tích và làm sáng tỏ một cách có hệ thống cơ sở kiến thức pháp
lý về tạm đình chỉ giải quyết VADS;


4


- Đưa ra, làm rõ các khái niệm liên quan tạm đình chỉ giải quyết VADS;
- Chỉ ra cơ sở khoa học và ý nghĩa của tạm đình chỉ giải quyết VADS;
- Chỉ ra những đặc điểm cơ bản của tạm đình chỉ giải quyết VADS;
- Phân loại căn cứ tạm đình chỉ giải quyết VADS;
- Nghiên cứu, phân tích và đánh giá các quy định của BLTTDS 2015
về tạm đình chỉ giải quyết VADS; việc kiểm sát Quyết định tạm đình chỉ giải
quyết VADS;
- Nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định
của BLTTDS 2015 về tạm đình chỉ giải quyết VADS trong cơng tác giải
quyết các VADS của Tòa án;
- Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, đánh giá về lý luận và thực tiễn,
tác giả chỉ ra các vướng mắc, bất cập của vấn đề và nguyên nhân của những
vướng mắc, bất cập đó;
- Cuối cùng, tác giả đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định
của pháp luật về tạm đình chỉ giải quyết VADS và nâng cao hiệu quả áp dụng
các quy định của pháp luật về tạm đình chỉ giải quyết VADS trong cơng tác
giải quyết các VADS của Tòa án.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận cơ bản về tạm
đình chỉ giải quyết VADS; các quy định của BLTTDS 2015 về tạm đình chỉ
giải quyết VADS và thực tiễn áp dụng các quy định của BLTTDS 2015 về
tạm đình chỉ giải quyết VADS trong việc giải quyết các VADS của Tịa án.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khn khổ của một đề tài Luận văn Thạc sĩ, tác giả xác định
phạm vi nghiên cứu là tập trung chủ yếu vào những vấn đề lý luận cơ bản và
các quy định của BLTTDS 2015 về tạm đình chỉ giải quyết VADS;

Trên cơ sở đó, Luận văn tập trung vào việc phân tích, đánh giá các quy

5


định của BLTTDS 2015 về tạm đình chỉ giải quyết VADS và thực tiễn áp
dụng các quy định của Bộ luật này về tạm đình chỉ giải quyết VADS trong
cơng tác giải quyết các VADS; chỉ ra các vướng mắc, bất cập và nguyên nhân
của những vướng mắc, bất cập đó.
Cuối cùng, Luận văn đưa ra các quan điểm và kiến nghị nhằm hoàn
thiện quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về tạm đình chỉ giải
quyết VADS và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong cơng tác giải
quyết các VADS của Tịa án.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác–Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam; phương pháp luận nghiên cứu khoa học
của khoa học pháp lý để tiếp cận đối tượng nghiên cứu của đề tài.
Để đạt được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong
quá trình nghiên cứu thực hiện Luận văn, tác giả sử dụng kết hợp các phương
pháp nghiên cứu cụ thể như: Phân tích, tổng hợp, nghiên cứu so sánh, phản
biện, thống kê xã hội học, phương pháp quy nạp, diễn dịch,...:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng để giải quyết các vấn
đề về cơ sở lý luận của tạm đình chỉ giải quyết VADS, như: Bản chất, đặc
điểm, cơ sở khoa học của tạm đình chỉ giải quyết VADS; phân tích nội dung
các quy định của BLTTDS 2015 và thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật
này về tạm đình chỉ giải quyết VADS ở Việt Nam;…
- Các phương pháp khác như so sánh, đánh giá, phản biện, thống kê xã
hội học được sử dụng để so sánh, đánh giá giữa các các quy định của pháp
luật có liên quan với tạm đình chỉ giải quyết VADS theo quy định của BLTTDS

hiện hành; vận dụng để đưa ra ý kiến nhận xét về các quy định của pháp luật
hiện hành có hợp lý hay không, chỉ ra các vướng mắc, bất cập của vấn đề này;…

6


- Phương pháp quy nạp, diễn dịch được vận dụng để triển khai có hiệu
quả các vấn đề liên quan đến tạm đình chỉ giải quyết VADS, đặc biệt là các
kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật về tạm đình chỉ giải quyết VADS trong thực tiễn. Cụ thể, như trên
cơ sở đưa ra những kiến nghị mang tính khái quát, tác giả dùng phương pháp
diễn dịch để làm rõ nội dung của kiến nghị đó…
6. Ý nghĩa của Luận văn
Luận văn mang ý nghĩa về mặt khoa học và thực tiễn. Đây là cơng trình
nghiên cứu chun sâu, có hệ thống và toàn diện các vấn đề pháp lý cơ bản về
tạm đình chỉ giải quyết VADS trên cơ sở các quy định của BLTTDS 2015;
đưa ra được một số kiến nghị mới so với các cơng trình, đề tài khác đã công
bố trước đây nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của pháp luật;
Luận văn là nguồn tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu khoa học
pháp lý, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án;
Kết quả nghiên cứu của Luận văn là nguồn tài liệu tham khảo trong
công tác giảng dạy, nghiên cứu và học tập các mơn học pháp luật;
Ngồi ra, những kiến nghị hồn thiện pháp luật là cơ sở để các nhà lập
pháp tham khảo, vận dụng cho quá trình nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, hoàn
thiện các quy định của pháp luật trong lĩnh vực tương ứng.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
kết cấu của Luận văn gồm có 3 chương. Cụ thể như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về tạm

đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật và một số kiến nghị về tạm
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự

7


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TẠM ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
Để làm rõ được bản chất pháp lý của tạm đình chỉ giải quyết VADS,
trước tiên cần làm rõ được “tạm đình chỉ” là gì và “vụ án dân sự” là gì?
Theo Từ điển tiếng Việt: “Tạm đình chỉ” có nghĩa là tạm ngừng hoặc
làm cho phải tạm ngừng, không thực hiện một hoạt động nào đó trong một
khoảng thời gian nhất định và chuyển sang thực hiện tiếp hoạt động đó vào
một thời điểm khác muộn hơn khi có điều kiện [41, tr. 324-887].
Trước khi BLTTDS 2004 ra đời, thuật ngữ “vụ án dân sự” đã được đề
cập trong các Pháp lệnh quy định về thủ tục tố tụng, gồm: Pháp lệnh thủ tục
giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh
chấp lao động năm 1996 và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các VADS năm 1989.
Theo đó, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 và Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996 chỉ đề cập đến thuật
ngữ “vụ án dân sự”, còn Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các VADS năm 1989
quy định chi tiết về thủ tục giải quyết các VADS và VADS được hiểu là bao
gồm cả những việc có tranh chấp và việc khơng có tranh chấp [12, 39, 40].
Đến khi BLTTDS 2004 ra đời, Bộ luật này đã phân loại rõ trong thủ tục
tố tụng gồm có hai loại riêng biệt là VADS và việc dân sự. Cụ thể, VADS bao
gồm các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và
lao động; việc dân sự bao gồm các việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại và lao động khơng có tranh chấp [17]. BLTTDS 2015 –

BLTTDS hiện hành cũng phân loại như BLTTDS 2004 [18].
Trên cơ sở đó, một số nhà nghiên cứu đã đưa ra quan điểm về VADS
và việc dân sự như sau:
Theo Tiến sĩ Hoàng Ngọc Thỉnh: “Trong hầu hết các vụ án dân sự đều
có các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên đương sự mà họ không

8


thể thương lượng tự giải quyết được, do đó họ phải u cầu Tịa án xem xét
giải quyết. Ngồi những vụ án nói trên, cũng cịn một số vụ án mà giữa các
bên đương sự khơng có sự tranh chấp về quyền và nghĩa vụ” [5, tr. 7-8].
Tiến sĩ Nguyễn Cơng Bình cho rằng: “Các vụ việc phát sinh từ quan hệ
pháp luật dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động
do Tòa án giải quyết được gọi là vụ việc dân sự. Trong đó, đối với những việc
có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên được gọi là vụ án dân sự,
đối với những việc khơng có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên
được gọi là việc dân sự” [4, tr.9].
Như vậy, trước đây, VADS bao gồm cả tranh chấp dân sự và việc dân sự;
kể từ khi BLTTDS 2004 ra đời cho đến nay, VADS bao gồm các tranh chấp
phát sinh từ các quan hệ pháp luật về dân sự, hơn nhân và gia đình, lao động
và kinh doanh, thương mại [25, tr. 8].
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm VADS như sau:
“Vụ án dân sự là các tranh chấp về quyền, nghĩa vụ phát sinh từ các
quan hệ pháp luật về dân sự, hơn nhân và gia đình, lao động và kinh doanh,
thương mại giữa các chủ thể mà họ không thể tự giải quyết được, dẫn đến
hành vi khởi kiện ra Tòa án yêu cầu giải quyết và được Tòa án thụ lý”.
Theo đó, VADS là các tranh chấp về quyền, nghĩa vụ phát sinh từ các
quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động và kinh doanh, thương mại.
Các tranh chấp này được coi là VADS khi được chủ thể trong các quan hệ

tranh chấp đưa ra trước Tòa án để yêu cầu giải quyết và được Tòa án thụ lý
giải quyết; việc đưa các tranh chấp đó ra trước Tòa án được gọi là khởi kiện
vụ án; chủ thể trong VADS được gọi là đương sự (gồm: cá nhân, cơ quan, tổ
chức - nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan). Chủ thể
của các tranh chấp có thể tự mình hoặc thơng qua người đại diện hợp pháp để
khởi kiện vụ án tại Tịa án có thẩm quyền, u cầu bảo vệ quyền lợi của mình.
Vậy, “Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự” là gì?

9


Theo PGS.TS Trần Anh Tuấn thì: “Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân
sự là việc Tòa án quyết định tạm ngừng việc giải quyết vụ án dân sự đã thụ lý
trong một thời hạn nhất định khi có căn cứ theo pháp luật quy định và khi lý
do của việc tạm đình chỉ khơng cịn thì Tịa án lại tiếp tục giải quyết vụ án
dân sự đó” [37, tr. 509].
Khoản 3 Điều 203 BLTTDS 2015 quy định: Trong thời hạn chuẩn bị
xét xử được quy định tại khoản 1 Điều này, tùy từng trường hợp, Thẩm phán
ra một trong các Quyết định…; trong đó có Quyết định tạm đình chỉ giải
quyết VADS. Tuy nhiên, khơng phải mọi VADS, Tịa án đều có thể ra Quyết
định tạm đình chỉ giải quyết VADS; cũng không phải Thẩm phán ra Quyết
định tạm đình chỉ giải quyết VADS theo ý chí chủ quan của mình. Việc Tịa
án ra Quyết định tạm đình chỉ giải quyết VADS phải dựa trên cơ sở quy định
của pháp luật và chỉ khi pháp luật có quy định thì Tịa án mới ra Quyết định
tạm đình chỉ giải quyết VADS [38, tr. 92-93].
Quy định trên xuất phát từ thực tế, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự và bảo đảm tính chính xác, đúng đắn của việc giải quyết
vụ án. Bởi lẽ, trong quá trình giải quyết VADS có thể xuất hiện những sự kiện
nhất định khiến cho việc giải quyết vụ án cần hoặc phải tạm ngừng, nếu Tòa
án vẫn tiến hành giải quyết vụ án trong những trường hợp này thì có thể dẫn

đến việc giải quyết vụ án phiến diện, thiếu chính xác và khơng đảm bảo được
quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự trong vụ án; mặt khác, nếu Tịa án
ra Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án thiếu cơ sở sẽ làm cho vụ án bị
kéo dài, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án.
Như vậy, từ những phân tích trên, kế thừa quan điểm của các nhà
nghiên cứu, tác giả đưa ra khái niệm tạm đình chỉ giải quyết VADS như sau:
“Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là việc Tòa án tạm ngừng giải
quyết vụ án dân sự khi có căn cứ do pháp luật quy định, khi lý do tạm đình
chỉ khơng cịn thì Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án dân sự đó”.

10


Theo đó, bản chất pháp lý của tạm đình chỉ giải quyết VADS là hành vi
tố tụng của Tòa án trong q trình giải quyết VADS, dưới góc độ là một
Quyết định bằng văn bản của Tòa án; là việc Tòa án quyết định tạm ngừng
giải quyết VADS đã thụ lý trong một thời hạn nhất định khi có căn cứ theo
quy định của pháp luật, khi lý do tạm đình chỉ khơng cịn thì Tịa án sẽ tiếp
tục giải quyết vụ án đó; tạm đình chỉ giải quyết VADS không làm chấm dứt
việc giải quyết vụ án mà chỉ làm gián đoạn tạm thời tiến trình tố tụng đang
được tiến hành do xuất hiện những tình tiết, sự kiện nhất định [37, tr. 509].
1.2. Đặc điểm của tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
Thứ nhất, tạm đình chỉ giải quyết VADS là hành vi tố tụng của Tịa án
trong q trình giải quyết VADS, dưới góc độ là một Quyết định bằng văn
bản mang tính tạm thời;
Thứ hai, tạm đình chỉ giải quyết VADS phải dựa trên căn cứ do pháp
luật quy định, trên cơ sở bảo đảm quyền lợi của đương sự, tính chính xác và
đúng đắn trong việc giải quyết VADS và việc phối hợp giữa các cơ quan, tổ
chức trong việc giải quyết VADS;
Thứ ba, tạm đình chỉ giải quyết VADS chỉ làm tạm ngừng giải quyết vụ

án trong một thời hạn nhất định, không làm chấm dứt việc giải quyết vụ án và
chỉ làm gián đoạn tạm thời tiến trình tố tụng đang được tiến hành do xuất hiện
những tình tiết, sự kiện pháp lý nhất định;
Thứ tư, tính chất gián đoạn, tạm thời do tạm đình chỉ giải quyết VADS
mang lại sẽ được khắc phục, mọi hoạt động tố tụng sẽ được khơi phục khi căn
cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án khơng cịn và Tịa án phải ra Quyết định tiếp
tục giải quyết vụ án trong thời hạn pháp luật quy định;
Thứ năm, trong quá trình giải quyết VADS, tạm đình chỉ giải quyết
VADS được áp dụng ở Tịa án cấp sơ thẩm;
Thứ sáu, Quyết định tạm đình chỉ giải quyết VADS có thể bị kháng
cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

11


1.3. Ý nghĩa của tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
Việc Tịa án ra Quyết định tạm đình chỉ giải quyết VADS có ý nghĩa
quan trọng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Khi xuất
hiện những tình tiết, sự kiện làm cho việc giải quyết vụ án khơng thể tiếp tục
được, nếu Tịa án vẫn tiếp tục giải quyết vụ án sẽ ảnh hưởng đến quyền, lợi
ích hợp pháp của các đương sự. Đồng thời, kết quả giải quyết vụ án có thể sẽ
khơng chính xác, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cũng có thể khơng
được bảo đảm.
Do vậy, việc Tịa án ra Quyết định tạm đình chỉ giải quyết VADS là cần
thiết, tránh gây thiệt hại cho quyền lợi chính đáng của đương sự. Đồng thời,
việc Tịa án ra Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án cũng có ý nghĩa rất
quan trọng trong việc tránh các sai phạm có thể xảy ra trong q trình giải quyết
vụ án, bảo đảm vụ án đó được xem xét, giải quyết khách quan và chính xác.
1.4. Cơ sở khoa học của tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn trong vấn đề giải quyết VADS; có thể

thấy, việc quy định về tạm đình chỉ giải quyết VADS dựa trên các cơ sở khoa
học sau:
Thứ nhất, nhằm bảo đảm quyền tham gia tố tụng của đương sự và
người đại diện hợp pháp của đương sự
Trong việc giải quyết VADS, Tịa án có trách nhiệm bảo đảm việc giải
quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời, chính xác và đúng với quy định của pháp
luật nhằm bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích hợp pháp của của đương sự. Với các
quyền năng được pháp luật trao, trong quá trình giải quyết VADS, đương sự
và người đại diện của họ thực hiện các quyền tố tụng dân sự được pháp luật
quy định để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước các hành vi xâm
phạm của chủ thể khác bằng việc tham gia tố tụng tại Tòa án như: Quyền khởi
kiện; quyền tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ và hòa giải; quyền tham gia phiên xét xử và tranh tụng tại Tòa án;

12


quyền kháng cáo, khiếu nại, kiến nghị… Các chủ thể có thể sử dụng quyền
năng đó như một cơng cụ hữu hiệu để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi của
mình, chống lại các hành vi xâm phạm của chủ thể khác, đặc biệt trong trường
hợp đương sự là người yếu thế như trẻ em, phụ nữ và người mất, hạn chế
năng lực, hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi...
Trong thực tiễn giải quyết các VADS, có thể xuất hiện các sự kiện làm
cho việc giải quyết vụ án không bảo đảm quyền tham gia tố tụng của đương
sự và người đại diện của họ như: Đương sự là cá nhân đã chết, cơ quan, tổ
chức đã hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải thể mà chưa có cơ quan, tổ chức,
cá nhân kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó;
đương sự là cá nhân mất năng lực hành vi dân sự, người chưa thành niên mà
chưa xác định được người đại diện theo pháp luật hoặc việc đại diện hợp pháp
đã chấm dứt mà chưa có người thay thế. Trong những trường hợp này, cần

quy định Tòa án đã thụ lý VADS phải tạm ngừng giải quyết vụ án để bảo đảm
quyền tham gia tố tụng của các đương sự và người đại diện của họ [25, tr. 18].
Thứ hai, nhằm bảo đảm mối liên hệ giữa các Bản án, Quyết định của
Tịa án và bảo đảm tính chính xác, đúng đắn trong việc giải quyết vụ án
Trong một số trường hợp, việc giải quyết VADS do Tòa án đã thụ lý lại
liên quan mật thiết tới kết quả giải quyết của một số vụ án khác hay một số sự
việc khác được pháp luật quy định là phải do cơ quan, tổ chức khác giải quyết
trước thì mới giải quyết được vụ án. Kết quả giải quyết của một số vụ án, sự
việc khác liên quan ấy có ảnh hưởng trực tiếp đến việc giải quyết vụ án, nếu
không được cơ quan, tổ chức khác giải quyết trước thì việc giải quyết của Tịa
án là vi phạm pháp luật hoặc khơng bảo đảm được tính chính xác, đúng đắn
trong việc giải quyết vụ án. Chẳng hạn như Tòa án đã thụ lý vụ án về tranh
chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
liên quan đến thửa đất đang được giải quyết về tranh chấp chia di sản thừa kế,
khi đó Tịa án phải tạm ngừng giải quyết vụ án đã thụ lý, chờ kết quả giải

13


quyết của vụ án tranh chấp chia di sản thừa kế để xác định ai là người có
quyền thừa kế, sử dụng thửa đất đó; hay khi giải quyết vụ án ly hôn theo yêu
cầu của một bên (ly hôn đơn phương) với người biệt tích, thì chỉ có thể thực
hiện được sau khi có Quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về việc
tuyên bố người biệt tích đó chết hoặc mất tích...
Trong các trường hợp như vậy, nếu Tòa án vẫn cứ tiếp tục tiến hành
giải quyết thì có thể sẽ dẫn đến việc giải quyết vụ án khơng bảo đảm tính
chính xác và đúng đắn. Do vậy, Tòa án cần hoặc phải tạm ngừng tiến hành tố
tụng để chờ kết quả giải quyết của những vụ án, sự việc khác có liên quan tới
vụ án mà Tòa án đã thụ lý để bảo đảm sự khách quan, tồn diện và tính chính
xác, đúng đắn trong việc giải quyết vụ án [25, tr. 19].

Thứ ba, nhằm bảo đảm trật tự công và sự phối hợp giữa các cơ quan,
tổ chức trong việc giải quyết vụ án
Nhằm giảm bớt áp lực cơng việc cho Tịa án, đề cao việc giải quyết
tranh chấp dân sự thông qua hòa giải, thương lượng nên trong một số trường
hợp pháp luật quy định Tòa án chỉ tiến hành thụ lý, giải quyết vụ án sau khi
tranh chấp đã được các cơ quan, tổ chức khác tiến hành hòa giải nhưng khơng
thành, khơng hịa giải được hoặc đã u cầu hịa giải nhưng khơng được hịa
giải trong thời hạn pháp luật quy định. Mối liên hệ này thuộc về trật tự công,
thể hiện sự phối hợp mềm dẻo giữa các cơ quan, tổ chức trong việc giải quyết
tranh chấp. Do vậy, xuất phát từ việc cần hoặc phải chờ kết quả giải quyết của
cơ quan, tổ chức khác đối với vụ án đã được Tịa án thụ lý, thì Tịa án cũng cần
hoặc phải tạm ngừng giải quyết vụ án trong một thời hạn nhất định [25, tr. 18].
Như vậy, việc tạm ngừng tiến hành các hoạt động tố tụng trong quá trình
giải quyết vụ án trong một số trường hợp cần hoặc phải được thực hiện khi xuất
hiện sự kiện làm cho việc giải quyết VADS không thể tiếp tục tiến hành được,
nếu cứ tiến hành có thể sẽ dẫn đến việc không bảo đảm quyền bảo vệ, quyền
tham gia tố tụng tụng của đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự;

14


hay không bảo đảm được mối liên hệ giữa các Bản án, Quyết định của Tịa án
và khơng bảo đảm được tính chính xác, đúng đắn của việc giải quyết vụ án.
Do đó, việc tạm ngừng việc giải quyết VADS đã thụ lý như một lẽ tất yếu,
khách quan trong quá trình giải quyết VADS.
1.5. Phân loại căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
Trên cơ sở khoa học của tạm đình chỉ giải quyết VADS, có thể phân
loại căn cứ tạm đình chỉ giải quyết VADS thành các nhóm cơ bản như sau:
Nhóm thứ nhất: Các căn cứ nhằm bảo đảm quyền bảo vệ và tham gia
tố tụng của đương sự và người đại diện của họ

Trong quá trình giải quyết VADS, nếu phát sinh các trường hợp như:
Đương sự là cá nhân đã chết, quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ thuộc diện được
thừa kế mà chưa có, hay chưa xác định được người kế thừa quyền và nghĩa vụ
tố tụng của cá nhân đã chết; hoặc cơ quan, tổ chức đã sáp nhập, chia, tách mà
chưa có cơ quan, tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ
chức đó là trường hợp đã có quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền về
việc sáp nhập, chia, tách cơ quan, tổ chức đó, nhưng cơ quan, tổ chức mới chưa
được thành lập hoặc đã được thành lập nhưng chưa có đầy đủ điều kiện để hoạt
động theo quy định của pháp luật đối với loại hình cơ quan, tổ chức đó; hoặc
cơ quan, tổ chức đã giải thể mà chưa có cơ quan, tổ chức kế thừa quyền và
nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó là trường hợp chưa xác định được cơ
quan, tổ chức, cá nhân kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng theo quy định; hoặc có
đương sự là cá nhân mất năng lực hành vi dân sự, người chưa thành niên mà
chưa xác định được người đại diện theo pháp luật; hoặc phát sinh sự kiện pháp
lý làm chấm dứt đại diện hợp pháp của đương sự mà chưa có người thay thế…
thì khi đó, Tịa án phải ra Quyết định tạm đình chỉ giải quyết VADS.
Việc pháp luật quy định Tòa án đã thụ lý phải tạm ngừng giải quyết
VADS trong những trường hợp trên là để bảo đảm quyền bảo vệ, quyền được
bảo vệ và quyền tham gia tố tụng của đương sự và người đại diện của họ. Bởi

15


lẽ, trong q trình giải quyết VADS, có thể xuất hiện các sự kiện làm cho việc
tiến hành giải quyết vụ án của Tòa án cần hoặc phải tạm ngừng, nếu Tòa án cứ
tiếp tục tiến hành giải quyết vụ án thì có thể sẽ khơng bảo đảm quyền bảo vệ,
quyền tham gia tố tụng của các đương sự và người đại diện của họ.
Nhóm thứ hai: Các căn cứ nhằm bảo đảm mối liên hệ giữa các Bản án,
Quyết định của Tòa án; sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức và bảo đảm
tính chính xác, đúng đắn trong việc giải quyết vụ án

Trong quá trình giải quyết VADS, nếu phát sinh các trường hợp như:
Cần đợi kết quả giải quyết vụ án khác có liên quan (vụ án: dân sự, hình sự,
hành chính, lao động, hơn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại); hoặc kết
quả giải quyết của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền là cơ sở để xác định thẩm
quyền của Tòa án, xác định quyền khởi kiện đối với vụ án, xác định địa vị
pháp lý, xác định người tham gia tố tụng, xác định quan hệ pháp luật tranh
chấp hoặc là căn cứ khác để Tòa án giải quyết vụ án này một cách tồn diện,
chính xác và đúng pháp luật; hoặc sự việc được pháp luật quy định là phải do
cơ quan, tổ chức khác giải quyết trước mới giải quyết được vụ án phải là sự
việc có ảnh hưởng trực tiếp đến việc giải quyết vụ án, nếu không được cơ
quan, tổ chức khác giải quyết trước thì việc giải quyết của Tịa án là vi phạm
pháp luật thì Tịa án phải ra Quyết định tạm đình chỉ giải quyết VADS. Quy
định này nhằm bảo đảm sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong việc giải
quyết vụ án, bảo đảm mối liên hệ giữa các Bản án, Quyết định của Tịa án và
bảo đảm tính chính xác, đúng đắn trong việc giải quyết vụ án.
Bên canh đó, nếu phát sinh các trường hợp như: Cần thực hiện thủ tục ủy
thác tư pháp; hoặc chưa có kết quả thực hiện ủy thác tư pháp; hoặc chưa nhận
được các tài liệu, chứng cứ từ cơ quan, tổ chức mà thời hạn chuẩn bị xét xử (kể
cả trường hợp đã gia hạn) đã hết; hoặc tuy đã có Quyết định đưa vụ án ra xét
xử; hoặc tại phiên tòa xét xử mà xét thấy cần phải thực hiện ủy thác tư pháp;
hoặc cần yêu cầu cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ mới giải quyết

16


được vụ án thì Tịa án phải ra Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Quy
định này nhằm bảo đảm sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức và tính chính
xác, đúng đắn trong việc giải quyết VADS.
Ngồi ra, nếu trong q trình giải quyết VADS, phát hiện văn bản quy
phạm pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án có dấu hiệu vi hiến, trái

luật và pháp luật mà Tịa án đã có văn bản kiến nghị Cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật
này, thì trong thời gian chờ đợi Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có văn bản
trả lời kiến nghị, Tòa án phải ra Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án nhằm
bảo đảm sự tương thích pháp luật và tránh tình trạng áp dụng pháp luật sai,
bảo đảm tính chính xác và đúng đắn trong việc giải quyết vụ án [37, tr. 516].
Nhóm thứ ba: Các căn cứ khác theo quy định của pháp luật
Trên thực tế, trong q trình giải quyết VADS có thể phát sinh một số
trường hợp cần hoặc phải tạm ngừng giải quyết vụ án để bảo đảm quyền lợi
của đương sự và tính chính xác, đúng đắn của việc giải quyết vụ án mà
BLTTDS chưa quy định nhưng lại được quy định trong các văn bản quy phạm
pháp luật khác; hoặc sau khi BLTTDS có hiệu lực thi hành mới được quy
định trong các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành sau đó; hoặc trong
các điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên. Khi đó, Tịa án cần hoặc phải
xem xét tính phù hợp với quy định của pháp luật để ra Quyết định tạm đình
chỉ giải quyết VADS. Đây là quy định mở, mang tính dự phòng của các nhà
lập pháp đối với những trường hợp phát sinh những lý do mà Tòa án cần hoặc
phải tạm đình chỉ giải quyết vụ án, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
các đương sự và tính chính xác, đúng đắn của việc giải quyết vụ án.
1.6. Lược sử pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về tạm đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự
Để có một cái nhìn tổng thể, hệ thống về đề tạm đình chỉ giải quyết
VADS và có cơ sở cho việc phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật tố

17


tụng dân sự Việt Nam hiện hành về tạm đình chỉ giải quyết VADS, thì việc
nghiên cứu lược sử phát triển của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về vấn đề
này là cần thiết. Từ đó, cũng có thể giúp chúng ta rút ra những bài học kinh

nghiệm, giải pháp để hoàn thiện hơn pháp luật tố tụng dân sự hiện hành.
Cùng với sự phát triển của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, các quy
định về tạm đình chỉ giải quyết VADS cũng khơng ngừng phát triển và hoàn
thiện hơn. Căn cứ vào các mốc thời gian quan trọng trong quá trình phát triển
của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, việc nghiên cứu lược sử pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam về tạm đình chỉ giải quyết VADS được thực hiện theo
các giai đoạn từ năm 1945 đến nay; cụ thể như sau:
1.6.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến 1959
Trong giai đoạn này, phải kể đến các Sắc lệnh như: Sắc lệnh số 13/SL
ngày 24/01/1946 về tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm phán, Sắc lệnh số
51/SL ngày 17/4/1946, Sắc lệnh số 130/SL ngày 19/7/1946 quy định về thể
thức thi hành án, Sắc lệnh số 185/SL ngày 26/5/1948 về ấn định thẩm quyền
các Tòa án sơ cấp và đệ nhị cấp, Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải
cách bộ máy tư pháp là luật tố tụng, Sắc lệnh số 159/SL ngày 17/01/1950 quy
định về ly hôn…. Đây là các Sắc lệnh đã được áp dụng tại Tòa án để giải
quyết các vụ việc dân sự trong giai đoạn này. Ngoài ra, cịn có Sắc lệnh số
47/SL ngày 10/10/1945, đã cho giữ tạm thời các luật lệ của chế độ cũ, tuy
nhiên, Sắc lệnh này đã không chỉ rõ cho giữ tạm thời các BLDS - Thương sự
tố tụng được áp dụng tại Tòa án dưới thời Pháp thuộc.
Trong những năm 1945 – 1954, ngoài các Sắc lệnh trên, gần như khơng
có văn bản nào quy định chính thức về các vấn đề liên quan đến thủ tục tố tụng
dân sự - thương sự, cũng khơng có quy định riêng về vấn đề tạm đình chỉ giải
quyết vụ việc dân sự. Trong giai đoạn này, các Tòa án chỉ tập trung xét xử các
vụ án hình sự mà khơng chú trọng vào việc giải quyết các tranh chấp dân sự.

18


×