Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

(Luận văn thạc sĩ) thủ tục hòa giải vụ việc hôn nhân và gia đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (764.57 KB, 84 trang )

đại học quốc gia hà nội
Khoa luật

TRầN VĂN DUY

THủ TụC HOà GIảI
Vụ VIệC HÔN NHÂN Và GIA ĐìNH

Chuyên ngành: Luật Dân sự
MÃ số

: 60 38 30

LUậN VĂN THạC Sĩ LUậT HọC

Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: TS. Lê Thu Hà

Hà NộI - 2008

1


MụC Lục

Trang

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Mở đầu



1

Ch-ơng 1. những vấn đề lý luận về thủ tục hòa giải vụ việc
9
hôn nhân và gia đình
Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thủ tục hòa giải vụ việc hôn
1.1

9

nhân và gia đình
Cơ sở lý luận và thực tiễn của thủ tục hòa giải vụ việc hôn

1.2

18

nhân và gia đình
Phân biệt thủ tục hòa giải vụ việc hôn nhân và gia đình với

1.3

một số thủ tục hòa giải khác

24

Thủ tục hòa giải vụ việc hôn nhân và gia đình theo quy đnh
1.4


25

của một số n-ớc
Kết luận ch-ơng 1

26

CHƯƠNG 2. PHáP LUậT VIệT NAM Và THựC TIễN áP DụNG Về THủ TụC
28
HòA GIảI Vụ VIệC HÔN NHÂN Và GIA ĐìNH
2.1

Thủ tục hòa giải vụ án ly hôn

28

2.2

Đối với yêu cầu thuận tình ly hôn

46

2.3

Đối với việc hủy kết hôn trái pháp luật

57

2.4


Đối với các vụ việc hôn nhân và gia đình khác

60

Kết luận ch-ơng II

1


Ch-ơng 3. Hoàn thiện các quy định về thủ tục hòa giải vụ việc
64
hôn nhân và gia đình
Ph-ơng h-ớng hoàn thiện các quy định về thủ tục hòa giải vụ
3.1

65
việc hôn nhân và gia đình
Các giải pháp hoàn thiện và thực hiện các quy định về thủ

3.2

67
tục hòa giải vụ việc hôn nhân và gia đình
Một số biện pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng thủ

3.3

71
tục hòa giải vụ việc hôn nhân và gia đình
Kết luận ch-ơng III


73

Kết luận

74

Danh mục tài liệu tham khảo

75

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hồ giải là hình thức giải quyết tranh chấp dân sự nói chung và hơn nhân và
gia đình nói riêng đã xuất hiện rất sớm, có thể nói, khi con người có tranh chấp thì
đã biết cách áp dụng các biện pháp thương lượng, hoà giải với nhau để chấm dứt
các bất đồng phát sinh giữa các chủ thể với nhau, đặc biệt, trong mối quan hệ hơn
nhân và gia đình - mối quan hệ mà giữa các thành viên trong gia đình được gắn bó
nhau chặt chẽ do hơn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng làm
phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định của pháp luật,
truyền thống đạo đức. cùng với sự phát triển đi lên không ngừng của đất nước thì
các quan hệ hơn nhân và gia đình cũng cịn nhiều mặt hạn chế dưới sự tác động của
nền kinh tế thị trường đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến đạo đức, lối sống của một
số cá nhân trong xã hội, làm tha hoá đạo đức, biến chất về mặt đạo đức. Có thể nói,
đơi lúc sự tác động của đồng tiền đã làm lu mờ đi truyền thống đạo đức, các giá trị
tinh thần của một gia đình, dẫn đến nhiều gia đình con xa cha, vợ xa chồng. Vì vậy,
theo thống kê của ngành Tồ án thì việc thụ lý và giải quyết các vụ việc về hôn

nhân và gia đình ngày càng tăng và phức tạp hơn.
Trong điều kiện như vậy, việc thực thi BLTTDS năm 2004 và LHN&GĐ năm
2000 về thủ tục hoà giải các vụ việc hơn nhân và gia đình nhằm giải quyết nhanh
chóng, hiệu quả các vụ việc hơn nhân và gia đình, đảm bảo sự bền vững của mối
quan hệ hôn nhân và gia đình một cách vững chắc là một đối sách xã hội, đối sách
pháp luật quan trọng góp phần hạn chế những tiêu cực trong xã hội ngay từ trong
các mối quan hệ gia đình và hơn nhân. Bộ luật Tố tụng dân sự trên cơ sở kế thừa
các quy định tại PLTTGQCVADS năm 1989 theo đó đã quy định thủ tục hồ giải
vụ án hơn nhân và gia đình là những quy định bắt buộc khi Tồ án tiến hành giải
quyết vụ án hơn nhân và gia đình trừ những trường hợp pháp luật quy định khơng
được hồ giải.
Hiện nay, thủ tục giải quyết việc hôn nhân và gia đình khơng tiến hành hịa giải
và hiện cịn rất nhiều ý kiến khác nhau về việc có hịa giải những yêu cầu về hôn
3


nhân và gia đình hay khơng? Xuất phát từ quyền tự định đoạt của các đương sự
được quy định tại Điều 5, Điều 10, Điều 180 BLLTDS năm 2004 và Điều 5
LHN&GĐ năm 2000 và Điều 11 Bộ luật Dân sự năm 2005. Pháp luật tố tụng đã tạo
ra một hành lang pháp lý cho các đương sự cơ hội thoả thuận hịa giải trong suốt
q trình tồ án tiến hành giải quyết vụ án hơn nhân và gia đình, thậm chí trong thủ
tục giải quyết việc hơn nhân và gia đình như thuận tình ly hơn (nếu theo quan điểm
áp dụng tương tự pháp luật). Điều này, giúp Toà án giải quyết vụ việc hơn nhân và
gia đình một cách nhanh chóng mà khơng cịn phải mở phiên tồ xét xử hay phiên
họp giải quyết việc hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tồ án,
tiết kiệm thời gian, tiền bạc, sức lực của các đương sự và Nhà nước.
Thủ tục hoà giải khi tiến hành giải quyết các quan hệ về hôn nhân và gia đình
cịn góp phần nâng cao trình độ dân trí, giáo dục pháp luật giữa các thành viên trong
gia đình và các chủ thể có liên quan. Trong phạm vi một vụ án hơn nhân và gia
đình, quyết định cơng nhận sự thoả thuận của các đương sự, đương sự thoả thuận

hoà giải thành là biện pháp giải quyết tối ưu nhất trong các quyết định, bản án của
toà án dẫn đến việc thi hành án dễ dàng hơn.
Tuy nhiên, BLTTDS năm 2004 được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 5 thơng qua
ngày 15 tháng 6 năm 2004, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2005, có
quy định rất cụ thể thủ tục hồ giải như nguyên tắc tiến hành hoà giải, những vụ án
dân sự khơng được hồ giải, nội dung hịa giải, trình tự, thủ tục ra quyết định công
nhận sự thoả thuận của đương sự, hiệu lực của quyết định công nhận sự thoả thuận
của các đương sự. Nhưng qua thực tiễn hơn gần hai năm thực hiện BLTTDS năm
2004 đã bộc lộ một số vướng mắc, bất cập khi Toà án nhân dân tiến hành thủ tục
hồ giải vụ án hơn nhân và gia đình và thực tiễn hiểu và áp dụng tiến hành thủ tục
giải quyết việc hôn nhân và gia đình khi chưa có hướng dẫn áp dụng của các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền.
Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật trên, đã đặt ra yêu cầu về
mặt lý luận là phải nghiên cứu tìm ra những giải pháp sửa đổi, bổ sung những quy
định về thủ tục hồ giải vụ việc hơn nhân và gia đình, thống nhất về mặt nhận thức

4


khoa học và thực tiễn về việc áp dụng thủ tục hịa giải một số quan hệ pháp luật hơn
nhân và gia đình.
Chính vì vậy, việc chọn vấn đề “Thủ tục hồ giải vụ việc hơn nhân và gia đình
” làm đề tài luận văn thạc sỹ luật học là hết sức cần thiết và có ý nghĩa thời sự, nhất
là trong bối cảnh hiện nay Toà án nhân dân đang thụ lý giải quyết các vụ việc hôn
nhân và gia đình ngày càng tăng về số lượng và phức tạp về nội dung.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước đây đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau về
hoà giải trong tố tụng dân sự. Có thể nêu một số cơng trình như:
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, số đăng ký: 2001-38-045 của Viện
Nghiên cứu khoa học xét xử, Toà án nhân dân tối cao: “Thực tiễn thi hành chế định

hồ giải trong q trình giải quyết vụ án dân sự-những tồn tại, vướng mắc và kiến
nghị” (2002);
- Luận án thạc sỹ luật: “Hoà giải trong tố tụng dân sự-thực trạng và hướng
hoàn thiện” của Bùi Đăng Huy, Trường Đại học Luật Hà Nội, (1996);
- Luận án thạc sỹ luật: “Hoà giải trong tố tụng dân sự” của Trương Kim
Oanh, Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật, Trung tâm Khoa học xã hội và
nhân văn, (1996);
- Luận án thạc sỹ khoa luật: “Chế định hoà giải trong pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam” của Hà Vĩnh Thanh, Trường Đại học Luật Hà Nội, (2002);
- Luận án tiến sỹ khoa luật: “Chế định hoà giải trong pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam - Cơ sở lý luận và thực tiễn” của Trần Văn Quảng, Trường Đại học Luật
Hà Nội, (2004);
- Các bài viết về thực tiễn hoà giải các vụ án dân sự được đăng trên tạp chí
Tồ án nhân dân, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Tạp
chí Kiểm sát,như:
+ “Việc hoà giải với người đại diện do đương sự uỷ quyền” của Xn Tiến
(Tạp chí Tồ án nhân dân, số 5-1991);
+ “Vấn đề hoà giải vụ án dân sự ở cấp phúc thẩm” của Thạc sỹ. Lê Thu Hà
(Tạp chí Nhà nước và pháp tháng 11/1996);
5


+ “Vấn đề hoà giải tại phiên toà sơ thẩm” của Thạc sỹ. Lê Thu Hà (Tạp chí
Nhà nước và pháp tháng 8/1999);
+ “Một số vấn đề về nâng cao hiệu quả của biện pháp hoà giải” của Trương
Kim Oanh (Tạp chí Tồ án nhân dân, số 6-1997);
+ “Hồn thiện chế định hoà giải trong tố tụng dân sự” của Đào Thị Mai
Hường (Tạp chí Tồ án nhân dân, số 1-1998);
+ “Hoà giải và tự thoả thuận trong tố tụng dân sự, kinh tế và lao động” của
Phan Hữu Thư (Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 2-1999);

+ “Vướng mắc khi áp dụng chế định hoà giải trong quá trình giải quyết các
vụ án dân sự “ của Thanh Tú (Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 7-2002);
+ “Hoà giải trong tố tụng dân sự” của Phạm Hữu Nghị (Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, số 12-2003);
+ “Thủ tục giải quyết việc dân sự theo quy định của Bộ Luật Tố tụng dân sự”
của TS. Lê Thu Hà (Tạp chí Tồ án nhân dân tháng 6 năm 2006, số 12);
+ “Một số vấn đề về thủ tục giải quyết việc dân sự” của Thạc sỹ Nguyễn
Thanh Mai (Tạp chí Kiểm sát, số 13(7-2006);
+ “Những khó khăn, vướng mắc, trong nhận thức, áp dụng và những kiến
nghị từ hoạt động thực tiễn qua một năm thực hiện các quy định của Bộ luật Tố
tụng Dân sự năm 2004” của Ban Biên tập (Tạp chí Kiểm sát, số 18(9-2006);
+ “Một số vấn đề về áp dụng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự” của
Thạc sỹ Trần Văn Trung (Tạp chí Kiểm sát, số 18(9-2006);
+ “Một số vấn đề khi giải quyết việc hơn nhân và gia đình” của Vũ Thanh
Tuấn (Tạp chí Tồ án nhân dân tháng 7 năm 2007, số 14);
+ Về bài viết “Một số vấn đề khi giải quyết việc hôn nhân và gia đình” của
Đặng Thanh Hoa (Tạp chí Tồ án nhân dân tháng 12 năm 2007, số 24);
+ “Một số vướng mắc trong xác định việc dân sự và vụ án dân sự đối với vụ
việc hơn nhân và gia đình” của Nguyễn Văn Tiến (Tạp chí Khoa học pháp lý số
4(47) năm 2008);

6


+ “Giải quyết trường hợp không công nhận quan hệ vợ chồng theo thủ tục vụ
án dân sự hay thủ tục việc dân sự” của Nguyễn Thi Hạnh (Tạp chí Toà án nhân dân
tháng 11 năm 2006, số 22);
+ “Những người cứu hộ hơn nhân” của Mai Thu (Tạp chí Gia đình, số Xuâ
Đinh Hợi 2007;
+ “Những điểm mới trong thủ tục thuận tình ly hơn” của TS. Lê Thu Hà (Tạp

chí Tồ án nhân dân tháng 8 năm 2006, số 15);
- Hoà giải trong pháp luật tố tụng dân sự cũng đã được đề cập trong Giáo
trình Luật Tố tụng Dân sự của Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tố
tụng Dân sự của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Giáo trình Luật Tố
tụng Dân sự của nhiều trường đại học, học viện khác trong toàn quốc, và nhiều sách
chuyên khảo khác.
Tuy nhiên, các cơng trình nói trên chỉ đề cập một cách khái qt, một khía
cạch về thủ tục hồ giải trong tố tụng dân sự nói chung hoặc ít đề cập đến thủ tục
hồ giải vụ án hơn nhân và gia đình, chưa có điều kiện đi sâu phân tích và thực tiễn
áp dụng thủ tục giải quyết việc hôn nhân và gia đình, đặc biệt, khi BLTTDS năm
2004 có hiệu lực thi hành thì mối quan hệ giữa BLTTDS năm 2004 và LHNGĐ
năm 2000 có nhiều điểm cần được lý giải giữa hai văn bản pháp luật có giá trị pháp
lý ngang nhau này. Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần phải tiếp tục nghiên cứu thủ tục hoà
giải trong tố tụng dân sự nói chung khi đưa vào giải quyết một nhóm quan hệ pháp
luật quan trọng - quan hệ pháp luật hơn nhân và gia đình một cách toàn diện, đầy
đủ, tránh nghiên cứu chung chung, nhằm nâng cao hiệu quả của việc hồ giải vụ
hơn nhân và gia đình, thống nhất trong nhận thức về việc có hay khơng có áp dụng
thủ tục hịa giải đối với một số việc về hơn nhân và gia đình, khơng để xảy ra những
sai lầm, lúng túng áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình
tại tồ án.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là bước đầu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận
và thực tiễn áp dụng thủ tục hoà giải vụ án hơn nhân và gia đình và việc áp dụng thủ
tục hịa giải một số việc về hơn nhân và gia đình tại Tịa án hiện nay; trên cơ sở đó
7


xác định phương và kiến nghị các giải pháp đồng bộ hoàn thiện các quy định về thủ
tục hoà giải đối với các quan hệ hơn nhân và gia đình một cách rõ ràng hơn nữa.
Để đạt được mục đích trên, đề tài có các nhiệm vụ sau:

- Làm sáng rõ một số vấn đề về lý luận về hoạt động hồ giải vụ án hơn nhân
và gia đình và thủ tục giải quyết việc hơn nhân và gia đình tại Tồ án nhân dân các
cấp.
- Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng thủ tục hoà giải vụ án hơn nhân và
gia đình và việc áp dụng thủ tục giải quyết việc hơn nhân và gia đình trong thời gian
vừa qua, đặc biệt, từ khi ban hành BLTTDS năm 2004 trở lại đây.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp tiếp tục hoàn thiện các quy định thủ
tục hồ giải vụ án hơn nhân và gia đình và thủ tục giải quyết việc hơn nhân và gia
đình.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành về thủ tục hoà giải vụ án hơn nhân và gia đình, và việc áp dụng, nhận
thức thủ tục giải quyết việc hôn nhân và gia đình tại tồ án nhân dân theo các hướng
sau:
+ Bản chất, ý nghĩa, cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định về thủ
tục hoà giải vụ án hơn nhân và gia đình và sự cần thiết có quy định áp dụng thủ tục
hịa giải đối với một số việc hơn nhân và gia đình;
+ Phương pháp và giải pháp hoàn thiện thủ tục hoà giải vụ án hơn nhân và gia
đình và sáng tỏ cơ sở pháp lý và thực tiễn của việc áp dụng thủ tục hịa giải trong
q trình giải quyết một số việc hơn nhân và gia đình trong thời gian tới.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu nghiên cứu của luận văn chỉ nghiên cứu thủ tục hoà giải
vụ án hơn nhân và gia đình, nghiên cứu về việc có hay khơng có việc áp dụng thủ
8


tục hịa giải đối với một số việc hơn nhân và gia đình và cơ sở pháp lý của việc áp
dụnh các quy định đó trong thực tiễn. Đặc biệt, thời điểm luận văn này được thực
hiện, BLTTDS năm 2004 có hiệu lực thi hành đang được các cơ quan tiến hành tố

tụng áp dụng trên toàn quốc. Bởi vậy, các nội dung nghiên cứu của luận văn luôn
được liên hệ, đối chiếu giưa quy định của pháp luật với thực tiễn áp dụng pháp luật
mới này.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng phương pháp luận là phép biện
chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lê nin nhằm nghiên cứu đánh giá các vấn đề
pháp lý trong mối liên hệ với mối quan hệ xã hội - quan hệ hôn nhân và gia đình.
Ngồi ra, luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương
pháp phân tích, tổng hợp; Phương pháp so sánh; Phương pháp lịch sử; Phương pháp
điều tra xã hội học; Phương pháp thống kê... Các phương pháp này sẽ giúp tìm hiểu
về thực trạng các quy định pháp luật liên quan thủ tục hồ giải vụ án hơn nhân và
gia đình và về vấn đề quy định tiến hành giải quyết việc hôn nhân và gia đình, làm
rõ những ưu điểm, nhược điểm của các quy định đó, trên cơ sở đó rút ra kiến nghị.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Có thể nói, luận văn này là cơng trình khoa học pháp lý đầu tiên ở bậc đào tạo
thạc sỹ luật học ở nước ta nghiên cứu một cách tồn diện, đầy đủ và có hệ thống về
thủ tục hồ giải vụ việc hơn nhân và gia đình sau khi Bộ luật Tố tụng Dân sự năm
2004 ra đời. Trong quá trình triển khai nghiên cứu đề tài, đề tài đã đóng góp về mặt
khoa học là:
- Luận giải một số vấn đề lý luận cơ bản về thủ tục hồ giải vụ án hơn nhân
và gia đình và cơ cở khoa học, thực tiễn của việc áp dụng thủ tục hịa giải việc hơn
nhân và gia đình.
- Đánh giá khách quan, toàn diện và khoa học về các quy định pháp luật hiện
hành và những tác động tới những chủ thể áp dụng luật và chủ thể thi hành pháp
luật thủ tục hồ giải vụ án hơn nhân và gia đình và việc hơn nhân và gia đình.

9


- Góp phần vào việc xây dựng và hồn thiện các quy định của pháp luật nước

ta về thủ tục hồ giải vụ án hơn nhân và gia đình và sáng tỏ những vấn đề còn khúc
mắc của việc áp dụng thủ tục hịa giải khi giải quyết việc hơn nhân và gia đình hiện
nay.
7. Bố cục của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thủ tục hoà giải vụ việc hơn nhân và gia
đình.
Chương 2: Pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng về thủ tục hoà giải vụ
việc hơn nhân và gia đình.
Chương 3: Hồn thiện các quy định về thủ tục tục hoà giải vụ việc hơn nhân
và gia đình.

10


CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
THỦ TỤC HÒA GIẢI VỤ VIỆC HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA THỦ TỤC HÒA GIẢI
VỤ VIỆC HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
1.1.1. Khái niệm thủ tục hịa giải vụ việc hơn nhân và gia đình
Hồ giải là một phương thức giải quyết các tranh chấp phát sinh trong các
mối quan hệ xã hội đã có từ lâu đời của dân tộc ta nói riêng và truyền thống, tập
quán trên thế giới nói chung. Dân tộc ta có truyền thống đoàn kết, thương yêu giữa
các thành viên trong gia đình, giữa các thành viên trong cộng đồng dân cư từ lâu
đời, tình cảm giữa người với người bao giờ cũng là một vấn đề rất quan trọng khi
quy định một vấn đề nào đó liên quan đến quyền lợi của cá nhân.
Để giải quyết được tất cả các mâu thuẫn thường ngày xảy ra trong từng gia
đình và trong đời sống con người, vấn đề hợp lý là rất quan trọng song không thể
không kể đến hai chữ hợp tình – đó là hai mặt của một vấn đề cần thông nhất không

thể tách rời trong truyền thống của dân tộc, truyền thống đạo đức tốt đẹp của gia
đình.
Mục đích của việc giải quyết các mâu thuẫn quan hệ xã hội phát sinh trong
lĩnh vực dân sự nói chung và lĩnh vực hơn nhân và gia đình nói riêng là phải bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân vừa phải hàn gắn và giữ vững được
tình đồn kết thương u giữa họ. Vì vậy, đây là điểm xuất phát khá quan trọng để
quy định thủ tục hịa giải khi giải quyết vụ việc hơn nhân và gia đình. Có thể nói các
tranh chấp trong lĩnh vực hơn nhân và gia đình có ngun nhân xảy ra từ những
xích mích, va chậm nhỏ, từ ý thức không tôn trọng các quyền của các chủ thể
khác,... do không được giải quyết hoặc giải quyết không triệt để, các xích mích nhỏ
này trở thành những mâu thuẫn ngày càng phức tạp mà các chủ thể không tự giải
quyết được và có u cầu tịa án có thẩm quyền giải quyết về nội dung của những
tranh chấp. Và TAND nhân danh quyền lực Nhà nước, thực hiện quyền lực Nhà
nước, đặc biệt là quyền xét xử có trách nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự, của Nhà nước, của xã hội.
11


Tại Điều 4 BLTTDS năm 2004 có quy định cá nhân, cơ quan, tổ chức có
quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Tồ án có thẩm
quyền để u cầu Tồ án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của
người khác. Do vậy, khi một công dân tham gia vào quan hệ pháp luật hơn nhân và
gia đình mà có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm thì họ có quyền khởi kiện
hoặc u cầu Tịa án cơng nhận tính pháp lý của sự thỏa thuận để bảo vệ quyền lợi
hợp pháp của họ.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 179 BLTTDS năm 2004, trong thời hạn
chuẩn bị xét xử, tuỳ từng trường hợp, Toà án ra một trong các quyết định: Công
nhận sự thoả thuận của các đương sự; Tạm đình chỉ giải quyết vụ án; Đình chỉ giải
quyết vụ án và đưa vụ án ra xét xử. Như vậy, một trong bốn quyết định trên thì
quyết định cơng nhận sự thỏa thuận của các đương sự là kết quả của thủ tục hịa

giải.
Vậy hồ giải là một thủ tục tố tụng do Toà án nhân dân tiến hành, nhằm giúp
đỡ các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết quan hệ đó cho phù hợp với
pháp luật, không trái đạo đức xã hội.
BLTTDS năm 2004 quy định các tranh chấp về hôn nhân gia đình (Điều 27)
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tồ án là ly hôn, về nuôi con, chia tài sản khi ly
hôn, về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, về thay đổi người
trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con
cho cha, mẹ, về cấp dưỡng và các tranh chấp khác về hôn nhân và gia đình mà pháp
luật có quy định.
Và các u cầu về hơn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tồ
án như huỷ việc kết hơn trái pháp luật, cơng nhận thuận tình ly hơn, ni con, chia
tài sản khi ly hôn, công nhận sự thoả thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau
khi ly hôn, hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm
nom con sau khi ly hôn, chấm dứt việc nuôi con nuôi… (Điều 28 BLTTDS năm
2004).

12


Điều 1 BLTTDS năm 2004 quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng
dân sự; trình tự, thủ tục khởi kiện để Tòa án giải quyết các vụ án về tranh chấp dân
sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là
vụ án dân sự) và trình tự, thủ tục yêu cầu để Tòa án giải quyết các việc về yêu cầu
dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung
là việc dân sự); trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự, việc dân sự (sau đây gọi
chung là vụ việc dân sự) tại Tòa án… Với quy định này, phạm vi điều chỉnh của
BLTTDS là vụ việc dân sự, gồm vụ án dân sự và việc dân sự. Vụ án dân sự là vụ có
tranh chấp về quyền lợi, nghĩa vụ giữa cá nhân, tổ chức với nhau. Các tranh chấp
gồm tranh chấp dân sự, tranh chấp hơn nhân và gia đình, tranh chấp kinh doanh và

thương mại, tranh chấp lao động. Khi một tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án, được đương sự yêu cầu Tòa án giải quyết sẽ trở thành vụ án dân
sự. Việc dân sự là việc khơng có tranh chấp về quyền và lợi ích nhưng có u cầu
của cá nhân, tổ chức đề nghị Tịa án cơng nhận một sự kiện pháp lý mà phát sinh
quyền và nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức này. Có các việc yêu cầu về dân sự, các
việc yêu cầu về hôn nhân và gia đình, các việc yêu cầu về kinh doanh và thương
mại, các việc yêu cầu về lao động. Tất cả các việc yêu cầu này được gọi chung là
việc dân sự. Như vậy, theo quy định của BLTTDS thì việc áp dụng thủ tục hoà giải
khi tiến hành giải quyết quan hệ pháp luật hơn nhân và gia đình có quy định mới so
với Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, theo đó, Tồ án chỉ tiến hành hồ
giải đối với các tranh chấp về hơn nhân nhân gia đình theo quy định tại Điều 27 BLTTDS, cịn đối với việc thuận tình ly hơn, hủy hơn nhân trái pháp luật và một số
vụ việc hôn nhân và gia đình khác có tiến hành hịa giải hay khơng phải được xem
xét trong q trình giải quyết các việc dân sự đó. Bởi vì:
Đối với việc hủy kết hôn trái pháp luật là việc xác lập quan hệ vợ chồng có
đăng ký kết hơn nhưng vi phạm điều kiện kết hôn do pháp luật quy định. Đây là
việc làm mà pháp luật cấm mọi công dân vi phạm, do vậy, theo quy định BLTTDS
thì yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật được thụ lý theo khoản 1 Điều 28 và được giải
quyết theo thủ tục việc dân sự. Khi giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp
luật thì Tịa án khơng được hịa giải vì nếu tiến hành hòa giải trong trường hợp này
13


là trái pháp luật và trật tự cơng cộng. Vì vậy, trong việc hủy hôn trái pháp luật này
các bên vi phạm khơng thể điều đình với nhau mà Tịa án phải ra quyết định hủy
việc kết hôn trái pháp luật đó, khơng tiến hành hịa giải theo quy định tại Điều 17
LHNGĐ năm 2000.
Đối với việc thuận tình ly hơn là việc hai vợ chồng cùng có u cầu chấm dứt
quan hệ hơn nhân, trong đó thỏa thuận được cả về tài sản và quan hệ về con. Tòa án
khi thụ lý phải xem xét bản chất của việc hơn nhân và gia đình đó. Xét về bản chất
quan hệ hơn nhân và gia đình thì hai bên có mâu thuẫn, các bên đã thống nhất

phương án giải quyết tranh chấp là cùng nhau chấm dứt quan hệ hôn nhân. Tuy
nhiên, mục đích hịa giải thuận tình ly hơn là Tịa án phải giúp các đương sự tìm
được phương án giải quyết tranh chấp mà là hịa giải đồn tụ. Theo Điều 90
LHNGĐ năm 2000 thì trong trường hợp vợ chồng cùng u cầu ly hơn mà hịa giải
tại tịa án khơng thành, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa
thuận về việc chia tài sản, việc trơng nom, ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục con thì
Tịa án cơng nhận sự thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận về tài sản và con trên cơ sở
bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con; nếu khơng thỏa thuận được hoặc tuy
có thỏa thuận nhưng khơng bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tịa án
quyết định.
Vậy thủ tục hồ giải vụ việc hơn nhân và gia đình là trình tự do Tịa án tiến
hành nhằm giúp đỡ các đương sự thỏa thuận về việc giải quyết vụ việc hơn nhân và
gia đình theo quy định của pháp luật và đạo đức xã hội.
1.2.2. Đặc điểm
Thứ nhất, thủ tục hoà giải là thủ tục bắt buộc trong giai đoạn chuẩn bị xét xử
vụ án hơn nhân và gia đình:
Hồ giải trong q trình giải quyết vụ án hơn nhân và gia đình là một chế
định pháp lý quan trọng, là một hoạt động tố tụng do Toà án thực hiện trên cơ sở
quy định của quy định của BLTTDS năm 2004 và LHNGĐ năm 2000 và các văn
bản hướng dẫn thi hành. Theo quy định tại khoản 2 Điều 179 BLTTDS năm 2004
thì trong thời hạn chuẩn bị xét xử tuỳ từng trường hợp, Toà án ra một trong bốn
14


quyết định, trong đó có quyết định cơng nhận sự thoả thuận của các đương sự. Sau
khi Toà án tiến hành chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hôn nhân và gia đình đó và
trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm thì Tịa án phải tiến hành thủ tục hịa giải, và
thủ tục này có tính bắt buộc phải tiến hành trước khi mở phiên tòa sơ thẩm.
Tại các giai đoạn khác của quá trình tố tụng thì thủ tục hịa giải vẫn có thể
tiến hành nếu có khả năng hịa giải thành. Theo các Điều 220, 270 BLTTDS năm

2004 thì tại phiên tịa sơ thẩm, phúc thẩm, Tịa chỉ hỏi đương sự có thỏa thuận được
với nhau về việc giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình hay khơng? Trong trường
hợp đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì Tịa án ra quyết
định cơng nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
Việc bắt buộc tiến hành thủ tục hòa giải trước khi mở phiên tòa sơ thẩm xuất
phát từ những cơ sở pháp lý, trước khi mở phiên tòa sơ thẩm, Tòa án phải tiến hành
lập hồ sơ vụ án hơn nhân và gia đình, căn cứ vào u cầu khởi kiện của người khởi
kiện, Tòa án xác định các chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án yêu cầu của đương
sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện cung cấp và thu thập chứng cứ theo quy
định của pháp luật,... Qua hoạt động này thì Tịa án nắm được nội dung vụ án đó,
hiểu được nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh mâu thuẫn, đây là cơ sở để Tòa án
tiến hành thủ tục hòa giải có hiệu quả nhất. Ngồi ra, trong giai đoạn này, nếu tiến
hành hịa giải thành, sẽ có nhiều ý nghĩa về mặt tố tụng, hiệu quả kinh tế, hiệu quả
xã hội. Trong các giai đoạn khác, thủ tục hòa giải được quy định không phải là một
thủ tục tố tụng bắt buộc, nhằm tránh tình trạng lặp đi lặp lại việc hịa giải khơng
thành một cách khơng cần thiết. Tại các giai đoạn này, thủ tục hịa giải có thể được
tiến hành nếu Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán giải quyết vụ án thấy có khả năng
hịa giải thành. Vì vậy, Điều 183, 184, 185 BLTTDS năm 2004 quy định rõ về trình
tự, thủ tục, thành phần của phiên hồ giải. Chỉ khi hồ giải khơng thành Tồ án mới
ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử. Trường hợp hồ giải thành thì chấm dứt
việc giải quyết vụ án.
Quy định thủ tục hoà giải là thủ tục bắt buộc trong giai đoạn chuẩn bị xét xử
vụ án hơn nhân và gia đình tạo ra sự linh hoạt, chủ động cho các Thẩm phán, và
15


phát huy được tác dụng của thủ tục hòa giải trong thực tiễn, đồng thời nó bảo đảm
cho giai đoạn thi hành án được tiến hành thuận lợi hơn.
Thứ hai, thủ tục hồ giải nhằm mục đích để các bên đạt được thoả thuận giải
quyết vụ việc

Hoà giải là quyền của các đương sự, chỉ có đương sự mới có quyền thoả
thuận với nhau về phương thức giải quyết vụ việc. Thẩm phán tham gia giải quyết
vụ án hôn nhân và gia đình chỉ có quyền giúp cho các đương sự thoả thuận được với
nhau về các phương thức giải quyết. Các đương sự đang có quyền và lợi ích hợp
pháp bị xâm phạm hoặc đang tranh chấp họ phải thể hiện rõ chính kiến, quan điểm
của mình về việc giải quyết vụ việc hơn nhân và gia đình. Đây chính là quyền tự
định đoạt của các đương sự được quy định tại Điều 5 của BLTTDS năm 2004 theo
đó các đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, u cầu Tồ án có thẩm quyền
giải quyết vụ việc dân sự. Toà án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn
khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện,
đơn u cầu đó. Nếu trong q trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có
quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thoả thuận với nhau một cách
tự nguyện. Tuy nhiên, không phải mọi sự thoả thuận của các đương sự đều được
pháp luật cho phép mà sự thoả thuận đó khơng được trái pháp luật và đạo đức xã hội
Thứ ba, Tồ án có vai trị quan trọng đối với việc hòa giải của các bên
đương sự khi tham gia thủ tục hồ giải vụ án hơn nhân và gia đình
Trong pháp luật tố tụng dân sự của nước ta, thủ tục hòa giải được coi là một
thủ tục tố tụng bắt buộc trước khi xét xử sơ thẩm vụ án hơn nhân và gia đình, trừ
những trường hợp pháp luật quy định khơng được hịa giải và những trường hợp
khơng hịa giải được.
Tồ án có vai trị quan trọng đối với việc hòa giải của các bên đương sự khi
tham gia thủ tục hồ giải vụ án hơn nhân và gia đình. Trong thủ tục hịa giải, Tịa án
giữ một vị trí đặc biệt, khơng phải là một bên chủ thể của thủ tục hịa giải vụ án hơn
nhân và gia đình đó, Tịa án với vai trị trung gian có nhiệm vụ tổ chức các bên
đương sự gặp nhau để bàn bạc thương lượng. Khi tiến hành thủ tục hòa giải, Tòa án
16


giải thích cho các đương sự về các quy định của pháp luật liên quan tới các vấn đề
tranh chấp, các chính sách của Nhà nước, động viên, giúp đỡ họ tháo gỡ những

vướng mắc trong tâm tư tình cảm của mình. Khi các đương sự thỏa thuận được với
nhau về các vấn đề phải giải quyết trong vụ án, Tịa án có trách nhiệm ghi nhận
quan điểm của các đương sự trong một văn bản pháp lý dưới dạng: Biên bản hịa
giải thành – nó là một tài liệu văn bản xác nhận một sự kiện và nó là cơ sở để Tịa
án ra quyết định cơng nhận sự thỏa thuận của đương sự hoặc nếu các bên đương sự
không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án (các quan hệ pháp
luật, các yêu cầu của các đương sự trong vụ án) và cả án phí thì Tịa án khơng cơng
nhận sự thỏa thuận của các đương sự mà tiến hành mở phiên tòa để xét xử vụ án
hơn nhân và gia đình theo luật định.
So với các quan hệ khác trong đời sống xã hội, quan hệ hơn nhân và gia đình
là quan hệ dân sự có tính chất đặc biệt, bởi nó được hình thành từ quan hệ hơn nhân,
quan hệ huyết thống và ni dưỡng. Vì vậy, vai trị của Tịa án khi tiến hành thủ tục
hịa giải vụ án hơn nhân và gia đình khơng chỉ phải nắm vững nghiệp vụ mà cịn
phải có một thái độ, tinh thần đúng với đạo đức nghề nghiệp, nếu không sẽ rơi vào
trường hợp “các quan tòa án tác động tới đương sự”, dẫn tới hạn chế quyền tự định
đoạt của đương sự, vi phạm pháp luật tố tụng.
Có thể nói Tồ án có vai trị quan trọng đối với việc hịa giải của các bên
đương sự khi tham gia thủ tục hoà giải vụ án hơn nhân và gia đình: vừa là chủ thể
đứng ra tổ chức, vừa là chủ thể bảo đảm tính pháp lý cho hoạt động hịa giải.
1.2.3. Ý nghĩa của thủ tục hòa giải trong giải quyết vụ việc hơn nhân và
gia đình
- Một là: Ý nghĩa về mặt tố tụng
Khi tiến hành thủ tục hòa giải trong q trình giải quyết có ý nghĩa rất lớn về
mặt tố tụng. Có những vụ án Tịa án sau khi tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ,
làm rõ các tình tiết, nhưng xác định được một hướng giải quyết hợp lý là rất khó. Để
giải quyết được những vụ án như thế địi hổi phải có sự thiện chí của các đương sự,
thủ tục hịa giải đã góp phần tháo gỡ những khó khăn vướng mắc này. Khi hịa giải
17



thành giúp Tịa án giải quyết vụ án mà khơng phải mở phiên tòa, tránh được việc
khiếu nại, kháng cáo, kháng nghị, quá trình tố tụng hạn chế kéo dài không cần thiết
như: phúc thẩm, tái thẩm hay giám đốc thẩm. Đồng thời nó cũng giải quyết dứt
điểm vụ án đó. Việc khiếu nại các quyết định của Tịa án đưa ra trong q trình giải
quyết tuy có xảy ra nhưng khơng đáng kể.
Có những vụ án hơn nhân và gia đình, sau khi được Tịa án xét xử, ra quyết
định thi hành án nhưng việc thi hành các bản án này rất khó khăn khi người phải thi
hành án tìm cách trốn tránh, cản trở cơng tác thi hành án. Trong trường hợp hòa giải
thành, mỗi bên đương sự đều thỏa thuận trên cơ sở ý chí tự nguyện và phù hợp với
lợi ích của mình, nên họ tự nguyện trong việc thực hiện các quyết định của Tòa án.
Việc thi hành án do đó khơng cần sự tác động nào của Tòa án và trở nên đơn giản,
dễ dàng hơn, ít để lại hậu quả xấu.
Giải quyết tranh chấp bằng hồ giải thường rất nhanh chóng, tiết kiệm, hạn
chế được nhiều thời gian và chi phí cho các bên tranh chấp và chính cho Tồ án. Có
những quan hệ pháp luật hơn nhân và gia đình phải xét xử đi xét xử lại nhiều lần
dẫn đến chi phí tố tụng của Toà án và của các đương sự cịn lớn hơn nhiều so với
u cầu Tồ án giải quyết.
Nếu các bên đương sự khơng hịa giải thành, thì cơng tác hịa giải cũng giúp
cho Tịa án nắm vững hơn về vụ án, hiểu rõ hơn tâm tư tình cảm và những khúc
mắc trong lịng đương sự, từ đó có thể thiết lập hướng giải quyết vụ án đúng đắn
hơn, rút ra những kinh nghiệm trong quá trình xét xử.
- Hai là: Ý nghĩa về mặt kinh tế
Quá trình giải quyết một vụ án hơn nhân và gia đình có thể bị kéo dài phải xét
xử đi xét xử lại nhiều lần. Nhưng với những vụ án được giải quyết thành cơng sau
khi tiến hành thủ tục hịa giải thì thời gian giải quyết rất ngắn, nếu các bên đương sự
thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết tồn bộ vụ án hơn nhân gia đình đó thì
Tịa án lập biên bản hòa giải thành. Hết thời hạn bảy ngày, kể từ ngày lập biên bản
hoà giải thành mà khơng có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thoả thuận đó thì
Thẩm phán chủ trì phiên hoà giải hoặc một Thẩm phán được Chánh án Toà án phân
18



công ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự. Quyết định công
nhận sự thoả thuận của các đương sự có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được ban
hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Như vậy, thời gian
vụ án được giải quyết trong thời gian rất ngắn, thời gian chỉ có thể chỉ cần một đến
hai tháng nếu sự thỏa thuận của đương sự đạt được trong thời gian chuẩn bị xét xử
kể từ ngày Tòa án thụ lý vụ án. Trong gian đoạn hiện nay, Tòa án phải giải quyết
một số lượng vụ việc dân sự mà Tòa án phải giải quyết tăng cao so với cùng kỳ năm
trước. Vì vậy, việc tiến hành thủ tục hịa giải mà hịa giải thành khơng chỉ tiết kiệm
thời gian, tiền của cho đương sự, mà còn ý nghĩa rất lớn đối với Tịa án: góp phần
giúp Tịa án có thời gian giải quyết các vụ án khác, bảo vệ quyền lợi tối đa cho
đương sự.
Nếu hịa giải khơng thành, Tịa án phải đưa đưa vụ án ra xét xử, kinh phí tổ
chức phiên tịa là rất lớn. Đó là các khoản dành cho việc thành lập hội đồng xét xử
mời Hội thẩm nhân dân, sử dụng các trang thiết bị phục vụ cho phiên tòa, …Việc
giải quyết vụ án bằng thương lượng, hòa giải thỏa thuận của đương sự sẽ tiết kiệm
cho ngân sách nhà nước nguồn kinh phí đó.
Đối với các đương sự, nếu các bên hòa giải thành sẽ tiết kiệm cho họ được
thời gian và những chi phí khơng cần thiết. Nếu hịa giải thành trước khi mở phiên
tịa thì các đương sự phải trả thấp hơn khi mở phiên tịa - chịu 50% mức án phí quy
định. Có những đương sự ở xa trụ sở Tịa án, việc đi lại rất khó khăn, tốn kém. Để
giải quyết vụ việc đòi hỏi họ phải đi lại nhiều lần, ở lại một thời gian dài, công việc
và chi phí của việc đi lại, ăn ở họ phải tự lo liệu.
- Ba là: ý nghĩa về mặt xã hội, tâm lý
Việc các bên hoà giải thành với nhau tạo điều kiện tiếp tục duy trì, củng cố
mối quan hệ hơn nhân gia đình ngày càng bền vững và gắn bó hơn. Có thể nói rằng,
bằng hoạt động hồ giải của Tồ án khi giải quyết những quan hệ hơn nhân và gia
đình khơng chỉ giải quyết tốt vụ án mà còn giúp đỡ các đương sự hiểu biết lẫn nhau,
hàn gắn những tình cảm đã mất, đặc biệt là khi giải quyết vụ án ly hôn - Quyết định

ly hôn cũng như tờ giấy chứng tử cho mỗi cuộc hơn nhân. Vì thế, hồ giải vừa là
19


việc bắt buộc nhưng cũng là lương tâm nghề nghiệp của người Thẩm phán . Nhiều
khi sức ép nghề nghiệp lớn, cũng có lúc mệt mỏi, chán nản. Nhưng nghĩ đến niềm
vui khi gia đình người ta được hàn gắn lại vết thương, quay lại về đồ tụ và có cuộc
sống hạnh phúc, lại thấy mình phải có trách nhiệm. Khi hồ giải được với nhau thì
các bên đều “thắng” cả. Sự thù hận, mâu thuẫn, nhất là khi mâu thuẫn giữa vợ
chồng và con cái, đang lên tới đỉnh điểm thì được sự giúp đỡ của Thẩm phán với vai
trị của mình tạo “cho họ” có cơ hội thể hiện thiện chí của mình một cách hồn hảo
nhất, tự
nguyện nhất, giảm bớt những sự căng thẳng khơng cịn như lúc ban đầu. Sự đoàn
kết, thương yêu nhau giữa các thành viên trong gia đình tiếp tục được duy trì và
phát triển, không để những sự việc được coi là đáng tiếc xảy ra, tháo gỡ được tâm lý
nặng nề, tình trạng đối đầu của họ. Việc hồ giải thành cịn củng cố và phát triển
quan hệ vốn có giữa các bên tranh chấp, làm cho mối quan hệ pháp luật hơn nhân và
gia đình bao gồm các quan hệ về nhân thân và các quan hệ về tài sản được phát triển
lành mạnh, hạn chế đến mức tối đa của sự can thiệp quyền lực công vào quan hệ đó
mà phát triển bằng biện pháp giáo dục thuyết phục và sự cảm thơng của các thành
viên trong gia đình và những người có liên quan. Tuy nhiên, nhưng khơng phải lúc
nào, hoà giải cũng mang lại hạnh phúc cho người trong cuộc. Có những cuộc hơn
nhân cũng như con bệnh thời kỳ cuối, việc giải quyết ly dị cũng chính là phương
thuốc giải thốt.
1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA THỦ TỤC HỊA GIẢI VỤ
VIỆC HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
1.2.1. Cơ sở lý luận
Pháp luật tố tụng dân sự và pháp luật hơn nhân và gia đình quy định rất cụ thể
về các bước, các giai đoạn tiến hành thủ tục hịa giải vụ án hơn nhân và gia đình.
Khi Tịa án tiến hành thụ lý giải quyết những tranh chấp về hơn nhân và gia đình

như: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn, tranh chấp về chia tài
sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tranh chấp về thay đổi người trực
tiếp nuôi con sau khi ly hôn, tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định
20


con cho cha, mẹ, tranh chấp về cấp dưỡng và các tranh chấp khác về hơn nhân và
gia đình mà pháp luật có quy định. Như vậy, các tranh chấp về hơn nhân và gia đình
được quy định tại Điều 27 BLTTDS năm 2004 là những tranh chấp có đặc điểm rất
khác với các tranh chấp dân sự thuần túy như: hợp đồng, bảo hiểm,… mà những
tranh chấp này bị chi phối bởi các yếu tố tình cảm thiêng liêng như tình vợ chồng,
tình phụ tử, tình thương yêu giữa các thành viên trong gia đình mà các quan hệ
tranh chấp này không chủ yếu dựa trên cơ sở hàng hóa – tiền tệ, khơng mang tính
chất đền bù ngang giá (đây là điểm khác biệt lớn của quan hệ hơn nhân gia đình so
với các quan hệ dân sự khác). Như vậy, khi các chủ thể tranh chấp với nhau do yếu
tố tình cảm – tình yêu – trách nhiệm giữa các chủ thể có những mâu thuẫn, bất đồng
về việc giải quyết các quan hệ trên mà không được giải quyết một cách triệt để,
những mâu thuẫn, bất đồng này cần đến Tòa án giải quyết bằng việc làm đơn khởi
kiện theo một trình tự thủ tục luật định để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
mình và các thành viên trong gia đình. Tồ án có trách nhiệm tiến hành hồ giải và
tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ
việc dân sự theo quy định của pháp luật.
Để đảm bảo các quyền tự định đoạt của các đương sự pháp luật tố tụng dân
sự cũng quy định rất rõ quyền và nghĩa vụ của các đương sự khi tham gia giải quyết
vụ án hôn nhân và gia đình như: được quyền cung cấp chứng cứ, chứng minh để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; quyền tự thoả thuận với nhau về việc
giải quyết vụ án; tham gia hoà giải do Toà án tiến hành; nhận thông báo hợp lệ để
thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình như thơng báo hịa giải, …Tất cả các quyền
này đương sự hồn tồn là bình đẳng, xuất phát từ quyền tự định đoạt của đương sự.
Mà quyền tự định đoạt của các đương sự không chỉ bao gồm quyền yêu cầu tham

gia hòa giải mà cịn có quyền được hịa giải, quyền được rút đơn, bổ sung yêu cầu,
đề xuất các nội dung hòa giải, phương thức hịa giải miễn là khơng trái pháp luật.
Do vậy, khi các bên đương sự thực hiện quyền của mình khi tiến hành hịa giải tại
Tịa án – dưới sự trợ giúp của Tịa án họ có thể cùng nhau ngồi lại và thảo luận, có
dịp nhìn lại quan hệ giữa các bên đương sự.

21


Qua nghiên cứu những nguyên nhân ly hôn mà các cặp vợ chồng trẻ hay mắc
phải “trong một cơng trình nghiên cứu xã hội học cho thấy: ở TP Hồ Chí Minh, tỷ
lệ ly hơn của các cặp vợ chồng là 31,40%... Hạnh phúc trong hơn nhân địi hỏi bạn
trẻ phải nhận thức đúng về vai trị của gia đình, trang bị cho mình tri thức khoa học
và kỹ năng sống. Muốn vậy phải là quá trình rèn luyện, đối thoại, điều chỉnh mới có
hạnh phúc. Nếu gặp trục trặc lúc đầu trong cuộc sống hơn nhân, hãy bình tĩnh tìm
nguyên nhân để khắc phục.”[48] . “Trước đây, nhiều vụ hịa giải hay xét xử ly hơn ở
tịa án thường bùng nổ với những trận cãi vã, đổ lỗi, thậm chí thóa mạ nhau của hai
vợ chồng để giành phần phải về mình. Gần đây, hình ảnh đó đã được thay thế bằng
cách cư xử hòa nhã, nhẹ nhàng hơn. "Một phần do trình độ văn hóa, nhận thức pháp
luật của người dân ngày càng được nâng lên, nhưng phần khác, ẩn sau cách cư xử
văn minh đó là cơn sóng ngầm rất dữ dội" [48].
Khi hai bên đương sự đang tranh chấp về việc giải quyết việc ly hôn, tranh
chấp việc chia tài sản khi ly hôn, tranh chấp về chia tài sản chung của vợ
chồng…với sự trợ giúp của Thẩm phán vô tư khách quan và thành thạo kỹ năng giải
quyết vụ án hơn nhân và gia đình. Thẩm phán phổ biến cho các đương sự biết các
quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án để các bên liên hệ đến
quyền, nghĩa vụ của mình, phân tích hậu quả pháp lý của việc hoà giải thành để họ
tự nguyện thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Hòa giải đã được quy định
trong BLTTDS năm 2004 được Quốc hội nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thơng qua ngày 15/6/2004, có hiệu lực từ ngày 01/01/2005, LHNGĐ năm

2000, Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành các quy định trong
Phần thứ hai “thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ luật Tố tụng
Dân sự và Nghị định số 70/CP ngày 12 tháng 6 năm 1997 của Chính phủ về án phí,
lệ phí Tịa án và Cơng văn của Tịa án nhân dân Tối cao số 107/KHXX ngày 23
tháng 6 năm 2006 về việc cơng báo đính chính biên bản hịa giải thành và các văn
bản hướng dẫn thi hành BLTTDS năm 2004 và LHNGĐ năm 2000. Khi tiến hành
thủ tục hòa giải vụ án hơn nhân và gia đình đều phải xuất phát từ bản chất của
những quan hệ hôn nhân và gia đình trên cơ sở bình đẳng, tự do, tự nguyện, cam
kết, thỏa thuận. Trong quá trình giải quyết các quan hệ pháp luật hôn nhân và gia
22


đình Tồ án phải tiến hành hồ giải để giúp các đương sự thoả thuận được với nhau
về việc giải quyết các quan hệ pháp luật đó, trừ những trường hợp khơng hồ giải
được hoặc pháp luật quy định khơng được hồ giải. Thủ tục hịa giải vụ án hơn nhân
và gia đình là một yêu cầu tất yếu khách quan trước sự phát triển của đời sống xã
hội, đời sống gia đình trong tình hình mới và là một yêu cầu cần xây dựng một mọi
tranh chấp trước tiên nên được giải quyết bằng thương lượng, hòa giải.
Đối với một số việc hơn nhân và gia đình u cầu xác nhận một sự kiện pháp
lý. Việc hôn nhân và gia đình khơng có tranh chấp như u cầu ly hơn, thuận tình ly
hơn, u cầu hủy hơn nhân trái pháp luật, yêu cầu xác nhận cha, mẹ; yêu cầu hủy
việc nuôi con nuôi, yêu cầu thay đổi người nuôi con, yêu cầu cấp dưỡng và các yêu
cầu khác về hơn nhân và gia đình. Xét về mặt pháp lý, LHNGĐ năm 2000 có quy
định tại Điều 88 có quy định: sau khi đã thụ lý đơn yêu cầu xin ly hơn, Tồ án tiến
hành hồ giải theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Khi một bên vợ hoặc
chồng u câu ly hơn mà hồ giải tại Tồ án khơng thành thì Tồ án xem xét giải
quyết việc ly hơn. Khi một bên ly hơn thì Tồ án hồ giải để các bên xin ly hơn rút
đơn trở về đoàn tụ vợ chồng, xây dựng gia đình hạnh phúc, chứ khơng phải hồ giải
để bên kia đồng ý ly hôn và Điều 90 LHNGĐ năm 2000 cũng quy định: trong
trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hơn mà hồ giải tại Tồ án khơng thành, nếu

xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thoả thuậ về việc chia tài sản, việc
trông nom, ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục con thì Tồ án cơng nhận thuận tình ly
hơn và sự thoả thuận về tài sản và con cái, nếuk hông thoả thuận được hoặc tuy có
thoả thuận nhưng khơng bào đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tồ án
quyết định. Với quy định, thì Tồ án phải hồ giải để hai bên theo, LHNGĐ năm
2000 Toà án tiến hành hoà giải để hai bên trở về đoàn tụ vợ chồng, nếu không được
và họ thực sự tự nguyện thoả thuận về cả ba nội dung tình cảm, con cái, tài sản thì
Tồ án quyết định cơng nhận sự thoả thuận (giải quyết theo việc dân sự). Nếu
không thoả thuận được cả ba nội dung trên thì Tồ án quyết định chuyển sang thủ
tục giải quyết vụ án dân sự.
Từ sự phân tích trên ta có thể thấy, quy định thủ tục hòa giải khi giải quyết
quan hệ pháp luật hơn nhân và gia đình tại Tịa án là cần thiết, tất yếu. Trong điều
23


kiện quan hệ hơn nhân và gia đình đang bị tác động mạnh mẽ bởi quá trình phát
triển của nền kinh tế thị trường, thủ tục hịa giải sẽ có ý nghĩa rất lớn đối với cơng
tác duy trì trật tự xã hội, ổn định các quan hệ hôn nhân và gia đình hiện nay.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn
Việc quy định hịa giải thành một thủ tục trong q trình giải quyết vụ án hơn
nhân và gia đình tại Tịa án nhân dân, một điểm xuất phát khá quan trọng của nó là
truyền thống của dân tộc nói riêng và truyền thống tập quán trên thế giới nói chung.
Dân tộc ta là một dân tộc có truyền thống đồn kết từ lâu đời, tình cảm giữa người
với người, giữa cha mẹ với con cái, giữa các thành viên trong gia đình bao giờ cũng
là một vấn đề hàng đầu mỗi khi quy định một vấn đề nào đó liên quan đến quyền lợi
của cá nhân. Quan niệm có từ thời rất xa xưa trong lịch sử các dân tộc ta “lấy hịa
làm trọng” đã tác động khơng nhỏ đến cách đối nhân xử thế trong nội bộ gia đình.
Thời kỳ năm 1945 thủ tục hịa giải tuy khơng được quy định trong các văn bản pháp
luật có giá trị pháp lý cao như Pháp lệnh, Bộ luật nhưng công tác hòa giải vẫn diễn
ra một cách thường xuyên trong phạm vi nhỏ tại các khu phố khi các thành viên

trong gia đình và huyết thống xảy ra mâu thuẫn, va chạm hoặc hiểu lầm. Việc làm
trên có ý nghĩa quan trọng nhằm hạn chế các những quan hệ hôn nhân và gia đình
tiếp tục tranh chấp, u cầu đến Tịa án nhân dân cấp huyện giải quyết, các vụ hòa
giải không thành UBND các xã - thị trấn đều ban hành thơng báo để người dân có
cơ sở tiếp tục làm đơn tranh chấp, vụ việc đó đến Tịa án nhân dân cấp huyện hoặc
khởi kiện dân sự tại Tòa án
Thủ tục hịa giải vụ án hơn nhân và gia đình tại Tồ án nhân dân đã phát huy
tác dụng rất tốt trong việc giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình. Tổng kết thực
tiễn xét xử đã chứng minh cơng tác hịa giải các quan hệ hơn nhân và gia đình theo
luật định có ý nghĩa và tầm quan trọng của nó. Tịa án đã thực hiện được một nhiệm
vụ lớn lao mà Nhà nước giao cho là giáo dục trình độ hiểu biết pháp luật và nâng
cao ý thức chấp hành pháp luật cho mỗi công dân. Đây là một hiệu quả thực tế đã
được chứ khơng chỉ nói trên phương diện lý thuyết vì một mặt, khi tiến hành trình
tự, thủ tục hịa giải, Tịa án phổ biến cho các đương sự biết các quy định của pháp
24


×