Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

(Luận văn thạc sĩ) thủ tục khởi tố vụ án hình sự trong luật tố tụng hình sự việt nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh phú thọ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 98 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ NGỌC

THđ TơC KHởI Tố Vụ áN HìNH Sự
TRONG LUậT Tố TụNG HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Phó Thä)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ NGỌC

THđ TơC KHởI Tố Vụ áN HìNH Sự
TRONG LUậT Tố TụNG HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Phó Thä)
Chun ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS ĐỖ NGỌC QUANG

HÀ NỘI - 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Ngọc


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỦ TỤC KHỞI TỐ
VỤ ÁN HÌNH SỰ................................................................................ 5
1.1.

Khái niệm, đặc điểm, nhiệm vụ của khởi tố vụ án hình sự và
thủ tục khởi tố vụ án hình sự............................................................. 5

1.1.1. Khái niệm ............................................................................................. 5

1.1.2. Đặc điểm ............................................................................................... 9
1.1.3. Nhiệm vụ ............................................................................................ 12
1.1.4. Phân biệt khởi tố vụ án hình sự với khởi tố bị can ............................. 14
1.2.

Quá trình phát triển của luật tố tụng hình sự về khởi tố vụ
án hình sự .......................................................................................... 16

1.2.1. Giai đoạn từ 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình
sự năm 1988........................................................................................ 16
1.2.2. Giai đoạn từ 1988 đến nay.................................................................. 19
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ THỦ
TỤC KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ GIAI ĐOẠN TỪ 2012 - 2016 ......... 21
2.1.

Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục khởi tố vụ
án hình sự .......................................................................................... 21

2.1.1. Căn cứ khởi tố vụ án hình sự và khơng khởi tố vụ án hình sự ........... 21
2.1.2. Thẩm quyền ban hành quyết định khởi tố vụ án hình sự và quyết
định khơng khởi tố vụ án hình sự ....................................................... 37
2.1.3. Trình tự khởi tố vụ án hình sự ............................................................ 45
2.1.4. Kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự ................................................... 56


2.2.

Thực tiễn thi hành luật tố tụng hình sự về khởi tố vụ án hình
sự trên địa bàn tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2012 - 2016 ..................... 59

2.2.1. Tình hình khởi tố vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Phú Thọ từ
2012 - 2016 ......................................................................................... 59
2.2.2. Những thiếu sót, tồn tại trong khởi tố vụ án hình sự địa bàn tỉnh
Phú Thọ từ 2012 - 2016 ...................................................................... 66
2.2.3. Những nguyên nhân gây nên những thiếu sót, tồn tại trong khởi
tố vụ án hình sự địa bàn tỉnh Phú Thọ từ 2012 - 2016 ....................... 69
2.3.

Những điểm mới của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về
khởi tố vụ án hình sự ........................................................................ 70

Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC
THI LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ THỦ TỤC KHỞI TỐ
VỤ ÁN HÌNH SỰ.............................................................................. 78
3.1.

Tiếp tục hồn thiện các quy định Bộ luật tố tụng hình sự
2015 về thủ tục khởi tố vụ án hình sự ............................................. 79

3.2.

Ban hành các văn bản hướng dẫn Bộ luật tố tụng hình sự
2015 về thủ tục khởi tố vụ án hình sự ............................................. 80
Thực hiện tốt cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp ..... 81

3.3.
3.4.

Quản lý chặt chẽ việc tiếp nhận, xử lý, giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố .............................................. 82


3.5.

Nâng cao trình độ, năng lực, trách nhiệm, đạo đức nghề
nghiệp đối với cán bộ trong các cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng ...................................................................................... 83
Xây dựng và thực hiện cơ chế phối hợp giữa các cấp, các ngành ...... 84

3.6.
3.7.

Nâng cao nhận thức về đấu tranh, phòng chống tội phạm và
phát huy sức mạnh tổng hợp của tồn xã hội tham gia vào cơng
tác tư pháp.......................................................................................... 85

KẾT LUẬN .................................................................................................... 87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 88


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1. Tình hình khởi tố vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
giai đoạn 2012-2016

61


Bảng 2.2. Kết quả tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo, kiến nghị
khởi tố của Cơ quan điều tra tỉnh Phú Thọ

64

Bảng 2.3. Kết quả công tác kiểm sát của Viện kiểm sát trong giai
đoạn khởi tố vụ án hình sự

65


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự đầu tiên mà trong đó
cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp
luật tố tụng hình sự tiến hành việc xác định có hay khơng các dấu hiệu của tội
phạm trong hành vi nguy hiểm cho xã hội để ban hành quyết định khởi tố vụ
án hình sự hoặc quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự. Với tính chất là một
giai đoạn độc lập và đầu tiên của quá trình tố tụng hình sự, thủ tục khởi tố
hình sự đóng một vai trị vơ cùng quan trọng. Nếu khởi tố vụ án khơng kịp
thời thì sẽ bỏ lọt tội phạm. Ngược lại, nếu khởi tố vụ án khơng chính xác sẽ
dẫn đến oan sai cho người vô tội, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của cơng dân. Nghị quyết số 08/NQTW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về
“Một số nhiệm vụ trong tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, đã đặt ra
yêu cầu: “Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và
trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người
phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai
phạm của những người tiến hành tố tụng làm nhiệm vụ…” [6].
Sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã kéo theo sự phát triển rất

nhanh của các quan hệ dân sự, kinh tế, lao động… Cùng với đó là tình hình
tội phạm xảy ra với những phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi và tính
chất phức tạp, mang tính tổ chức cao… Do đó, địi hỏi quá trình giải quyết vụ
án hình sự phải kịp thời, nhanh chóng, đáp ứng được mục tiêu chung khơng
làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm. Bên cạnh đó, thực tiễn áp dụng
các quy định về khởi tố vụ án hình sự cịn hạn chế, bất cập, việc nhiều các cơ
quan có thẩm quyền xác định khơng đúng căn cứ và cơ sở khởi tố vụ án hình
sự nên dẫn đến tình trạng bỏ lọt tội phạm, bắt, giữ, giam, truy tố oan sai người

1


vơ tội. Thực trạng đó làm ảnh hưởng đến uy tín của Nhà nước mà trước hết là
uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp
pháp của cơng dân, làm giảm lòng tin của Nhân dân đối với nền tư pháp Xã
hội chủ nghĩa. Từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài "Thủ tục khởi tố vụ
án hình sự trong luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn
tỉnh Phú Thọ)".
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ
quan tiến hành tố tụng trong việc khởi tố vụ án hình sự, đã có nhiều cơng
trình nghiên cứu khoa học liên quan đến vấn đề này. Điển hình như: tác giả
Khuất Văn Nga với bài viết: Những chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về
cải cách tư pháp và tổ chức hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong thời
kỳ đổi mới, Tạp chí Kiểm sát, số 7/2004; tác giả Phạm Văn Huân với luận văn
thạc sỹ: Những cơ sở và căn cứ khởi tố vụ án hình sự, năm 2013; tác giả
Nguyễn Khắc Quang với luận văn thạc sỹ: Vai trò của Viện kiểm sát trong
khởi tố vụ án hình sự, năm 2014; tác giả Trần Duy Phương với luận văn thạc
sỹ: Những căn cứ khơng được khởi tố vụ án hình sự theo luật tố tụng hình sự
Việt Nam, năm 2015; tác giả Nguyễn Đức Hải với luận án tiến sĩ luật học:

Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt
Nam... Những cơng trình kể trên chưa nghiên cứu một cách có hệ thống, tồn
diện về giai đoạn khởi tố vụ án hình sự nói chung, về thủ tục khởi tố nói
riêng, đặc biệt là các vấn đề về thẩm quyền khởi tố, trình tự khởi tố.... Mặc dù
vậy, các cơng trình khoa học, các bài viết trên đây là những tài liệu tham khảo
rất có giá trị để nghiên cứu và hoàn thiện đề tài luận văn.
3. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những quy định của pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam về khởi tố vụ án hình sự và thủ tục khởi tố vụ án hình sự. Đồng

2


thời đánh giá thực trạng việc áp dụng quy định của luật tố tụng hình sự về
khởi tố vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Phú Thọ từ đó làm cơ sở đề ra các
giải pháp hoàn thiện.
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu về thời gian là các văn bản pháp luật có liên quan,
chủ yếu là văn bản pháp luật tố tụng hình sự ban hành từ năm 2003 đến nay;
số liệu liên quan đến khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Công an tỉnh
Phú Thọ trên địa bàn tỉnh Phú Thọ được phân tích và đánh giá từ năm 2012
đến năm 2016.
Luận văn khơng nghiên cứu tình hình khởi tố vụ án hình sự của Cơ
quan điều tra trong quân đội nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và các
cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
5. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu đề tài được thực hiện trên cơ sở gắn liền lý luận
và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, những quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp. Các vấn đề trong luận văn được

phân tích, lý giải trên cơ sở sử dụng tổng hợp các phương pháp tiếp cận hệ
thống, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp,
phỏng vấn chuyên gia; sưu tầm số liệu thực tế, phương pháp xử lý dữ liệu.
6. Ý nghĩa và nhiệm vụ của luận văn
- Về ý nghĩa: Các kết quả nghiên cứu của luận văn là cơ sở để cơ
quan có thẩm quyền nghiên cứu, vận dụng trong q trình hồn thiện pháp
luật tố tụng hình sự. Đồng thời qua việc phát hiện những tồn tại trong thực
tiễn giải quyết các vụ án góp phần nâng cao chất lượng thực thi pháp luật
trong thực tiễn.
- Nhiệm vụ: Phân tích làm rõ các khái niệm, đặc điểm cơ bản về khởi tố

3


vụ án hình sự và thủ tục khởi tố vụ án hình sự; phân tích các quy định của bộ
luật tố tụng hình sự về thủ tục khởi tố vụ án hình sự; nghiên cứu thực trạng áp
dụng pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục khởi tố trên địa bàn tỉnh Phú Thọ và
nêu ra được các giải pháp góp phần nâng cao chất lượng thực thi pháp luật.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, luận văn có kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về khởi tố vụ án hình sự và thủ tục
khởi tố vụ án hình sự.
Chương 2: Quy định của Luật tố tụng hình sự về thủ tục khởi tố vụ án hình
sự và thực tiễn thi hành trên địa bàn tỉnh Phú Thọ giai đoạn từ 2012-2016.
Chương 3: Các giải pháp nâng cao chất lượng thực thi Luật tố tụng
hình sự về thủ tục khởi tố vụ án hình sự.

4



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỦ TỤC KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, nhiệm vụ của khởi tố vụ án hình sự và
thủ tục khởi tố vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm
Khoa học tư pháp hình sự Việt Nam có phân định các giai đoạn tố tụng
hình sự. Nếu trong các hình thức tố tụng khác, việc phân chia các giai đoạn tố
tụng chỉ có ý nghĩa phân chia các việc làm của Toà án từ khi có khởi kiện đến
khi tiến hành xét xử thì trong tố tụng hình sự, phân chia các giai đoạn không
chỉ đơn thuần là xác định nhiệm vụ của từng giai đoạn, mà còn làm rõ quyền
và trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện
Kiểm sát, Toà án) trong thực hiện nhiệm vụ tố tụng, cũng như trong việc đưa
ra các văn bản tố tụng phù hợp của quá trình giải quyết vụ án hình sự. Vì vậy,
các giai đoạn tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự kể từ khi bắt đầu
cho đến khi kết thúc có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và phải được diễn ra
liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian với những hành vi tố tụng khác nhau.
Kết thúc giai đoạn tố tụng này mới chuyển sang giai đoạn tố tụng khác; giai
đoạn tố tụng trước làm cơ sở cho giai đoạn tố tụng sau; giai đoạn tố tụng sau
kiểm nghiệm lại kết quả đạt được của giai đoạn trước. Mỗi giai đoạn tố tụng
thực hiện một nhiệm vụ theo một định hướng nhất định của quá trình tố tụng
và chứa đựng những đặc điểm riêng biệt. Các giai đoạn tố tụng hình sự hợp
thành tổng thể quá trình tố tụng thống nhất và có quan hệ khăng khít với nhau.
Có thể nói, các giai đoạn tố tụng hình sự là các phần độc lập, liên quan,
kế tiếp nhau của quá trình tố tụng, giai đoạn trước là điều kiện, là cơ sở pháp
lý làm phát sinh giai đoạn sau, giai đoạn sau kiểm tra và kế thừa kết quả của
giai đoạn trước, tạo thành một q trình tố tụng hồn chỉnh, liên tục. Mỗi giai

5



đoạn có nhiệm vụ tố tụng cụ thể; có cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng và người tham gia tố tụng tương ứng; có trình tự, thủ tục thực
hiện các hành vi tố tụng riêng; các quan hệ tố tụng và những quyết định tố
tụng riêng đảm bảo giải quyết vụ án hình sự một cách đúng đắn, khách quan,
toàn diện và kịp thời. Hoạt động tố tụng hình sự là hoạt động phức tạp, gắn
liền với việc phát hiện, xử lý tội phạm và người phạm tội và liên quan trực
tiếp đến các quyền, lợi ích hợp pháp của con người.
Mỗi giai đoạn có những nhiệm vụ tố tụng nhất định: Nhiệm vụ giai
đoạn khởi tố vụ án là xác định dấu hiệu tội phạm để ra quyết định khởi tố hay
không khởi tố vụ án; nhiệm vụ giai đoạn điều tra là xác định tội phạm và
người thực hiện hành vi phạm tội, xác định thiệt hại, nguyên nhân và điều
kiện phạm tội, lập hồ sơ, đề nghị truy tố bị can; nhiệm vụ của giai đoạn truy
tố là kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của tồn bộ các hành vi tố tụng
mà Cơ quan điều tra có thẩm quyền đã áp dụng, trên cơ sở đó Viện kiểm sát
ra quyết định truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng; còn nhiệm vụ
của giai đoạn xét xử là phán xét về vấn đề tính chất tội phạm (hay khơng) của
hành vi, có tội (hay khơng) của bị cáo.
Mỗi giai đoạn có những chủ thể tham gia tố tụng xác định: trong giai
đoạn khởi tố vụ án hình sự thì cơ quan có thẩm quyền khởi tố được quy định
rộng hơn và khác so với các giai đoạn tố tụng khác. Ở các giai đoạn tố tụng
khác, như trong giai đoạn điều tra, chỉ có Cơ quan điều tra mới có quyền điều
tra, trừ những trường hợp phạm tội quả tang, chứng cứ rõ ràng ít nghiêm
trọng được cơ quan hữu quan hoàn thành hồ sơ và chuyển cho Viện kiểm sát;
giai đoạn truy tố chỉ do Viện kiểm sát tiến hành; giai đoạn xét xử chỉ do Tòa
án tiến hành. Mỗi giai đoạn được kết thúc bằng văn bản tố tụng khác nhau:
giai đoạn khởi tố vụ án được kết thúc bằng quyết định khởi tố vụ án hoặc
không khởi tố vụ án; giai đoạn điều tra vụ án được kết thúc bằng văn bản kết

6



luận điều tra đề nghị truy tố hoặc ra bản kết luận điều tra và quyết định đình
chỉ điều tra; giai đoạn truy tố được kết thúc bằng quyết định truy tố bị can
(bản cáo trạng) hoặc quyết định trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc quyết
định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án; các giai đoạn xét xử kết thúc bằng bản
án, quyết định…
Có nhiều quan điểm khác nhau về phân chia các giai đoạn tố tụng. Tuy
nhiên, cách hiểu chung nhất của đa số các luật gia, trong tố tụng hình sự có 04
giai đoạn cơ bản: giai đoạn khởi tố vụ án hình sự; giai đoạn điều tra vụ án
hình sự; giai đoạn xét xử vụ án hình sự và giai đoạn thi hành bản án hình sự.
Như vậy, khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng hình
sự. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành khơng quy định khái niệm thế nào là vụ án
hình sự nhưng căn cứ quy định của pháp luật thì có thể hiểu vụ án hình sự là
vụ việc có hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm hại đến những khách thể mà
pháp luật hình sự bảo vệ. Đó là những vụ việc có hành vi vi phạm pháp luật
đã xảy ra hoặc đang xảy ra hoặc sẽ xảy ra mà Bộ luật hình sự có quy định
hành vi đó là tội phạm. Về mặt hình thức, vụ án hình sự được hiểu là vụ án do
các cơ quan có thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử, giải quyết theo trình tự
thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định nhằm phát hiện, xử lý mọi hành vi
phạm tội. Trong vụ án hình sự thì nghĩa vụ chứng minh một người có tội hay
vơ tội thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Như
vậy, để xác định sự kiện đã xảy ra mang dấu hiệu của một vụ án hình sự cần
phải được chính thức giải quyết bằng con đường tố tụng hình sự theo quy
định của pháp luật, cơ quan có thẩm quyền phải xác minh tìm hiểu những
thơng tin cơ bản ban đầu để phục vụ cho việc ra quyết định xác định sự việc
đã xảy ra là vụ án hình sự và chính thức đưa vụ án vào quá trình tố tụng.
Những hoạt động tố tụng ban đầu này được thực hiện trong giai đoạn đầu tiên
của vụ án là giai đoạn khởi tố vụ án hình sự.

7



Quyết định khởi tố vụ án hình sự là cơ sở pháp lý đầu tiên cho phép Cơ
quan điều tra áp dụng các hoạt động điều tra nhằm làm rõ tội phạm và người
phạm tội một cách nhanh chóng, chính xác, kịp thời. Các hoạt động điều tra
và việc áp dụng biện pháp ngăn chặn chỉ được tiến hành sau khi có quyết định
khởi tố vụ án. Tuy nhiên trong trường hợp cần thiết phải làm sáng tỏ những
tài liệu đầu tiên, xác định hoàn cảnh, địa điểm xảy ra tội phạm, thu thập
những vật chứng và những tình tiết có giá trị cho việc phát hiện tội phạm thì
tiến hành khám nghiệm hiện trường; trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả
tang thì bắt người trước khi khởi tố vụ án.
Như vậy, khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của q trình tố
tụng, trong đó cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập, xử lý các
thông tin ban đầu để xác định có hoặc khơng có dấu hiệu tội phạm và ra
quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự
nhằm làm cơ sở cho các hoạt động tố tụng tiếp theo của quá trình giải quyết
vụ án hình sự.
Trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 có một chương quy định về
khởi tố vụ án hình sự với tư cách là một chế định pháp luật, theo đó có những
quy định về thẩm quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của các cơ quan tiến hành tố
tụng và quy định về thủ tục khởi tố vụ án hình sự. Như chúng ta đã biết, thủ
tục là những việc cụ thể phải làm theo một trật tự quy định để tiến hành một
cơng việc có tính chất chính thức. Thủ tục khởi tố vụ án hình sự chính là trình
tự theo luật định để khởi tố vụ án hình sự. Nhiều chuyên gia cho rằng thủ tục
khởi tố vụ án hình sự được bắt đầu từ khi xác nhận được dấu hiệu tội phạm
của các cơ quan điều tra; nhưng để xác nhận được dấu hiệu tội phạm thì phải
bắt đầu từ khi tiếp nhận nguồn thông tin về tội phạm. Theo quan điểm của
người viết, để hiểu sâu, hiểu rõ hơn về quy trình khởi tố hay thủ tục khởi tố vụ
án hình sự chúng ta nên đi theo 3 bước: Bước thứ nhất là việc tiếp nhận nguồn


8


tin về tội phạm; bước thứ hai là giải quyết nguồn tin về tội phạm; bước thứ ba
là ra quyết định khởi tố hoặc khơng khởi tố vụ án hình sự.
1.1.2. Đặc điểm
Như phần trên đã trình bày, khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên
của quá trình tố tụng hình sự, theo đó, các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm
quyền sẽ phải thực hiện các bước gồm tiếp nhận, xác minh, thẩm tra tin báo,
tin tố giác về tội phạm để xác định có hay khơng có dấu hiệu tội phạm và ra
quyết định khởi tố hoặc khơng khởi tố vụ án hình sự. Do vậy, thủ tục khởi tố
vụ án có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, khởi tố vụ án nói chung và thủ tục khởi tố vụ án nói riêng có
ý nghĩa quyết định đến việc có hay khơng vụ án hình sự, làm cơ sở cho hoạt
động tố tụng tiếp theo của q trình tố tụng.
Trong các cơng trình nghiên cứu và công bố đều tương đối thống nhất
quan điểm: quá trình tố tụng đối với vụ án hình sự thường được bắt đầu kể từ
khi nhận được tin báo, tin tố giác về tội phạm về tội phạm. Những tin báo, tin
tố giác về tội phạm có thể là tố giác của công dân; tin báo của cơ quan, tổ
chức; tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng; Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát
biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện dấu hiệu
của tội phạm; người phạm tội tự thú. Đây là những thông tin ban đầu mà công
dân, cơ quan, tổ chức với sự hiểu biết của mình cho rằng, những gì mình nhìn
thấy, nghe thấy có thể là những sự kiện phạm tội và họ đã thông báo cho các
cơ quan điều tra, các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra. Những hoạt động cụ thể trong tiếp nhận thông tin về tội phạm từ các
nguồn khác nhau tuỳ thuộc vào hình thức thơng tin của người cung cấp, có thể
bằng miệng, điện thoại, đơn thư, văn bản v.v.... Việc tiếp nhận tin báo là


9


nhiệm vụ và trách nhiệm của các cơ quan nói trên. Các cơ quan tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm có trách nhiệm trả lời cho cơ quan, tổ chức
hoặc người đã cung cấp tin. Trong trường hợp cơ quan, tổ chức, người cung
cấp tin yêu cầu giữ bí mật thì các cơ quan tiến hành tố tụng nêu trên phải giữ
bí mật cho họ. Nhiệm vụ tiếp nhận, giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm
được pháp luật tố tụng hình sự quy định, cụ thể: Cơ quan điều tra phải tiếp
nhận những tố giác, tin báo về tội phạm đối với những tội phạm thuộc thẩm
quyền điều tra của mình; Viện Kiểm sát, sau khi tiếp nhận tố giác, tin báo về
tội phạm có trách nhiệm chuyển ngay những thơng tin này đến Cơ quan điều
tra có thẩm quyền để giải quyết. Các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội
phạm đối với những tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của mình. Nếu tố
giác, tin báo về tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của cơ quan điều tra thì
phải chuyển ngay đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền, sau khi tiếp nhận.
Đồng thời Cơ quan điều tra phải áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ
Người đã tố giác tội phạm.
Pháp luật tố tụng hình sự nghiêm cấm những hành vi của những người
thuộc các cơ quan này từ chối việc tiếp nhận giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm. Mọi trường hợp không làm hoặc làm trái các quy định về tiếp nhận,
giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm phải được xem xét, quy trách nhiệm
rõ ràng. Các cơ quan tiếp nhận, giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm sau
khi tiếp nhận, nếu xét thấy khơng thuộc thẩm quyền điều tra của mình thì phải
báo hoặc chuyển ngay cho cơ quan điều tra có thẩm quyền giải quyết vụ việc
đó. Trong trường hợp xác định có dấu hiệu tội phạm, cơ quan có thẩm quyền
ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Trên cơ sở có quyết định này thì hoạt
động điều tra vụ án mới được bắt đầu.

Thứ hai, thủ tục khởi tố vụ án hình sự chỉ diễn ra trong một thời hạn

10


nhất định. Thời điểm bắt đầu được tính từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng
nhận được những thông tin, tin tức (tin báo, tin tố giác...) về tội phạm từ
các nguồn khác nhau. Khoảng thời gian từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc
tuỳ thuộc vào tính phức tạp, rõ ràng của những thông tin, tin tức đã nhận
được về tội phạm.
Trong thời hạn không quá 20 ngày kể từ khi nhận được tố giác hoặc tin
báo về tội phạm, Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát trong phạm vi trách nhiệm
của mình phải kiểm tra, xác minh nguồn tin vào quyết định việc khởi tố hoặc
không khởi tố vụ án hình sự. Trong trường hợp sự việc bị tố giác hoặc tin báo
có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì
thời hạn để giải quyết tố giác và tin báo có thể dài hơn, nhưng khơng q 2
tháng. Trong thời hạn nêu trên, các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền
phải kết luận có hay khơng có dấu hiệu tội phạm trong tố giác hoặc tin báo về
tội phạm để ra một trong hai quyết định: quyết định khởi tố vụ án hình sự
hoặc quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự.
Trong thực tế, đa số các trường hợp có thể xác định được ngay dấu hiệu
tội phạm sau khi nhận được những thông tin về tội phạm. Nhưng cũng khơng
ít trường hợp, việc xác định có hay khơng có dấu hiệu tội phạm rất khó khăn,
nhất là trong những thơng tin liên quan đến tham nhũng, đến tội phạm chức
vụ, kinh tế. Điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến thời hạn trong việc ra những
quyết định liên quan. Pháp luật tố tụng hình sự ấn định thời hạn để thúc đẩy
trách nhiệm của các Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát phải tiến hành những
hoạt động cần thiết kể từ khi nhận được những thông tin về tội phạm.
Thứ ba, dấu hiệu tội phạm là căn cứ pháp lý để ra quyết định khởi tố vụ án
hình sự. Để có được kết luận một cách chính xác về tội phạm và người phạm tội

cần phải trải qua các hoạt động hoạt động điều tra. Do vậy, không được nhầm
lẫn rằng, đã khởi tố vụ án hình sự là khẳng định có tội phạm xảy ra.

11


Do đặc tính pháp lý của quyết định khởi tố vụ án hình sự liên quan đến
quyền tiến hành các hoạt động điều tra và đụng chạm vào những quyền và lợi
ích hợp pháp của cơng dân mà cần thiết phải hết sức chặt chẽ. Chỉ được khởi
tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Dấu hiệu tội phạm là
những dấu hiệu được quy định trong luật hình sự thể hiện trong các sự việc,
sự kiện phạm tội là việc có dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực
hiện. Cần chú ý trong giai đoạn này, các cơ quan có thẩm quyền chưa thể
ngay lập tức xác định được đầy đủ các dấu hiệu tội phạm. Cho nên khi có sự
việc xảy ra, chỉ cần xác định có hành vi nguy hiểm cho xã hội là đã có căn cứ
ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Việc làm rõ, đầy đủ các dấu hiệu hiệu tội
phạm có khi phải trải qua q trình điều tra mới có thể biết được.
Thứ tư, chỉ những cơ quan có thẩm quyền mới có quyền ra quyết định
khởi tố vụ án hình sự.
Cơ quan có thẩm quyền mới có quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình
sự khơng chỉ là các cơ quan tiến hành tố tụng mà cịn có các cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như Bộ đội biên phòng, cơ
quan Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của
Công an nhân dân, Quân đội nhân dân. Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ
án hình sự trong trường hợp Viện kiểm sát huỷ bỏ quyết định không khởi tố
vụ án của các Cơ quan điều tra và trong trường hợp Hội đồng xét xử yêu cầu
khởi tố vụ án. Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm
sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được
tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra. Sau khi có quyết định
khởi tố vụ án, những hoạt động điều tra vụ án hình sự đó được tiến hành theo

đúng trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định.
1.1.3. Nhiệm vụ
Mỗi giai đoạn tố tụng hình sự đều có những nhiệm vụ riêng biệt, nhiệm

12


vụ quan trọng của giai đoạn khởi tố chính là xác định dấu hiệu của tội phạm,
kết thúc thủ tục khởi tố, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng sẽ phải ra
quyết định khởi tố hoặc không khởi tố. Khi tiếp nhận tin tức về tội phạm, cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xác định xem có sự việc phạm tội
xảy ra hay khơng, khơng chỉ xem xét có sự việc phạm tội xảy ra mà cần xác
định xem có dấu hiệu tội phạm khơng. Tuy nhiên, đây chỉ là những xác định
sơ bộ chứ chưa kết luận một cách chắc chắn rằng có tội phạm và người phạm
tội. Nếu xác định có dấu hiệu tội phạm thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Nếu xác định khơng có dấu hiệu tội
phạm thì ra quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự. Tuy nhiên, có trường hợp
đặc biệt, khi xác định những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính
chất nguy hiểm cho xã hội khơng đáng kể thì khơng khởi tố vụ án hình sự mà
có thể xử lý bằng các biện pháp khác (hành chính, dân sự, hịa giải…).
Nhiệm vụ xác định có hay khơng có dấu hiệu tội phạm để khởi tố hoặc
không khởi tố vụ án của giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng hình sự có ý
nghĩa vơ cùng quan trọng nhằm bảo đảm tất cả tội phạm nào cũng được phát
hiện kịp thời, nhanh chóng và bị trừng phạt theo đúng quy định của pháp luật,
không bỏ lọt tội phạm và không một người vơ tội nào bị truy cứu trách nhiệm
hình sự oan. Ngược lại, nếu các hoạt động tố tụng hình sự trong giai đoạn
khởi tố khơng đầy đủ, chính xác thì có thể dẫn đến sai lệch hoặc khó khăn
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Mỗi giai đoạn có một trình tự, thủ tục các hành vi tố tụng riêng do bản
chất pháp lý, nội dung các nhiệm vụ cần giải quyết và những đòi hỏi cụ thể

của các nguyên tắc tố tụng chung được thể hiện trong giai đoạn đó quyết định.
Nhiệm vụ trong khởi tố vụ án chỉ là xác định dấu hiệu nào đó của tội phạm
nên các cơ quan tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm tiếp nhận thơng tin về
tội phạm, kiểm tra, xác minh sơ bộ, ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố

13


vụ án hình sự. Trong giai đoạn điều tra, các hoạt động điều tra rất phức tạp đi
kèm là những thủ tục tố tụng riêng biệt theo luật định, ví dụ như hoạt động
khởi tố bị can, hỏi cung bị can, lấy lời khai, đối chất, nhận dạng, khám xét,
khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, trưng cầu giám định... Trong
giai đoạn truy tố, với trách nhiệm thực hành quyền công tố, Viện kiểm sát sau
khi tiếp nhận hồ sơ về vụ án của Cơ quan điều tra, trong thời hạn khơng q
20 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và nghiêm trọng, 30 ngày đối với
phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, Viện kiểm sát phải ra quyết
định truy tố bị can, hoặc trả lại hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung hoặc quyết định
đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Theo quy định của Luật tố tụng hình sự,
thực hiện chế độ 2 cấp xét xử, bản án và quyết định của Tịa án có thể bị
kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.
1.1.4. Phân biệt khởi tố vụ án hình sự với khởi tố bị can
Nếu như khởi tố vụ án hình sự là việc cơ quan tiến hành tố tụng có
thẩm quyền, sau khi xác định sự việc xảy ra có dấu hiệu tội phạm (sự việc, sự
kiện phạm tội được gây nên bởi con người) ra quyết định khởi tố vụ án hình
sự để tiến hành điều tra với sự việc phạm tội, thì khởi tố bị can là việc Cơ
quan điều tra, Viện Kiểm sát ra quyết định khởi tố hình sự một người khi có
căn cứ cho rằng họ đã thực hiện hành vi phạm tội để tiến hành các biện pháp
điều tra với con người này. Như vậy, giữa khởi tố vụ án hình sự và khởi tố bị
can có những điểm giống nhau và khác nhau cần thiết phải được phân biệt.
Điểm giống nhau cơ bản giữa khởi tố vụ án hình sự và khởi tố bị can

là việc cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố về hình sự để tiến
hành các biện pháp điều tra theo luật định. Quy trình và thủ tục áp dụng các
biện pháp điều tra đều giống nhau. Những gì thu được sau khi tiến hành các
biện pháp điều tra đều trở thành chứng cứ, chứng minh tội phạm và người
phạm tội là bị can.

14


Tuy nhiên, khởi tố vụ án hình sự và khởi tố bị can có những điểm khác
nhau cơ bản sau đây:
Khởi tố vụ án hình sự là khởi tố đối với một sự việc, sự kiện phạm tội.
Còn khởi tố bị can là khởi tố về hình sự đối với một con người cụ thể. Do
vậy, căn cứ để ra các quyết định này có khác nhau. Căn cứ để ra quyết định
khởi tố vụ án hình sự là khi xác định có dấu hiệu tội phạm; căn cứ để ra quyết
định khởi tố bị can là khi có đủ căn cứ để xác định một người đã thực hiện
hành vi phạm tội (dựa vào các yếu tố cấu thành tội phạm cụ thể).
Xét về mặt thời gian, quyết định khởi tố vụ án hình sự phải có trước
quyết định khởi tố bị can. Không bao giờ quyết định khởi tố bị can có trước
quyết định khởi tố vụ án hình sự. Tuy nhiên, trong thực tế giải quyết vụ án
hình sự, cơ quan có thẩm quyền có thể ra hai quyết định cùng một thời gian
ngay khi việc xác định được dấu hiệu tội phạm thì cũng đồng thời xác định
được ngay người thực hiện hành vi phạm tội. Ví dụ, trong các vụ án liên quan
đến tội nhận hối lộ, đưa hối lội, môi giới hối lộ. Trong các vụ án này thường
xác định được ngay dấu hiệu tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội.
Khởi tố vụ án hình sự có thể được thực hiện bởi các cơ quan tiến hành
tố tụng nhằm nhanh chóng triển khai ngay các biện pháp điều tra. Còn khởi tố
bị can chỉ có thể được thực hiện bởi Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và chỉ
một số cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như
Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm đối với trường hợp tội phạm ít

nghiêm trọng, phạm tội quả tang, chứng cứ rõ ràng. Các cơ quan khác được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra không được ra quyết định
khởi tố bị can.
Trong quyết định khởi tố vụ án hình sự được ghi rõ tội danh khởi tố về
tội gì, điều khoản nào của Bộ luật hình sự. Nhưng trong quyết định khởi tố bị
can phải được ghi rõ đặc điểm nhân thân của bị can, bị can bị khởi tố về tội

15


gì, theo điều, khoản nào của Bộ luật hình sự. Trong trường hợp một người
phạm nhiều tội khác nhau thì quyết định khởi tố bị can phải ghi rõ từng tội
danh mà họ đã phạm. Cơ quan ra quyết định khởi tố bị can phải giao quyết
định khởi tố của mình hoặc quyết định khởi tố bị can của Viện Kiểm sát và
giải thích quyền, nghĩa vụ cho bị can. Trong quá trình điều tra, khi thấy tội
danh ghi trong quyết định khởi tố không phù hợp hoặc chưa đầy đủ thì cơ
quan điều tra có thể thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can.
Như vậy, khởi tố vụ án hình sự và khởi tố bị can đều là phản ứng của
cơ quan có thẩm quyền đối với tội phạm và hành vi phạm tội, cụ thể là ra
quyết định khởi tố vụ án hoặc không khởi tố vụ án và quyết định khởi tố bị
can. Việc phân biệt khởi tố vụ án hình sự và khởi tố bị can có ý nghĩa rất quan
trọng bởi quyết định khởi tố vụ án và quyết định khởi tố bị can sau khi có
hiệu lực đều ảnh hưởng đến quyền con con người, quyền, lợi ích hợp pháp
của cơng dân, do đó khi áp dụng các biện pháp tố tụng này đòi hỏi phải xuất
phát từ yêu cầu bảo vệ trật tự xã hội, bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân
và bảo vệ lợi ích nhà nước.
1.2. Q trình phát triển của luật tố tụng hình sự về khởi tố vụ án
hình sự
1.2.1. Giai đoạn từ 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình
sự năm 1988

Cách mạng tháng 8 năm 1945 đã mở ra thời kỳ mới cho đất nước Việt
Nam, xố bỏ hồn tồn chế độ nửa thuộc địa phong kiến, lập nên Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà, nhà nước của Nhân dân lao động do Đảng lãnh
đạo. Cùng với việc củng cố, bảo vệ chính quyền non trẻ, Đảng và Nhà nước ta
đã quan tâm đặc biệt đến việc xây dựng và áp dụng pháp luật để bảo vệ tổ
quốc. Luật tố tụng Việt Nam ra đời cùng với Nhà nước kiểu mới, Nhà nước
của dân, do dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam và theo nhiều

16


chuyên gia cho rằng trong số các điều luật hiện có của nước ta hiện nay, luật
tố tụng hình sự là một trong những ngành luật ra đời sớm nhất và phát triển
nhất. Thời kỳ đầu Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, do chưa thể ngay
một lúc ban hành đầy đủ các văn bản điều chỉnh nhiều lĩnh vực trong đời sống
xã hội nên theo quy định tại Sắc lệnh ngày 10/10/1945 thì các cơ quan nhà
nước được tạm thời cho áp dụng luật lệ của chế độ cũ, nhưng phải tuân theo
nguyên tắc "không trái với nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
và dựa vào ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa" [14, tr.41]. Sau đó là một loạt
các văn bản pháp luật về tố tụng hình sự đã được ban hành như: Sắc lệnh số
13 ngày 24/1/1946 quy định về thành lập các tồ án, có chức năng xét xử các
vụ án hình sự thường và các tranh chấp dân sự; Sắc lệnh số 21 ngày 14/2/
1946 về thành lập Tòa án qn sự, theo đó Tịa án qn sự có chức năng xét
xử tất cả những người nào phạm tội gì có phương hại tới nền độc lập của Việt
Nam dân chủ cộng hòa; Sắc lệnh 23 ngày 21/2/1946 về thành lập tổ chức Việt
Nam công an vụ; Sắc lệnh 163 ngày 26/3/1946 về tổ chức các tòa án binh lâm
thời; Sắc lệnh số 40 ngày 29/3/1946 quy định về quyền tự do thân thể; Sắc
lệnh 51 ngày 17/4/1946 quy định về nhiệm vụ của Dự thẩm, Biện lý, Chánh
án và một số thủ tục tố tụng; Sắc lệnh số 131 ngày 20/7/1946 quy định quyền
hạn và nhiệm vụ của Công an tư pháp…

Trên cơ sở Hiến pháp năm 1959, các Luật tổ chức Tòa án, Luật tổ chức
Viện kiểm sát năm 1960 là cơ sở pháp lý để xây dựng và hoạt động của các
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tịa án trong q trình giải quyết vụ án hình
sự. Mặc dù chưa có Bộ luật tố tụng hình sự nhưng căn cứ vào Luật tổ chức
Tịa án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát Nhân dân, Toà án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ cơng an đã có nhiều thơng tư hướng
dẫn về thủ tục tố tụng hình sự. Ở miền Nam, trong vùng tạm bị chiếm, chính
quyền Ngụy quyền Sài Gòn đã ban hành nhiều văn bản về tố tụng hình sự và

17


đặc biệt Bộ luật tố tụng hình sự ban hành ngày 20/12/1974 theo Sắc luật 027TT/SLU của Tổng thống Việt Nam cộng hịa, quy định trình tự thủ tục giải
quyết vụ án hình sự nhằm đàn áp phong trào cách mạng của Nhân dân ta. Sau
ngày 30/4/1975, Chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt
Nam đã ban hành Sắc luật 01-SL-76 ngày 15/3/1976 quy định về Tổ chức Tòa
án nhân dân và một số thủ tục giải quyết vụ án hình sự. Nhìn chung hệ thống
văn bản pháp luật tố tụng của nước ta giai đoạn trước 1988, các văn bản có
tính pháp lý cao như luật, pháp lệnh mới chỉ quy định các vấn đề về tổ chức,
hoạt động của bộ máy của các cơ quan tiến hành tố tụng mà không đề cập đến
các quy định về trình tự, thủ tục khởi tố vụ án hình sự mà lại được điều chỉnh
chủ yếu bởi các văn bản dưới luật. Chính điều này đã khiến việc áp dụng pháp
luật trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự khơng
có sự thống nhất, đồng bộ, dẫn đến những sai lầm lớn như bỏ lọt tội phạm,
làm oan người vô tội, xâm phạm các quyền, lợi ích của cơng dân…
Năm 1980, Quốc hội đã thơng qua Hiến pháp nước Cộng hịa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam; ngày 3/7/1981, Quốc hội đã thơng qua Luật tổ chức Tịa
án nhân dân và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Ngày 28/6/1988, Quốc
hội thơng qua Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên của nước ta, có hiệu lực ngày
1/1/1989. Tại Lời nói đầu của Bộ luật đã khẳng định:

Kế thừa và phát triển pháp luật tố tụng hình sự của Nhà nước
ta từ Cách mạng tháng tám đến nay, với tinh thần đổi mới trên mọi
mặt của đời sống xã hội, Bộ luật quy định rõ chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của các tổ chức xã hội và công dân trong việc tham gia
tố tụng, đề cao vai trò của các tổ chức xã hội và công dân trong việc
tham gia tố tụng, kết hợp sức mạnh pháp chế Xã hội chủ nghĩa với
sức mạnh của quần chúng nhân dân trong đấu tranh chống và phòng
ngừa tội phạm.

18


Các quy định về thủ tục, trình tự trong giải quyết vụ án hình sự trước
đây được quy định rải rác trong các văn bản dưới luật đã được pháp điển hóa
thành những quy định cụ thể trong Bộ luật tố tụng hình sự, tạo sự thống nhất,
thuận lợi trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Bộ luật ra đời đáp ứng được yêu
cầu đấu tranh chống tội phạm, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án khách quan,
chính xác, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân, thực hiện pháp
chế Xã hội chủ nghĩa.
1.2.2. Giai đoạn từ 1988 đến nay
Từ năm 1989 đến trước năm 1999, trong quá trình thi hành, Bộ luật tố
tụng hình sự năm 1988 đã được sửa đổi 02 lần (lần thứ nhất tại kỳ họp thứ
bảy Quốc hội khóa VIII, lần thứ hai tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa IX) để
phù hợp với Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992 và phù hợp với thực tiễn đấu tranh
chống tội phạm. Với sự ra đời của Bộ luật hình sự năm 1999 (có hiệu lực
ngày 1/1/2000), nhiều quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành liên
quan khơng cịn phù hợp nữa. Do vậy, ngày 9/6/2000, Quốc hội lại thông qua
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng hình sự (lần thứ ba)
nhằm thi hành Bộ luật hình sự năm 1999 cũng như phù hợp với tiến trình dân

chủ và đổi mới của đất nước.
Qua gần 15 năm thi hành và 3 lần sửa đổi, bổ sung, Bộ luật tố tụng hình
sự năm 1988 đã là một trong những căn cứ pháp lý giúp cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát và Tòa án tiến hành các hoạt động của mình một cách khách quan,
tồn diện, đầy đủ, góp phần phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý cơng
minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan
người vô tội. Tuy nhiên, trong cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước trên tất cả
các lĩnh vực, trong đó cải cách tư pháp, Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988
khơng cịn phù hợp nữa và đã bộc lộ một số hạn chế nhất định. Nghị quyết 08-

19


×