Tải bản đầy đủ (.pdf) (136 trang)

(Luận văn thạc sĩ) không gian văn hóa làng vạn phúc luận văn ths khu vực học 60 31 60

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 136 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
VIỆN VIỆT NAM HỌC VÀ KHOA HỌC PHÁT TRIỂN
-------------------------

BÙI THỊ HƯƠNG

KHƠNG GIAN VĂN HĨA
LÀNG VẠN PHC

LUN VN THC S
Chuyên ngành: Việt Nam học

Hà Nội - 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
1


VIỆN VIỆT NAM HỌC VÀ KHOA HỌC PHÁT TRIỂN
-----------------------------------------------------

BÙI THỊ HƯƠNG

KHƠNG GIAN VĂN HĨA
LÀNG VẠN PHÚC

Luận văn Thạc sĩ chun ngành: Việt Nam học
Mã số: 60 31 60

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lâm Thị Mỹ Dung

Hà Nội-2012



2


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

3

CHƯƠNG 1. Q TRÌNH HÌNH THÀNH KHƠNG GIAN VĂN HĨA LÀNG VẠN
PHÚC

13

1.1. Một số vấn đề về khơng gian văn hóa làng: Khái niệm, nội dung và tiêu chí
xác định 10

13

1.2. Yếu tố địa lý, sinh thái tự nhiên và sinh thái nhân văn cấu thành không gian văn
hóa làng Vạn Phúc

13

1.3 Điều kiện lịch sử

18

1.4 Điều kiện xã hội


21

CHƯƠNG 2: KHƠNG GIAN VĂN HĨA LÀNG VẠN PHÚC
NHỮNG ĐẶC TRƯNG CHÍNH

28

2.1 Khía cạnh vật thể của khơng gian văn hóa

28

2.1.1 Tổ chức khơng gian sống

28

2.2 Khía cạnh phi vật thể của khơng gian văn hóa

66

2.2.1 Phong tục tập quán

66

2.2.2. Lễ thức cá nhân

67

2.2.3 Lễ thức cộng đồng

73


CHƯƠNG 3: KHƠNG GIAN VĂN HĨA LÀNG VẠN PHÚC: BIẾN ĐỔI, PHÁT
TRIỂN VÀ PHƯƠNG HƯỚNG BẢO TỒN GIÁ TRỊ

82

3.1 Xu hướng biến đổi: Theo hai hướng tích cực và tiêu cực

82

3.1. 2. Biến đổi văn hóa

91

3.2 Phương hướng bảo tồn giá trị

105

KẾT LUẬN

115

Tài liệu tham khảo

118

PHỤ LỤC

123



Ảnh chụp 1. Sơ đồ Vạn Phúc trước năm 1945

Ảnh 2. Sơ đồ Vạn Phúc hiện nay qua ảnh vệ tinh
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Vạn Phúc ở phía Tây Bắc thị xã Hà Đông, trước đây là tỉnh lỵ Hà
Đông, nay là nội thành Hà Nội. Vạn Phúc có nghề dệt lụa cổ truyền nổi tiếng
và có truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường. Cảnh vật, con người và
truyền thống văn hóa nơi đây đã thu hút và thơi thúc tơi tìm hiểu về làng.
Làng Vạn Phúc đã có nhiều người nghiên cứu từ góc độ kinh tế, văn
hóa, xã hội. Tuy nhiên chưa có nhiều những nghiên cứu về khơng gian văn
hóa làng.
Vạn Phúc là một làng đặc biệt trong nghĩa vị thế địa lý văn hóa – làng
ven đơ, làng nằm ở vùng tiếp giáp giữa khơng gian văn hóa xứ Đồi và khơng
gian văn hóa Thăng Long – Hà Nội.

3


Về kinh tế, Vạn Phúc cũng là dạng làng đặc biệt – làng nghề thủ công
thăng trầm cùng đất nước.
Nền kinh tế cơng nghệp hóa – hiện đại hóa và q trình đơ thị hóa đã
khiến cho khơng gian văn hóa làng Vạn Phúc biến đổi nhanh chóng, nhiều
yếu tố vật thể và phi vật thể bị mai một đi trước khi chúng ta kịp ghi nhận và
nghiên cứu.
Trước sự chuyển mình của nền kinh tế xã hội, việc nghiên cứu, tìm hiểu
về khơng gian văn hóa làng Vạn Phúc là một yêu cầu cấp thiết vừa đáp ứng cả
về khoa học, cả về thực tế.
2. Ý nghĩa khoa học và tính thực tiễn

- Việc bảo tồn, tơn tạo và phát huy giá trị văn hóa làng như một
khơng gian hồn chỉnh địi hỏi phải có sự nghiên cứu tồn diện. Nghiên cứu
khơng gian văn hóa làng sẽ góp phần tìm hiểu những đặc trưng văn hóa của
làng, hiện diện lên bức tranh văn hóa của làng là một nhu cầu thiết yếu.
- Việc nghiên cứu làng ngày càng nhiều, cộng với nhu cầu thăm quan,
du lịch, mua sắm sản phẩm lụa ngày càng tăng. Vấn đề đặt ra là làm thế nào
để có những giải pháp phát triển bền vững cho địa phương; đây là một đòi hỏi
cần giải quyết.
- Ngày nay trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và đơ thị
hóa đang diễn ra mạnh mẽ. Những yếu tố truyền thống đang bị tác động và
mai một từng ngày. Việc nghiên cứu về làng Vạn Phúc địi hỏi phải khẩn
trương. Đây là tính khoa học và thực tiễn của đề tài.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
* Về khơng gian văn hóa nói chung:
Nghiên cứu vùng văn hóa là một hướng nghiên cứu vừa truyền thống,
vừa hiện đại.

4


GS. Ngơ Đức Thịnh trong cơng trình nghiên cứu “Văn hóa vùng và
phân vùng văn hóa ở Việt Nam”, gồm những bài nghiên cứu về: những nét
lớn của khuynh hướng nghiên cứu khơng gian văn hóa; phác thảo về phân
vùng văn hóa ở Việt Nam và trình bày một số vùng văn hóa tiêu biểu ở nước
ta; cuối cùng là thơng qua một số hiện tượng văn hóa riêng lẻ coi đó như là sự
bổ sung, cụ thể hóa tính vùng, tính địa phương trong văn hóa Việt Nam.
Giáo sư Trần Quốc Vượng có cơng trình nghiên cứu về “Việt Nam cái
nhìn địa văn hóa”, gồm những bài viết về văn hóa các vùng miền: Cao Bằng,
Vĩnh Phú, Sơn Tây, Xứ Bắc – Kinh Bắc, Hà Nội, Hải Hưng, Xứ Thanh…trải
dài đến đất Cà Mau, địa cuối của Tổ Quốc.

Văn hóa xứ Quảng Nam cũng được GS Trần Quốc Vượng cùng đồng
nghiệp nghiên cứu đặc trưng ở văn hóa cư trú, văn hóa thương cảng, văn hóa
tiêu dùng ở các di tích, văn hóa ẩm thực. Giá trị đặc trưng của vùng văn hóa
Quảng Nam được lắng đọng trong lễ hội, phong tục tập quán, tâm lý truyền
thống, được kết tinh từ lao động sáng tạo, lối suy nghĩ, lối sống, lối ứng xử
của các dân tộc sống trên mảnh đất này.
Giáo sư Nguyễn Quang Ngọc trong cơng trình nghiên cứu “Một số vấn
đề làng xã Việt Nam” đã nghiên cứu các vấn đề về làng xã Việt Nam, đặc biệt
tác giả nghiên cứu làng Đan Loan từ khi hình thành, phát triển, biến đổi, xưa
và nay trải dài theo thời gian dưới các góc độ lịch sử, kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội.
“Những sinh hoạt văn hóa dân gian của một làng ven đô” (làng Đăm)
của Lê Hồng Lý – Phạm Thị Thủy Chung cho thấy một cái nhìn sâu sắc và
tổng thể về làng Đăm: hội làng, di tích lịch sử văn hóa, sinh hoạt văn hóa dân
gian, kinh tế và sự phát triển kinh tế, văn hóa trong thời kỳ đơ thị hóa.
Nghiên cứu về “khơng gian văn hóa làng Keo – Thái Bình” tác giả Trần
Thị Lệ Thủy trong khóa luận tốt nghiệp khoa Sử của mình đã nghiên cứu lịch

5


sử hình thành và phát triển làng Keo và nghiên cứu khơng gian văn hóa làng
dưới các góc độ đời sống kinh tế xã hội và sinh hoạt văn hóa.
PGS Nguyễn Hải Kế với cơng trình “Một làng Việt cổ truyền ở Đồng
Bằng Bắc Bộ” đã tiếp cận nghiên cứu làng Dục Tú, Hà Nội bằng phương
pháp định lượng và phương pháp so sánh hệ thống trong một khung thời gian
nhất định đã phát hiện ra nhiều vấn đề về sở hữu ruộng đất, kết cấu kinh tế, tổ
chức dân cư, về văn hóa tín ngưỡng…
Qua nghiên cứu những tác phẩm trên, chúng tôi đã kế thừa phương
pháp nghiên cứu văn hóa của một làng, một vùng, một xứ thơng qua các đặc

trưng văn hóa và nghiên cứu văn hóa dưới cái nhìn địa – lịch sử.
* Về khơng gian văn hóa làng Vạn Phúc:
Các cơng trình nghiên cứu về làng Vạn Phúc dưới các khía cạnh:
Nghiên cứu về lịch sử đấu tranh cách mạng của làng Vạn Phúc: Hai
cuốn “Lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Vạn Phúc” (tập
1 và 2), ghi lại lịch sử đấu tranh cách mạng của địa phương trong giai đoạn
1939 – 1954. Báo Hà Sơn Bình ngày 20-6-1987 có bài viết “Vạn Phúc an toàn
khu của cơ quan báo Đảng” viết về Vạn Phúc – cơ sở cách mạng, an toàn khu
của báo Đảng trong thời kỳ kháng chiến. Bài viết của các tác giả Anh Đức,
Minh Tâm: “Vạn Phúc – ATK – làng du lịch” giới thiệu làng Vạn Phúc trong
những ngày kháng chiến chống Pháp và những tiềm năng của làng lụa để phát
triển du lịch. Bài viết của tác giả Nguyễn Kiên in trên báo Sài Gịn giải phóng
ngày 2/9/1985: “Những ngày thu cách mạng ở làng dệt lụa Vạn Phúc” là
những hồi ức về không khí tổng khởi nghĩa mùa thu năm 1945 tại Vạn Phúc.
Ngồi ra địa phương cịn sưu tầm và xuất bản cuốn “Vạn Phúc xưa và
nay” năm 2001, sách là những bài viết, trang thơ, hồi ký, dịng bút tích…viết
về tổng thể các vấn đề của làng Vạn Phúc: chính trị, văn hóa, lịch sử đấu

6


tranh cách mạng của những nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu văn hóa, các
lãnh đạo cách mạng của Đảng và nhà nước ta.
Nghiên cứu Vạn Phúc dưới góc độ du lịch có những bài nghiên cứu:
Tác giả Quang Hào với bài viết: “Vạn Phúc làng nghề làng du lịch” in trong
báo Doanh nghiệp ngày 10-5-2000, giới thiệu về làng Vạn Phúc và các loại
lụa Vạn Phúc, bên cạnh đó tác giả đánh giá mấy năm gần đây, Vạn Phúc là
địa chỉ du lịch quen thuộc của nhiều du khách. Tác giả Nguyễn Kim Khánh có
bài viết: “Vạn Phúc làng nghề, làng văn hóa du lịch” in trong báo Lao động
xã hội ngày 28-10-2000, tác giả giới thiệu về làng dệt lụa tơ tằm Vạn Phúc

cùng các thế mạnh để làng nghề phát triển du lịch.
Viết về làng Vạn Phúc có rất nhiều các tác giả, tác phầm nhưng chỉ đi
sâu tìm hiểu về nghề dệt. Thời cận đại, làng Vạn Phúc được nhắc đến trong
các tác phẩm của Hoàng Trọng Phu như: “Những cơng nghệ gia đình ở Hà
Đơng”, viết về kỹ thuật dệt lụa ở Vạn Phúc và cuốn “Các nghề thủ công
truyền thống ở Hà Đông”, giới thiệu về các nghề thủ công ở Hà Đông – một
nguồn lợi kinh tế của Pháp, mặt khác rút ra những biện pháp cai trị có hiệu
quả của Pháp với các làng thủ công Việt Nam. Sau cách mạng tháng Tám có
cuốn: “Hà Tây làng nghề làng văn” do Sở văn hóa thơng tin Hà Tây xuất bản
năm 1992, giới thiệu về các làng nghề truyền thống: pháo Bình Đà, thêu Quất
Động, khảm trai Chuyên Mỹ, dệt lụa Vạn Phúc… Năm 2003, có cuốn luận
văn thạc sĩ Văn hóa học của tác giả Lê Hoài Linh viết về “Nghề dệt ở làng
Vạn Phúc thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Tây”. Năm 2004, tác giả Qch Vinh có
cuốn “Hành trình của lụa” giới thiệu sơ qua về lụa làng Vạn Phúc…Viết về
nghề dệt thì rất nhiều, nhưng để đi sâu nghiên cứu về làng Vạn Phúc dưới góc
độ văn hóa thì rất ít người quan tâm đến. Vì vậy, trong luận văn này, chúng
tôi kế thừa những nghiên cứu về làng Vạn Phúc và nghề dệt làm cơ sở đi sâu
nghiên cứu Khơng gian văn hóa làng Vạn Phúc để thấy được những nét văn
hóa đặc trưng truyền thống của làng nghề dệt nổi tiếng.

7


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: tập hợp những yếu tố địa lý, sinh thái nhân
văn, lịch sử, con người – tạo thành không gian văn hóa và những yếu tố tác
động tới biến đổi khơng gian văn hóa.
- Phạm vi nghiên cứu: Khơng gian văn hóa làng Vạn Phúc – q trình
hình thành và biến đổi. Luận văn nghiên cứu trong phạm vi làng Vạn Phúc
trước khi sát nhập thêm các khối dân cư: khối 6, khối 7, khối 8, khối 9 và khối

10, thuộc phường Yết Kiêu trước đây.
5. Mục đích nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
a. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu khơng gian văn hóa làng để thấy được những nét đặc
trưng văn hóa trên khơng gian sinh tồn mà từ bao đời nay, các thế hệ người
Vạn Phúc luôn sống kế tiếp nhau.
- Nghiên cứu những nét đặc trưng văn hóa truyền thống, yếu tố đổi
mới, biến đổi văn hóa của làng Vạn Phúc. Qua đó, có những giải pháp nhằm
bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp.
- Xác định được tổ hợp các yếu tố vật thể và phi vật thể tạo thành
không gian văn hóa làng Vạn Phúc. Ngồi ra, luận văn cịn cố gắng hoạch
định phạm vi vật thể và phi vật thể của khơng gian văn hóa làng Vạn Phúc.
b. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình tiến hành nghiên cứu bước đầu để thu thập tài liệu,
phương pháp sử dụng là phương pháp điền dã, phỏng vấn, điều tra xã hội học.
Để tiến hành nghiên cứu, phương pháp khu vực học được sử dụng –
một phương pháp nghiên cứu mới đang được sử dụng rộng rãi. Phương pháp
khu vực học được áp dụng đó là lấy khơng gian xã hội, văn hóa, bao gồm các
lĩnh vực hoạt động của con người và quan hệ tương tác giữa con người và
điều kiện tự nhiên làm đối tượng để nghiên cứu.
Luận án còn sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành, đa ngành.

8


Ngồi ra, các phương pháp chun ngành của văn hóa, lịch sử, xã hội,
địa lý…được sử dụng ở mức độ thích hợp.
6. Đóng góp
Luận văn bước đầu có được một bức tranh tương đối tồn diện về
khơng gian văn hóa làng Vạn Phúc: điều kiện tự nhiên, môi trường sinh thái,

kinh tế, văn hóa và lịch sử hình thành.
Xác định những yếu tố tác động đến sự hình thành, phát triển và biến
đổi khơng gian văn hóa làng Vạn Phúc, đồng thời đưa ra một số giải pháp để
đảm bảo tính bền vững của q trình phát triển làng nghề Vạn Phúc.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu; phần kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục luận văn
có bố cục gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Quá trình hình thành khơng gian văn hóa làng Vạn Phúc
Chương 2: Khơng gian văn hóa làng Vạn Phúc – những đặc trưng chính
Chương 3: Khơng gian văn hóa làng Vạn Phúc: biến đổi, phát triển và
phương hướng bảo tồn giá trị.

9


CHƯƠNG 1. Q TRÌNH HÌNH THÀNH KHƠNG GIAN VĂN HĨA
LÀNG VẠN PHÚC
1.1. Một số vấn đề về không gian văn hóa làng: Khái niệm, nội
dung và tiêu chí xác định
a) Khái niệm văn hóa: Khái niệm văn hóa vẫn là vấn đề mà các học
giả trên thế giới luôn bàn cãi. Tùy theo góc độ tiếp cận sẽ có những định
nghĩa khác nhau về văn hóa.
- Từ góc độ lịch sử: văn hóa được hiểu là sự trao truyền, kế thừa văn
hóa giữa các thế hệ.
- Từ góc độ giá trị chuẩn mực: văn hóa chính là lối sống, là giá trị của
một cộng đồng người.
- Từ góc độ nhân học: Văn hóa là sản phẩm hoạt động tinh thần của con
người, phân biệt người với động vật…
Văn hóa theo định nghĩa của GS. Viện Sĩ Trần Ngọc Thêm: “Văn hóa
là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo

và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác của con
người với môi trường tự nhiên và xã hội”.
Xung quanh khái niệm văn hóa cịn có khái niệm văn hóa vật thể và
văn hóa phi vật thể hay cịn gọi là văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Theo
sách Culturologia1 của G.V. Drach thì văn hóa tinh thần “thuộc về văn hóa
tinh thần có hệ tư tưởng, khoa học, đạo đức, giao tiếp tinh thần, sáng tạo
nghệ thuật và tôn giáo”[tr 124 - 125] và “văn hóa tinh thần là hoạt động
hướng đến sự phát triển tinh thần của con người và xã hội, sáng tạo tư tưởng,
tri thức, các giá trị tinh thần – các kiểu ý thức xã hội” [tr 180]. Văn hóa vật
chất, ông cũng cho rằng: “Công cụ lao động, phương tiện sản xuất, quần áo,
đời sống, nhà ở, phương tiện giao thơng – tất cả những gì được gọi là phương
1

G.V. Drach, 2003, Văn hóa học, tr 120 - 124

10


tiện nhân tạo để cư trú của con người và là quá trình và kết quả của hoạt động
vật chất của con người”[tr 120].
Như vậy, văn hóa vật thể là một bộ phận của văn hóa thể hiện đời sống
tinh thần của con người dưới hình thức vật chất, là kết quả của hoạt động sáng
tạo, biến những vật chất trong tự nhiên thành những đồ vật có giá trị sử dụng.
Văn hóa phi vật thể là một dạng tồn tại của văn hóa dưới dạng vật thể có hình
khối tồn tại trong khơng gian và thời gian, mà nó thường tiềm ẩn trong trí
nhớ, hành vi ứng xử của con người. Thông qua các hoạt động sống của con
người trong sản xuất, lao động và giao tiếp…mà nó thể hiện ra, khiến con
người nhận biết được sự tồn tại của nó.
b) Khái niệm khơng gian văn hóa:
Khơng gian văn hóa là một khái niệm bao gồm một phạm vi trong đó

có những tương đồng về hồn cảnh tự nhiên, dân cư sinh sống với những mối
quan hệ về nguồn gốc lịch sử, những tương đồng về trình độ phát triển kinh tế
hình thành nên những đặc trưng văn hóa chung thể hiện cả ở lĩnh vực văn hóa
đảm bảo đời sống, văn hóa tâm linh cũng như các loại hình thuộc văn hóa quy
phạm. Khơng gian văn hóa khơng đơn thuần là một lãnh thổ địa dư nhất định,
nó là một môi trường thống nhất, rộng lớn do con người sống trong không
gian ấy sáng tạo nên.
Về khái niệm khơng gian văn hóa, theo GS.TS Ngơ Đức Thịnh thì có
thể hiểu khơng gian văn hóa theo hai ý nghĩa, cụ thể và trừu tượng.
Theo ý nghĩa cụ thể, “coi văn hóa như là một khơng gian địa lý xác
định, mà ở đó mỗi hiện tượng hay một tổ hợp hiện tượng văn hóa nảy sinh,
tồn tại, biến đổi và chúng liên kết với nhau như một hệ thống. Trong đời sống
xã hội của con người, ít khi một hiện tượng văn hóa nảy sinh, tồn tại và biến
đổi một cách độc lập, mà chúng thường liên kết với nhau thành những tổ hợp.
Với ý nghĩa ấy, văn hóa tín ngưỡng tơn giáo, văn hóa vùng, văn hóa làng, văn

11


hóa nghề nghiệp, văn hóa đơ thị, văn hóa nơng thơn…đều là những dạng
khác nhau của tổ hợp văn hóa”.2
Theo ý nghĩa trừu tượng, có thể hiểu khơng gian văn hóa như một
“trường”, để chỉ một hiện tượng hay một tổ hợp các hiện tượng (một nền văn
hóa của tộc người, quốc gia hay khu vực) có khả năng tiếp nhận và lan tỏa
(ảnh hưởng), tạo cho nền văn hóa đó một khơng gian (trường) văn hóa rộng
hẹp khác nhau.
Để xác định khơng gian văn hóa của một làng, một địa phương, một
vùng cụ thể, ta phải xét các yếu tố đặc trưng liên quan. Đó là các yếu tố:
- Tính trội văn hóa: Dân gian Việt Nam ln có cảm nhận về tính
trội trong tính cách con người, trong các sản vật thiên nhiên, trong nếp sống

văn hóa giữa làng này với làng kia, vùng kia tạo nên những đặc trưng văn hóa
riêng của một địa phương đó.3
- Về tên gọi “xứ”: là một vùng đất có những tương đồng nhất định
phương diện phong thổ, khí hậu, dân cư và sinh hoạt văn hóa4. Mỗi xứ có
những nét văn hóa tiêu biểu.
- Vùng văn hóa: là một vùng lãnh thổ có những tương đồng về mặt
hồn cảnh tự nhiên, dân cư sinh sống ở đó từ lâu đã có những mối quan hệ
nguồn gốc và lịch sử, có những tương đồng về trình độ phát triển kinh tế - xã
hội, giữa họ đã diễn ra những giao lưu, ảnh hưởng văn hóa qua lại, nên trong
vùng đã hình thành những đặc trưng chung, thể hiện trong văn hóa vật chất và
văn hóa tinh thần của cư dân, có thể phân biệt với vùng văn hóa khác.5
2

Ngơ Đức Thịnh (2005), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nhà xuất bản
Trẻ, Tr 6
3
Ngô Đức Thịnh (2005), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nhà xuất bản
Trẻ, Tr 46
4
Ngơ Đức Thịnh (2005), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nhà xuất bản
Trẻ, Tr 49
5
Ngơ Đức Thịnh (2005), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nhà xuất bản
Trẻ, Tr 10.

12


c) Khái niệm văn hóa làng:
Về phương diện hành chính, xã là thiết chế có tính chất pháp lý. Cịn

đối với người dân, người nơng dân bình thường của hàng bao thế kỷ, thì
người ta chỉ biết có làng. Tập tục làng, truyền thống làng là chất keo đặc thù
gắn kết mọi thế hệ thành viên của làng.
Làng người Việt có nội hàm phong phú, đa dạng, tồn diện trên các
lĩnh vực: văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị, quân sự, nghệ thuật kiến trúc, lịch
sử, khảo cổ, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán, nghi thức, lễ hội…
Tính chất khoa học của khái niệm văn hóa làng thể hiện ở chổ, dù phân
loại theo kiểu nào người ta cũng khó có thể đồng nhất phong tục, tập quán, tín
ngưỡng, tâm lý, lối sống, phương thức hoạt động và ứng xử .... của cộng đồng
làng với các cộng đồng văn hóa khác, kể cả những cộng đồng đặc biệt gần gũi
như xã, hoặc các cộng đồng theo đơn vị hành chính, xã hội hoặc tơn giáo.
Vậy văn hóa làng đã hiện ra như là những khuôn thước ứng xử nằm ở
tầng sâu trong đời sống cộng đồng; như là hệ thống các giá trị đặc thù qui
định và ngầm điều khiển các quan hệ cộng đồng; như là sự tổng hợp của
những kinh nghiệm sống hình thành qua lịch sử của các cộng đồng.
Làng, có thể nói là cộng đồng văn hóa rất riêng, nhưng cũng rất chung
trong khn khổ của lề thói theo phương thức sản xuất châu Á. Cái riêng của
từng làng thì thể hiện tương đối rõ ở từng tập tục riêng, lễ hội riêng, cách thức
ứng xử riêng. Nhưng từng cái riêng ấy lại đều có một "mẫu số chung" làm
nên khn thước văn hóa làng.
1.2. Yếu tố địa lý, sinh thái tự nhiên và sinh thái nhân văn cấu
thành khơng gian văn hóa làng Vạn Phúc
Vạn Phúc có vị trí địa lý thuận lợi cho việc giao lưu thương mại, phát
triển kinh tế khi nằm tiếp giáp với quốc lộ 6 - cửa ngõ trực tiếp nối quận Hà
Đông với thủ đô Hà Nội và có tuyến đường tỉnh ĐT 430 (TL 72 cũ) chạy qua.

13


Với vị trí thuận lợi như vậy, Vạn Phúc có nhiều điều kiện thuận lợi để phát

triển ngành thủ công truyền thống.
Về đặc điểm địa hình, Vạn Phúc nằm ở trung tâm của đồng bằng Bắc
Bộ nên địa hình ở đây mang đặc điểm của địa hình vùng đồng bằng: địa hình
tương đối bằng phẳng, thấp dần từ Đơng sang Tây và từ Bắc xuống Nam. Địa
hình của làng được chia thành hai vùng: Vùng cao gồm các khu dân cư và các
cánh đồng Mân, Sen, Bồ Các, Tháp I, Tháp II và Dộc Chuôm. Vùng thấp gồm
cánh đồng Bún và cánh đồng Bồ nằm ở phía Tây Nam của làng.
Về thủy văn, làng giáp sông Nhuệ và sông đào La Khê nên việc tưới
nước cho đồng ruộng do hai con sơng này cung cấp. Sơng ngịi là đường giao
thơng quan trọng để Vạn Phúc luân chuyển hàng hóa, phát triển nghề dệt cổ
truyền. Làng nằm bên bờ sông Nhuệ do đó chịu ảnh hưởng trực tiếp từ chế độ
thủy văn của dịng sơng này.
Bảng 1.1: Mực nước lớn nhất trên sông Nhuệ (qua Hà Đông)
Năm
Mực nước sông Nhuệ qua

1978

1983

1984

1985

1994

5,40

5,37


5,77

5,60

5,79

Hà Đông lớn nhất (m)
Nguồn: Quy hoạch thủy lợi tỉnh Hà Tây, tháng 12-2006, Thư viện Hà Tây
Về khí hậu làng mang sắc thái của kiểu khí hậu Bắc Bộ với đặc điểm là
khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm, có mùa hè nóng, mưa nhiều và mùa đơng lạnh,
mưa ít. Nhưng nhìn chung khí hậu ở đây ơn hịa hơn các địa phương khác, rất
thuận lợi với điều kiện sống của con người. Nét đặc trưng của kiểu khí hậu
nhiệt đới là có lượng bức xạ mặt trời dồi dào quanh năm và có nền nhiệt độ
cao, thuận lợi cho việc phát triển các ngành kinh tế.
Ta có bảng số liệu nhiệt độ, khơng khí và độ ẩm tương đối của một số
vùng:
14


Bảng 1.2: Nhiệt độ khơng khí và độ ẩm tương đối
THÁNG TRUNG
TRẠM

CHỈ TIÊU

BÌNH
1

Sơn Tây


Ba Vì

Vạn Phúc

Hà Nội

Nhiệt độ (0C)

2

15,9 17,1

3

4

5

6

7

20,1

23,7

27,1 28,6

28,8


8

9

10

11

12

28,2 27,1

21,6

21,1

17,6

23,1

NĂM

Độ ẩm (%)

83

85,0

87,0


87,0

84,0 83,0

83,0

85,0 83,0

83,0

81,0

81,0

83,8

Nhiệt độ (0C)

14,5

17,1

19,9

23,6

27,0 28,6

28,6


28,0 26,9

26,9

20,6

17,6

22,9

Độ ẩm (%)

84,0

85,0

86,0

86,0

83,0 81,0

82,0

85,0 84,0

82,0

80,0


80,0

83,2

Nhiệt độ (0C)

15,7

16,2

19,8

23,5

26,8 28,5

29,1

28,3 27,0 24,4

20,7

17,4

23,1

Độ ẩm (%)

85,0


85,0

88,0

89,0

86,0 84,0

82,0

86,0 85,0

84,0

81,0

80,8

84,6

Nhiệt độ (0C)

16,4

17,0

20,2

23,7


27,3 28,8

28,9

28,2 27,2

24,6

21,4

18,2

23,5

Độ ẩm (%)

83,0

85,0

87,0

87,0

84,0 84,0

84,0

86,0 83,0


82,0

81,0

81,0

83,8

Nguồn: Tổng cục khí tượng thủy văn

15


Nhìn vào bảng ta thấy lượng mưa phân bố khơng đồng đều theo thời
gian và không gian. Do ảnh hưởng của chế độ gió mùa nên khí hậu làng cũng
giống như khí hậu của các làng khác thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ là có sự
kế tiếp nhau của hai mùa có đặc tính khác nhau rõ rệt là mùa hè và mùa đơng.
Về diện tích và dân số: Trước năm 1945: diện tích của làng Vạn Phúc
là 124,0 ha, trong đó diện tích đất ở: 18,5 ha; đất trồng trọt: 10,55 ha. Dân số
của Vạn Phúc: có 678 hộ và 3.000 nhân khẩu. Năm 2011: diện tích của làng là
143,97 ha, trong đó đất ở là 50,05 ha; đất nông nghiệp là 20,05 ha. Dân số
Vạn Phúc là 13.595 nhân khẩu, 3.209 hộ được chia thành 12 tổ dân phố. Như
vậy, Vạn Phúc là một phường đất chật người đơng, đây là kết quả tất yếu của
q trình đơ thị hóa.
Năm 2004 có sự điều chỉnh và mở rộng ranh giới của phường Vạn
Phúc (ngày 1/11/2003), do đó sự tăng trưởng đột biến: năm 2003 dân số Vạn
Phúc là 5.680 người, đến năm 2004 do có sự điều chỉnh và mở rộng ranh giới,
dân số tăng thành 9.429 người. Sự mở rộng không gian sống dẫn đến mở rộng
về khơng gian văn hóa, khơng gian văn hóa Vạn Phúc khơng chỉ cịn bó hẹp
trong làng Vạn Phúc xưa mà đã thêm những yếu tố văn hóa mới từ các khu

tập thể liên quan đến lối sống của cán bộ và công nhân viên chức của nhà máy
Len Nhuộm Hà Đông, nhà máy Cánh Kiến, nhà máy dệt Hà Đông, nhà máy
thuốc lá Thăng Long.

16


Bảng 1.3: Hiện trạng dân số Vạn Phúc
Stt

Chỉ tiêu

1
2
2.1
2.2
3
3.1
3.2
4
4.1
4.2
4.3
4.4
4.5
4.6

Dân số trung bình
Mức gia tăng
Tăng tự nhiên

Tăng cơ học
Tỷ lệ gia tăng
Tỷ lệ gia tăng tự nhiên
Tỷ lệ gia tăng cơ học
Cơ cấu dân số
Số người dưới 15 tuổi
Dân số trên tuổi lao động
Dân số trong độ tuổi lao động
Tổng số cặp kết hơn
Tổng số hộ
Quy mơ hộ bình qn

5

Mật độ dân số

Năm
Đv
tính 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2009
2010
2011
Người 5.579 5.613 5.680 9.429 9.574 9.750 9.890 10.168 10.389 10.564
Người 135
64
163
139
145
176
140
278

221
175
Người 93
63
131
103
131
130
135
201
195
157
Người 42
1
32
36
14
46
5
77
26
18
%
2,42 1,14 2,87 1,47 1,51 1,81 1,42
2,73
2,12
1,65
%
1,67 1,12 2,31 1,09 1,37 1,33 1,37
1,97

1,87
1,48
%
0,75 0,02 0,56 0,38 0,15 0,47 0,05
0,75
0,25
0,17
Người
Người
Người
cặp
hộ
Người
người
/ km2

3.212 3.125 3.045 4.789
464
601
727 1145
1.903 1.905 1.908 3.495
70
70
79
112
1.560 1.600 2.275 2.417
3,58 3,52 2,50 3,90

4.756
1330

3.488
132
2.560
3,74

4.900
1400
3.590
100
2.620
3,77

5.025
1460
3683
115
2680
3,82

5.150
1505
3704
123
2705
3,85

5.290
1560
3714
118

2736
3,89

3.874 3.910 3.944 6.548 6.649 6.771 6.868

6.967

7.102

7.189

Nguồn: UBND phường Vạn Phúc
17

4.843
1350
3.557
130
2.600
3,75


Như vậy, Vạn Phúc có nguồn nhân lực khá dồi dào là điều kiện thuận
lợi để phát triển kinh tế xã hội, song nó cũng là một sức ép đáng kể lên địa
phương trong việc bố trí việc làm đáp ứng nhu cầu việc làm trong tương lai.
Tính cách con người: Là một xã ở gần tỉnh lỵ lại giao lưu trao đổi hàng
hóa với nhiều nơi, nhân dân Vạn Phúc có điều kiện tiếp thu và xây dựng cho
mình những nét hay nét đẹp trong cốt cách con người. Mặt khác, địa phương
có lịch sử lập cư gồm những người khảng khái không chịu khuất phục cường
quyền của giai cấp thống trị đã từ nhiều phương tới. Họ kéo đến đây dựng

thôn, lập ấp quần tụ, cưu mang, đùm bọc lẫn nhau. Do vậy người Vạn Phúc có
đặc tính nổi bật là “đoàn kết, cương trực và tự trọng”.6
1.3 Điều kiện lịch sử
Làng Vạn Phúc xưa có tên là Vạn Bảo, vốn là trang Vạn Bảo, xã
Thượng Thanh Oai, trấn Sơn Nam. Hiện trên tấm bia đá Văn chỉ của làng
được xây dựng từ thời Tây Sơn, cũng ghi thôn Vạn Bảo, xã Thượng Thanh
Oai. Sang thời Nguyễn, xã Thượng Thanh Oai có bốn thơn là: Cầu Đơ, Văn
Qn, Kiều Trì, Vạn Bảo, riêng làng Vạn Bảo nằm biệt lập ở bên kia sông
Cầu Am nên khi chia lại địa giới hành chính, làng được đổi sang thuộc tổng
Thiên Mỗ, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây. Đến đầu thế kỷ XX,
do kiêng húy tên vua Thành Thái là Bảo Lân nên mới đổi thành Vạn Phúc.
Sau cách mạng tháng Tám 1945, Vạn Phúc thuộc thị xã Hà Đông, tỉnh Hà
Tây. Năm 2008, do sự sát nhập tỉnh Hà Tây vào thành phố Hà Nội, nên Vạn
Phúc trở thành phường Vạn Phúc, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
Theo các cụ trong làng kể lại, thì từ xa xưa, người Mỗ Lao ở bên kia
sông Nhuệ đã chuyển sang bên này sông lập trại sinh sống. Khi mới định cư,
người Vạn Phúc chỉ sống bằng nghề trồng cây lương thực và chăn ni. Hồn
6

Ban chấp hành Đảng bộ xã Vạn Phúc (1986), Lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ
và nhân dân Vạn Phúc, tập 1, tr 18.

18


cảnh kinh tế tự cấp, tự túc đã đưa người dân làng Vạn Phúc đến với nghề
trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa. Trong quá trình phát triển kinh tế, bên
cạnh nghề nông, nghề dệt dần dần trở thành nguồn sống chính của làng. Theo
nghiên cứu của GS Nguyễn Quang Ngọc, sang thế kỉ XVI và nhất là vào các
thế kỷ XVII, XVIII, XIX bên cạnh các làng thủ cơng nghiệp chun nghiệp

đã có từ trước, xuất hiện thêm ngày một nhiều các làng, phường thủ cơng
nghiệp trong đó có Vạn Phúc.7
Từ lúc mới hình thành, làng Vạn Phúc là một làng nông nghiệp kết hợp
với nghề trồng dâu ni tằm, dệt lụa, văn hóa làng có đặc trưng là văn hóa
nơng nghiệp. Thời kỳ phát đạt của nghề dệt là những năm 1930 – 1940, sau
khi sản phẩm của làng mang dự hội chợ Mác -xây được chính phủ Pháp tặng
huy chương bội tinh và một số người được tặng chức danh Bá hộ, nghề dệt
thịnh đạt, buôn bán phát triển, văn hóa làng là sự kết hợp văn hóa nơng
nghiệp với văn hóa thương mại.
Tính chất của khơng gian văn hóa làng Vạn Phúc: Khơng gian văn hóa
làng mang đậm yếu tố của văn hóa làng nghề. Khơng gian văn hóa làng Vạn
Phúc mang tính chất mở, luôn tiếp thu, học hỏi những yếu tố, nền văn hóa tiên
tiến ở trong và ngồi nước một cách có sàng lọc. Khơng gian văn hóa làng
Vạn Phúc so với khơng gian văn hóa của những làng nghề lân cận như La Cả,
La Phù…mang những đặc trưng chung của làng nghề Bắc Bộ, đó là: 1. Các
làng nghề tồn tại ở nơng thơn, gắn bó chặt chẽ với nơng nghiệp; 2. Công nghệ
kỹ thuật sản xuất sản phẩm trong các làng nghề truyền thống thường là thô sơ,
sử dụng kỹ thuật thủ công là chủ yếu, ngày nay do việc áp dụng cơng nghệ kỹ
thuật vào sản xuất, máy móc đã thay thế bàn tay thủ công của con người. 3.
Phương pháp dạy nghề chủ yếu được thực hiện theo phương thức truyền
7

Nguyễn Quang Ngọc: Một số vấn đề làng xã Việt Nam, NXB Đại học quốc gia Hà Nội,
2009, tr 112.

19


nghề. 4. Hình thức tổ chức sản xuất chủ yếu ở qui mơ hộ gia đình, một số đã
có sự phát triển thành tổ chức hợp tác và doanh nghiệp tư nhân.

Q trình biến đổi khơng gian văn hóa làng diễn ra trên các mặt: không
gian sống, kinh tế, văn hóa. Ngun nhân dẫn đến sự biến đổi khơng gian văn
hóa làng Vạn Phúc là do q trình đơ thị hóa mở rộng thủ đơ Hà Nội, q
trình đơ thị hóa của chính làng Vạn Phúc cũng như của quận Hà Đơng; q
trình sát nhập 5 khối dân cư thuộc phường Yết Kiêu cũ vào phường Vạn
Phúc; sự giao lưu kinh tế, văn hóa của Vạn Phúc với các tỉnh, thành phố khác,
với khách du lịch nước ngoài…song song với nó là sự phát triển của truyền
hình, internet, truyền thơng mang tính đại chúng.
Hiện ở đình làng Vạn Phúc cịn lưu giữ được 11 đạo sắc phong, gồm
có đời Lê 3 đạo, đời Tây Sơn 2 đạo, đời Nguyễn 6 đạo. Trong điều kiện ít ỏi
về sự phát triển của làng Vạn Phúc trong thời kỳ phong kiến thì 11 đạo sắc
phong này cũng đưa lại cho chúng ta một số hiểu biết về sự phát triển và điều
kiện lịch sử hình thành nên khơng gian văn hóa làng. Đạo sắc phong năm Bảo
Hưng thứ nhất (1801) đời Tây Sơn ghi duệ hiệu Đức thánh với hơn hai mươi
mỹ tự, mà theo quy định xưa thì mỗi đợt gia phong thường chỉ là hai đến ba
mỹ tự. Đến triều Nguyễn, mặc dù đã có tiền lệ ban cấp sắc phong từ đời Lê,
Tây Sơn nhưng các vua đầu triều Nguyễn như Gia Long (1802 - 1820), Minh
Mạng (1821 - 1840), Thiệu Trị (1841 - 1847) đều không ban sắc phong cho
thành hoàng làng Vạn Phúc. Mãi đến năm Tự Đức thứ 6 (1853), đình làng
Vạn Phúc mới tiếp tục nhận được sắc phong. Theo quy chế ban cấp sắc phong
thời xưa, một địa phương khơng nhận được sắc phong có hai lí do. Một là vị
thần mà dân làng tơn thờ khơng phải là chính thần mà là tà thần, dâm thần.
Hai là dân làng không chịu tuân theo giáo hóa của triều đình. Trường hợp
làng Vạn Phúc thuộc vào lí do thứ hai. Vì thời Tây Sơn, dân làng Vạn Phúc ra

20


sức ủng hộ phong trào. Nghĩa cử ủng hộ phong trào Tây Sơn ấy của dân làng
gây mối phản cảm đối với triều đình Nguyễn nên khơng có sắc phong.

1.4 Điều kiện xã hội
a) Phân tầng xã hội
Nền sản xuất tiểu thủ công nghiệp và quỹ ruộng đất của làng Vạn Phúc
có ảnh hưởng nhất định đến phân tầng xã hội trong làng. Do ruộng đất ít,
nghề dệt lại phát triển mạnh, nên ở Vạn Phúc khơng có địa chủ. Đây là nét
khác biệt giữa làng Vạn Phúc với các làng dệt khác trong khu vực, ví dụ làng
Kiến Hưng thời kỳ này có 11 địa chủ. Trong làng có 16 hộ tiểu chủ là khá giả
nhất làng, mỗi nhà có từ 4 đến 5 mẫu ruộng, có 5 – 6 khung dệt và thuê mướn
khoảng chục thợ làm việc. Là một làng dệt thủ công truyền thống nên tầng lớp
đông đảo nhất trong làng là thợ thủ công. Đây là lực lượng sản xuất chính của
làng, chiếm tới 85% số dân, chi phối hầu hết các mối quan hệ trong làng.
Ngồi các tầng lớp trên, Vạn Phúc cịn có một số ít quan lại nặng đầu
óc phong kiến, thủ cựu. Tuy nhiên số này đã về hưu, kinh tế khơng thuộc loại
giàu có, khơng duy trì được uy thế chính trị.
Như vậy, trong cơ cấu tầng lớp xã hội ở làng Vạn Phúc thì tầng lớp thợ
thủ cơng là đông đảo nhất. Quan niệm về thứ bậc trong xã hội ở làng Vạn
Phúc trước 1945 có sự khác biệt so với những làng nông nghiệp khác ở đồng
bằng Bắc Bộ. Các làng nơng nghiệp thì vai trị của hai tầng lớp sĩ và nông
được đề cao. Nhưng ở làng Vạn Phúc, có uy tín trong làng lại là những gia
đình Bá Hộ8, gia đình bn bán lớn (tầng lớp tiểu chủ). Thứ bậc “Sĩ, nông,
công thương” trong quan niệm truyền thống chi phối quan hệ làng xã hàng
ngàn năm bị phá vỡ. Tầng lớp công thương được đề cao. Những người giàu
có khơng chỉ tính bằng số lượng ruộng đất, thóc gạo hay trâu bị mà tính bằng
8

Những người dệt gấm ở làng được thưởng mề đay và được phong chức Bá hộ như: cụ Bá
Vẽ, ông Bá Hai, ông Bá Ba, ông Bá Nhỡ…

21



số lượng khung cửi và sản phẩm dệt. Vì thế, trong thời kỳ này việc bầu các
chức vụ trong bộ máy thống trị làng như lý trưởng, phó lý…gặp nhiều khó
khăn. Hiện tượng này là do dân làng Vạn Phúc quan niệm ra làm lý dịch vừa
mất thời gian, không làm được nghề lại mất lịng bà con làng xóm. Vấn đề
chính ở làng làm nghề thủ cơng như Vạn Phúc là vấn đề kỹ thuật nghề nghiệp,
bởi kỹ thuật nghề nghiệp đem lại những nguồn thu nhập cao cho người thợ.
Những thợ dệt giỏi được phong làm Bá Hộ và có địa vị cao trong làng.
Mặt khác, ở Vạn Phúc ruộng đất ít nên tầng lớp nơng dân chiếm một tỷ
lệ nhỏ trong dân số, khoảng 7% số hộ. Do số hộ ít và nguồn thu nhập thấp nên
nơng dân có xu hướng chuyển sang làm nghề dệt. Tiểu thương, thợ thủ cơng
là hai tầng lớp chính và có uy tín trong làng.
b) Tổ chức xã hội
Tổ chức xã hội của một làng Việt cổ truyền được chia thành hai loại: xã
hội trong gia đình (đi kèm với nó là dịng họ) và xã hội ngồi gia đình bao
gồm nhiều thiết chế khác nhau: xóm ngõ, phe giáp, phường hội, bộ máy chính
trị xã hội làng xã. Ở Vạn Phúc có các dịng họ: họ Nguyễn lớn nhất chiếm
61,3% dân; họ Đỗ chiếm 24,9% dân; họ Đặng chiếm 4% dân; họ Triệu chiếm
4% dân, và một số họ khác như: họ Phạm, họ Vũ, họ Cao, họ Bùi…Ở phần
này của luận văn, chúng tơi chỉ tìm hiểu hai hình thức tổ chức: phe giáp và
phường hội bởi đây là hai hình thức tổ chức có tính riêng biệt truyền thống
của làng Vạn Phúc, tổ chức phường hội chính là tổ chức phường cửi – một tổ
chức mang tính chất nghề nghiệp.
* Tổ chức phường cửi
Tầng lớp thợ dệt chiếm phần lớn trong dân cư làng Vạn Phúc và chi
phối hầu hết các mối quan hệ trong làng. Những gia đình làm nghề dệt tập
hợp nhau lại thành một tổ chức gọi là Phường cửi.

22



Tổ chức phường cửi ra đời là do sự cần thiết phải liên hiệp và giúp đỡ
lẫn nhau giữa những người sản xuất cá thể. Tổ chức phường dệt còn bảo vệ
nghề nghiệp chuyên môn của làng, tạo những điều kiện thuận lợi cho người
lao động trong tổ chức phường dệt, bằng cách cạnh tranh với bên ngoài, giúp
đỡ bạn nghề khi gặp khó khăn.
Phường dệt của làng Vạn Phúc có những luật lệ như sau:
- Thành viên của phường cửi phải là những người dệt giỏi (thường là
ông chủ nhà hoặc con trai cả có tuổi từ 35 – 40 tuổi trở lên).
- Tơn trọng và kính nể những người tài giỏi, nhất là những người được
phong chức Bá hộ.
- Đoàn kết tương trợ lẫn nhau những lúc gặp khó khăn.
- Tuyệt đối giữ bí mật nghề nghiệp khơng tiết lộ cho các làng khác.
Vấn đề giữ bí mật còn được quy định cụ thể như sau:
- Con gái chỉ được truyền bí quyết nghề nghiệp khi lấy chồng làng.
- Nếu con gái lấy chồng, nhất quyết không được truyền bí quyết nghề.
Nếu họ muốn làm nghề để sinh sống phải quay về làng làm cùng với gia đình.
- Nếu một trong những thành viên của phường cửi để lộ bí mật nghề
nghiệp ra bên ngồi thì sẽ bị đuổi ra khỏi làng và không bao giờ được sản
xuất những mặt hàng do phường cửi quy định.
- Không được dựng máy dệt để bán cho người làng khác.
Bên cạnh đó, phường cửi cịn quy định những gia đình nào làm nghề
dệt mà chưa phải là hội viên của phường thì khơng được đem hàng đi bán mà
phải nhờ hội viên của phường cửi đi bán hộ. Đây là một hình thức kiểm tra
ban đầu; hàng làm ra khơng đẹp thì khơng ai bán hộ cho, việc làm này nhằm
giữ uy tín cho làng nghề. Như vậy, ngồi chức năng quản lý, phường dệt cịn
có chức năng bảo vệ, giữ gìn uy tín, chất lượng sản phẩm cho làng nghề.

23



Khi gia nhập vào phường cửi, gia đình phải soạn một lễ cúng ở đền
phường cửi vào dịp lễ hội hàng năm (ngày 7/1 Âm lịch). Lễ gồm có: một
mâm xôi, một con gà, một đồng bạc Đông Dương – tiền công đức cho quỹ
phường cửi.
Phường dệt Vạn Phúc đặc biệt chú trọng trau dồi nghề nghiệp, nâng cao
chất lượng sản phẩm, dìu dắt thợ trẻ. Việc kính trọng người cao tuổi, người
làm nghề lâu năm, biểu hiện tinh thần quý trọng kinh nghiệm sản xuất. Trong
thực tế, những người già được tơn trọng thường giữ một vị trí quan trọng ở
một số khâu hoặc trong tồn bộ quy trình kỹ thuật cũng như việc phổ biến
kinh ngiệm trong sản xuất. Trong hoạt động của phường cửi cịn có việc thờ
cúng Thánh sư để tỏ lòng biết ơn đối với người truyền nghề cho làng.
Như vậy, phường cửi có một vai trò nhất định trong đời sống kinh tế và
xã hội thời kỳ này. Phường cửi vừa có tác dụng thúc đẩy sự phát triển kinh tế,
vừa ủng hộ bảo vệ nghề nghiệp. Tuy nhiên, phường cửi cũng có những mặt
hạn chế: Trước hết, đó là một tổ chức có tính cục bộ, gây ra sự đối lập giữa
người bên trong và người bên ngồi hội, nó đề cao quyền lợi của một nhóm
người nhất định. Trong việc truyền nghề, những người giỏi nghề chỉ phổ biến
kinh nghiệm một cách hạn chế trong gia đình và cho con trai trưởng.
Phường cửi được coi là một hình thức tổ chức kinh tế xã hội đặc sắc
của thời phong kiến cũng như trong thời kỳ đầu thế kỷ XX đến trước 1945
của làng Vạn Phúc.
c) Tổ chức Giáp
Giáp là một hình thức tổ chức dành riêng cho nam giới, điều này đúng
với khơng riêng Vạn Phúc mà cịn đúng với các làng Việt cổ khác. Phụ nữ
không được vào giáp. Làng Vạn Phúc lại có 14 giáp. Dân cư của làng tự phân
thành 14 giáp theo từng họ, họ lớn thì có 2 đến 3 giáp, họ nhỏ thì thành một
giáp. Họ Nguyễn lớn nhất có 3 giáp.

24



×