Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN dịch vụ cảng biển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (708.2 KB, 12 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN dịch vụ cảng biển.
1.1.1. Định nghĩa, ý nghĩa và phân loại cảng biển
1.1.1.1. Định nghĩa cảng biển
Cảng biển được hiểu là nơi ra vào, neo đậu của tàu biển, nơi phục vụ tàu bè và hàng
hóa, đầu mối giao thông quan trọng của một nước. (Theo từ điển Hàng Hải).
Còn theo L. Kuzma : “ Cảng biển là một đầu mối vận tải liên hợp mà ở đó có nhiều
phương tiện vận tải khác nhau chạy qua, đó là tàu biển, tàu sông, xe lửa, ô tô, máy bay
và đường ống. Ở khu vực cảng xuất hiện việc xếp dỡ hàng hóa hoặc sự lên xuống tàu
của khách hàng giữa các tàu biển và các phương tiện vận tải còn lại – điều này có nghĩa
là xuất hiện sự thay đổi phương tiện vận tải trong vận chuyển hàng hóa và người”.
1.1.1.2. Ý nghĩa của cảng biển
Trong các phương thức vận tải, vận tải đường biển chiếm vai trò chủ đạo. Hàng
năm, hơn 80% hàng hoá trên thế giới được vận chuyển bằng đường biển. Cảng biển là
đầu mối quốc gia quan trọng, nối liền các khu vực của quốc gia và nối quốc gia đó với
thế giới bên ngoài. Do đó, cảng biển đóng vai trò quan trọng trong lưu thông hàng hoá.
Bên cạnh đó, không chỉ đóng vai trò quan trọng trong khâu lưu thông, một khâu
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, cảng biển còn liên quan đến nhiều lĩnh vực khác
như buôn bán, giao dịch, đại lý, môi giới, bảo hiểm, luật pháp, tài chính, ngân hàng, du
lịch,…Những hoạt động này mang lại nguồn lợi đáng kể cho các quốc gia có biển.
Cảng biển tạo cơ sở cho các hoạt động dịch vụ, cho chính cảng biển và cho hàng loạt
các ngành khác.
Tóm lại, cảng biển đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, thông qua
phát triển các loại hình dịch vụ cảng biển. Cảng biển có dịch vụ phát triển sẽ thu hút
nhiều tàu bè, nhiều hàng hoá xuất nhập khẩu hay quá cảnh, từ đó quan hệ của một quốc
gia cũng được phát triển về mọi mặt. Cảng chính là cửa ngõ thông thương của một quốc
gia với thế giới. Cảng biển đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, phản ánh
trình độ khả năng mở cửa giao lưu hội nhập của một quốc gia với các quốc gia khác
trên thế giới.
1.1.1.3. Phân loại cảng biển
Tuỳ theo tiêu chí phân loại mà cảng biển có thể được phân theo nhiều cách khác
nhau. Trong phạm vi bài viết này em chỉ xin được phân loại theo một tiêu chí chính


nhằm phục vụ trực tiếp cho mục tiêu của bài viết và cũng là phù hợp với chuyên ngành
học về kinh tế ngoại thương, phục vụ hàng hoá xuất nhập khẩu, đó là phân loại theo
chức năng khai thác cảng và theo phạm vi hoạt động.
 Theo chức năng khai thác cảng, cảng biển có thể được phân thành hai nhóm:
- Các cảng thương mại tổng hợp: là các cảng bốc xếp hàng khô, bách hoá, bao
kiện thiết bị và container.
- Các cảng chuyên dùng: các cảng phục vụ cho một mặt hàng mang tính chất riêng
biệt như cảng than, cảng dầu,…
 Theo phạm vi hoạt động, cảng lại được phân thành hai nhóm:
- Cảng quốc tế: là cảng hoạt động phục vụ các tàu hoạt động xuất nhập khẩu.
- Cảng nội địa: là cảng phục vụ hoạt động thương mại và các ngành trong nước,
không có khả năng đón các tàu từ nước ngoài.
1.1.2 Trang thiết bị cảng:
- Bến tàu : là nơi đậu của tàu có cấu trúc “Ke” hoặc cầu tàu (Quay hoặc pier). Chiều dài
và độ sâu của bến tàu tùy thuộc vào số lượng và kích cỡ của các con tàu ra vào. Trung
bình một con tàu chở 20,000 – 30,000 TEU đòi hỏi bến đậu có chiều dài 250m – 300 m
và độ sâu 8m – 10m.
- Thềm bến (Apron) : là khu vực bề mặt “Ke” hoặc cầu tàu (Quay surface) sát liền với
bến tàu, có chiều rộng từ 20m – 30m, phù hợp với chiều ngang của chân đế giàn cẩu
khung hoặc loại công cụ bốc dỡ khác. Thềm bến được xây dựng chắc chắn, trên mặt
thềm có trải nhựa hoặc láng xi măng. Thông thường, 2 giàn cẩu khung được bố trí hoạt
động dọc theo bến tàu và có năng lực bốc dỡ đạt 40 – 50 chiếc container/giờ.
- Bãi chứa container (Container yard - CY) : là nơi tiếp nhận và lưu chứa container. CY
có thể phân thành một số khu vực: khu vực bố trí container chuẩn bị bốc xuống tàu, khu
vực dành tiếp nhận container từ tàu lên bờ, khu vực chứa container rỗng. Tùy theo số
lượng container đi đến, lưu chứa mà diện tích bãi chứa có quy mô lớn, nhỏ. Thông
thường, tương ứng với chiều dài 300m Ke, diện tích bãi chứa chiếm khoảng 105,000
m
2
.

- Trạm container làm hàng lẻ (Container Frieght Station) : là nơi tiến hành nghiệp vụ
chuyên chở hàng lẻ, nó có chức năng :
• Tiếp nhận các lô hàng lẻ chủa chủ hàng từ nội địa, lưu kho, phân loại và
giao trả hàng cho các chủ hàng lẻ.
• Tiếp nhận các container hàng lẻ, rút hàng ra, phân loại, tái đóng hàng vào
container và gửi tiếp hàng đến đích. Trạm làm hàng lẻ container (CFS)
thường được bố trí bên ngoài, sát bãi chứa container, ở nơi cao ráo và có
kho chứa tạm có mái che, thuận lợi cho việc làm hàng, đóng vào và rút
hàng ra khỏi container, dưới sự kiểm soát của hải quan.
- Cảng thông quan nội địa (Inland Clearance Depot – ICD): là khu vực có thể ở trong nội
địa, được dùng làm nơi chứa, xếp dỡ, giao nhận hàng hóa, container, làm thủ tục hải
quan, thủ tục xuất nhập khẩu. ICD có cơ quan hải quan và hoạt động như một cảng nên
người ta gọi ICD là cảng cạn hay cảng khô (Dry Port).
- Công cụ phục vụ vận chuyển, xếp dỡ hàng hóa gồm : cẩu trục tự hành, cần cẩu dàn
bánh lốp (Rubber tyred Gantry Crane), cần cẩu giàn (Ship shore Gantry Crane), cần cẩu
chân đế, xe nâng hàng bánh lốp, xe khung nâng bánh lốp, xe xếp tầng (Stacker), xe
nâng chụp trên (Toplift stuck), máy bơm hút hàng rời hàng lỏng, băng chuyền, ô tô, đầu
kéo, Chassis, Container, Paller,…
Ship-to-shore Gantry Crane
Side Lifter
Rubber Tyred Gantry
Reach Stacker
Yard tractor
CFS Forklift Truck
Hình 1.1. Các thiết bị thường được dùng tại cảng.
1.1.3. Dịch vụ cảng biển chủ yếu :
Dịch vụ cảng biển chính là các chức năng phục vụ của cảng biển. Từ khái niệm về cảng
biển có thể thấy hai chức năng phục vụ của cảng cho tàu và hàng. Như vậy cảng cung
cấp các dịch vụ sau:
1.1.3.1. Đối với hàng hoá ra vào cảng :

Cảng biển là nơi quá trình chuyên chở hàng hoá có thể được bắt đầu, tiếp tục hoặc
kết thúc. Do đó, tại cảng biển, hàng hóa có thể được hưởng các dịch vụ sau:
- Dịch vụ kiểm đếm hàng hóa vận chuyển đường biển: là hoạt động kinh doanh
thay mặt khách hàng kiểm đếm số lượng hàng hóa thực tế khi giao hoặc nhận với tàu,
với các phương tiện vận tải khác, khi xuất hoặc nhập kho, bãi cảng, hay khi xếp, dỡ
hàng hoá trong container.
- Dịch vụ giao nhận hàng hóa vận chuyển bằng đường biển: là hoạt động kinh
doanh thay mặt khách hàng tổ chức thiết kế, bố trí thu xếp các thủ tục giấy tờ, chứng từ
liên quan đến việc giao nhận hàng hóa với người chuyên chở và các cơ quan chuyên
môn khác.
- Dịch vụ bảo quản hàng hóa: là hoạt động lưu kho lưu bãi hàng hóa trong thời
gian hàng hóa còn nằm ở cảng chờ chủ hàng đến lấy, chờ giao cho người chuyên chở,
hoặc chờ trong thời gian chuyển tiếp để vận chuyển đến cảng đích.
Ngoài ra, cảng biển còn thực hiện sửa chữa bao bì, đóng gói lại hàng hóa, ký mã
hiệu cho hàng hóa nếu trong quá trình chuyên chở đến người nhận hàng bị tổn thất
trong phạm vi có thể sửa chữa tại cảng.

1.1.3.2. Đối với tàu ra vào cảng:
Cảng là nơi ra vào, neo đậu của tàu trong và sau mỗi cuộc hành trình. Nên mọi hoạt
động điều hành giao dịch với tàu đều phải được thực hiện tại cảng, cụ thể là :
- Dịch vụ đại lí tàu biển: là hoạt động thay mặt chủ tàu nước ngoài thực hiện các
dịch vụ đối với tàu và hàng tại Việt Nam.
- Dịch vụ môi giới hàng hải: là hoạt động kinh doanh môi giới cho khách hàng các
công việc liên quan đến hàng hoá và phương tiện vận tải biển, mua bán tàu, thuê tàu,
thuê thuyền viên.
- Dịch vụ lai dắt tàu biển và hoa tiêu hàng hải.
- Dịch vụ cung ứng tàu biển: là hoạt động kinh doanh cung ứng cho tàu lương
thực thực phẩm cũng như các dịch vụ đối với thuyền viên…
- Dịch vụ cứu hộ hàng hải.
- Dịch vụ thông tin và tư vấn hàng hải.

- Dịch vụ cho thuê cảng trung chuyển.
- Dịch vụ sửa chữa nhỏ tàu biển: là hoạt động kinh doanh thực hiện cạo hà, gõ rỉ,
sơn, bảo dưỡng, sửa chữa các thiết bị động lực, thông tin, đường nước, ống hơi, hàn vá
từ mớn nước trở lên và các sửa chữa nhỏ khác.
1.2. Khách hàng:
Khách hàng là những người thực hiện công đoạn cuối cùng của quá trình tái sản
xuất của doanh nghiệp, họ là những người mua sắm và tiêu dùng sản phẩm của nhà sản
xuất (sản phẩm có thể là hàng hóa, cũng có thể là các sản phẩm dịch vụ). Vì vậy, việc
chăm sóc khách hàng, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng là vấn đề quan trọng hàng
đầu của doanh nghiệp.
(Nguồn: Giáo trình Marketing căn bản – Đại học Marketing).
Định nghĩa đầu tiên về khách hàng: đó là những người mua sắm sản phẩm dịch vụ.
Định nghĩa thứ hai về khách hàng: đó là những người mà bạn có quan hệ giao dịch kinh
doanh.
Tuy nhiên trên thực tế, khách hàng không chỉ bó gọn trong những định nghĩa như
vậy; họ có thể là bất kỳ ai, trong hay ngoài công ty bạn, dù họ làm việc ở đâu, thanh
toán như thế nào, giao dịch ra sao... Khách hàng nói chung thường được phân thành hai
loại: Khách hàng nội bộ và Khách hàng bên ngoài.
1.3 Nhu cầu của khách hàng:
Nhu cầu là trạng thái tâm lý của khách hàng, mong đợi được thỏa mãn một sản
phẩm có ý nghĩa về mặt vật chất hoặc tinh thần.
Theo Maslow, nhu cầu của con người được sắp xếp theo một thứ tự ưu tiên từ thấp
tới cao về tầm quan trọng. Cấp bậc nhu cầu được sắp xếp thành các cấp bậc :
• Nhu cầu bậc thấp:
+ Nhu cầu cơ bản hay sinh lý (Physiological Needs) : là những nhu cầu đảm bảo cho
con người tồn tại như: ăn, uống, mặc, tồn tại và phát triển giống nòi và các nhu cầu
khác của cơ thể.
+ Nhu cầu về an toàn và an ninh (Safety Needs) : là các nhu cầu được bảo vệ, không
bị đe dọa; là các chuẩn mực, luật lệ …

×