Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

(Luận văn thạc sĩ) nghiên cứu đa dạng sinh học của côn trùng nước ở vườn quốc gia hoàng liên, tỉnh lào cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.7 MB, 85 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
----------------------------------------

Trần Tiến Thực

NGHIÊN CỨU ĐA DẠNG SINH HỌC CỦA CƠN TRÙNG NƢỚC
Ở VƢỜN QUỐC GIA HỒNG LIÊN, TỈNH LÀO CAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Hà Nội - Năm 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
-------------------------------------------------------------------------------

Trần Tiến Thực
Trần Tiến Thực

NGHIÊN CỨU ĐA DẠNG SINH HỌC CỦA CÔN TRÙNG NƢỚC
NGHIÊN CỨU ĐA DẠNG SINH HỌC CỦA CƠN TRÙNG NƢỚC
Ở VƢỜN QUỐC GIA HỒNG LIÊN, TỈNH LÀO CAI
Ở VƢỜN QUỐC GIA HOÀNG LIÊN, TỈNH LÀO CAI

Chuyên ngành: Động vật học
Chuyên ngành: Động vật học
Mã số: 60. 42. 10


Mã số: 60. 42. 10

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN VĂN VỊNH
PGS.TS. NGUYỄN VĂN VỊNH

Hà Nội
Nội -- Năm
Năm 2012
2012



Mục lục
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 5
Chƣơng 1 - TỔNG QUAN TÀI LIỆU ................................................................. 3
1.1. Tình hình nghiên cứu cơn trùng nƣớc trên thế giới ....................................... 3
1.2. Tình hình nghiên cứu cơn trùng nƣớc ở Việt Nam ...................................... 12
1.3. Tình hình nghiên cứu cơn trùng nƣớc ở Vƣờn Quốc gia Hồng Liên. ......... 16
1.4. Một số đặc điểm tự nhiên của Vƣờn Quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai.... 17
1.4.1. Vị trí địa lý .......................................................................................... 17
1.4.2. Điạ hiǹ h .............................................................................................. 18
1.4.4. Khí hậu................................................................................................ 18
1.4.5. Thủy văn ............................................................................................. 19
Chƣơng 2 - THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .... 20
2.1. Thời gian nghiên cứu .................................................................................. 20

2.2. Địa điểm nghiên cứu .................................................................................. 20
2.3. Vật liệu và phƣơng pháp nghiên cứu .......................................................... 26
2.3.1. Vật liệu nghiên cứu ............................................................................. 26
2.3.2. Phƣơng pháp nghiên cứu ..................................................................... 26
2.3.3. Một số chỉ số Đa dạng sinh học ........................................................... 27
2.3.4. Xử lý số liệu ........................................................................................ 29
Chƣơng 3 - KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ............................................................. 30
3.1. Một số chỉ số thủy lý, hóa học tại các điểm nghiên cứu .............................. 30
3.2. Thành phần lồi cơn trùng nƣớc tại khu vực nghiên cứu ............................. 31
3.2.1. Thành phần loài của bộ Phù du (Ephemeroptera)................................. 33


3.2.2. Thành phần loài của bộ Chuồn chuồn (Odonata) ................................. 34
3.2.3. Thành phần loài của bộ Cánh úp (Plecoptera) ...................................... 34
3.2.4. Thành phần loài của bộ Cánh nửa (Hemiptera) .................................... 35
3.2.5. Thành phần loài của bộ Cánh cứng (Coleoptera) ................................. 35
3.2.6. Thành phần loài của bộ Cánh rộng (Megaloptera) ............................... 36
3.2.7. Thành phần loài của bộ Hai cánh (Diptera).......................................... 36
3.2.8. Thành phần lồi của bộ Cánh lơng (Trichoptera) ................................. 36
3.2.9. Thành phần loài của bộ Cánh vẩy (Lepidoptera) .................................. 37
3.3. So sánh số lƣợng và thành phần loài giữa các điểm nghiên cứu .................. 42
3.3.1. So sánh số lƣợng loài giữa các điểm nghiên cứu .................................. 42
3.3.2. Tính tƣơng đồng về thành phần loài giữa các điểm nghiên cứu ............ 45
3.4. Một số đặc điểm của quần xã côn trùng nƣớc tại khu vực nghiên cứu ......... 48
3.4.1. Mật độ côn trùng nƣớc tại khu vực nghiên cứu .................................... 48
3.4.2. Loài ƣu thế và một số chỉ số đa dạng ................................................... 53
3.5. Phân bố cơn trùng nƣớc theo tính chất của thủy vực ................................... 54
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ............................................................................... 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 59



DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1. Một số chỉ số thủy lý, hóa học tại các điểm nghiên cứu ...... .................. 30
Bảng 2. Cấu trúc thành phần lồi cơn trùng nƣớc tại khu vực nghiên cứu .......... 32
Bảng 3. Thành phần lồi cơn trùng nƣớc thu đƣợc ở khu vực nghiên cứu .......... 37
Bảng 4. Số loài thu đƣợc của mỗi bộ côn trùng nƣớc ở các điểm khảo sát ......... 42
Bảng 5. Chỉ số Jacca - Sorensen giữa các điểm nghiên cứu ............................... 46
Bảng 6. Số lƣợng cá thể các bộ côn trùng nƣớc tại khu vực nghiên cứu ............. 49
Bảng 7. Mật độ cá thể côn trùng nƣớc thu đƣợc tại các điểm nghiên cứu trên đơn
vị diện tích 0.25m2 ............................................................................................ 51
Bảng 8. Loài ƣu thế, chỉ số loài ƣu thế (DI), chỉ số Magalef (d) và chỉ số Đa dạng
sinh học Shannon – Weiner (H’) ....................................................................... 53
Bảng 9. Số lƣợng lồi và số lƣợng cá thể cơn trùng nƣớc ở nơi nƣớc chảy và
nƣớc đứng trên đơn vị diện tích 0,25 m2 ............................................................ 55


DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1. Sơ đồ các điểm thu mẫu trong khu vực nghiên cứu ............................... 21
Hình 2. Tỷ lệ % số loài theo bộ tại khu vực nghiên cứu ..................................... 32
Hình 3. Số lồi thu đƣợc của mỗi bộ côn trùng nƣớc ở các điểm khảo sát ......... 43
Hình 4. Sơ đồ Jacca - Sorensen thể hiện mối liên quan giữa các điểm nghiên
cứu .................................................................................................................... 47
Hình 5. Số cá thể thu đƣợc ở mỗi bộ côn trùng nƣớc tại khu vực nghiên cứu .... 50
Hình 6. Mật độ cá thể côn trùng nƣớc thu đƣợc tại các điểm nghiên cứu trên đơn
vị diện tích 0,25m2 ............................................................................................ 52
Hình 7. So sánh số lồi trung bình giữa nơi nƣớc chảy và nơi nƣớc đứng tại các
điểm nghiên cứu (trên đơn vị diện tích 0,25m2) ................................................. 55
Hình 8. So sánh số cá thể trung bình giữa nơi nƣớc chảy và nơi nƣớc đứng tại các
điểm nghiên cứu (trên đơn vị diện tích 0,25m2) ................................................. 56



MỞ ĐẦU
Cơn trùng ở nƣớc giữ vai trị quan trọng trong hệ sinh thái nƣớc ngọt và có
mặt hầu hết trong các thủy vực nội địa, đặc biệt rất phổ biến ở các hệ thống sông,
suối thuộc vùng trung du, núi cao. Mỗi một mơi trƣờng thủy vực, nhóm sinh vật này
đều có những đặc tính thích nghi phù hợp. So với nhiều nhóm sinh vật khác, cơn
trùng nƣớc có nhiều đặc tính nổi trội nhƣ số lƣợng lồi, số lƣợng cá thể lớn…đặc
biệt chúng là những mắt xích khơng thể thiếu trong chuỗi và lƣới thức ăn: vừa là
những sinh vật tiêu thụ bậc 1, bậc 2 vừa là nguồn thức ăn của của cá và nhiều loài
động vật có xƣơng sống khác. Vì vậy chúng tham gia tích cực trong vai trò cân
bằng mối quan hệ dinh dƣỡng ở hệ sinh thái thủy vực.
Nhiều lồi cơn trùng nƣớc có quan hệ mật thiết đối với con ngƣời. Một số
lồi cơn trùng nƣớc gây hại là tác nhân truyền bệnh, tác nhân gây bệnh ... Đáng chú
ý là những nhóm giữ vai trị quan trọng trong dịch tễ học nhƣ các loài thuộc giống
Anopheles, Aedes thuộc bộ Hai cánh (Diptera)… Giai đoạn trƣởng thành của các
chúng là những vector truyền bệnh sốt rét, sốt vàng da cho ngƣời. Khác với nhóm
cơn trùng trên cạn, phần lớn các lồi thuộc côn trùng nƣớc tồn tại cả trong môi
trƣờng nƣớc và trong môi trƣờng cạn. Do vậy, chúng là đối tƣợng lý tƣởng dùng
trong các nghiên cứu về sinh thái học và sinh học tiến hóa. Đa phần các lồi Cơn
trùng nƣớc đều nhạy cảm với các biến đổi của môi trƣờng nƣớc. Vì vậy hiện nay,
một trong những hƣớng nghiên cứu quan trọng về nhóm cơn trùng nƣớc là dùng đối
tƣợng này làm chỉ thị chất lƣợng môi trƣờng.
Trên thế giới đã có rất nhiều thành tựu nghiên cứu trên đối tƣợng côn trùng
nƣớc, từ việc phân loại cho đến những nghiên cứu về tập tính, sinh thái, sinh sản, di
truyền, tiến hóa … Ở Việt Nam, trong những năm gần đây côn trùng nƣớc cũng đã
đƣợc quan tâm nghiên cứu, đặc biệt là ở các Vƣờn Quốc gia và các Khu bảo tồn
thiên nhiên, những nơi có hệ thống sông, suối phong phú, tiềm ẩn tính đa dạng côn
trùng nƣớc cao. Để góp phần tìm hiểu nhóm sinh vật có ý nghĩa này, chúng tơi tiến

1



hành thực hiện đề tài “Nghiên cứu đa dạng sinh học của cơn trùng nƣớc ở Vƣờn
Quốc gia Hồng Liên, tỉnh Lào Cai”, nhằm mục đích:


Xác định thành phần loài của côn trùng nƣớc tại một số suối của Vƣờn
Quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai.



Nghiên cứu một số đặc điểm của quần xã côn trùng nƣớc tại khu vực
nghiên cứu nhƣ: mật độ, phân bố, các chỉ số đa dạng.

2


Chƣơng 1 - TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nghiên cứu côn trùng nƣớc trên thế giới
Côn trùng nƣớc đã đƣợc quan tâm nghiên cứu từ rất lâu trên thế giới, đặc biệt
ở những nƣớc phát triển. Đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan đến từng
bộ của nhóm cơn trùng này, từ những nghiên cứu về phân loại học (Eaton, 1871,
1883 - 1888; Lepneva, 1970, 1971; McCafferty, 1973, 1975; Kawai, 1961, 1963),
sinh thái học (Brittain, 1982), tiến hoá (Edmunds, 1972; McCafferty, 1991) đến
những nghiên cứu về ứng dụng (Morse, 1984) [38]. Đặc biệt đã có nhiều nghiên cứu
về các nhóm cơn trùng nƣớc gắn bó chặt chẽ với đời sống con ngƣời mà đa phần là
tác nhân gây bệnh hoặc tác nhân truyền bệnh cho ngƣời và động vật nhƣ: ruồi,
muỗi,… Điển hình là các nghiên cứu của Resh và Rosenberg, 1979; Merritt và
Cummins, 1984; Merritt và Newson, 1978; Kim và Merritt, 1987 [38].
Việc nghiên cứu sử dụng côn trùng nƣớc làm sinh vật chỉ thị chất lƣợng

nƣớc đã đƣợc bắt đầu từ những năm 60 của thế kỷ XX qua các cơng trình nghiên
cứu của Kuehne (1962), Bartsch và Ingram (1966), Wilhm và Dorris (1968). Sang
những năm 1970, 1980 côn trùng nƣớc trở thành vấn đề trung tâm trong các nghiên
cứu về sinh thái học ở các thủy vực nƣớc ngọt (Barnes và Minshall, 1983) [38]. Đã
từ lâu, các nhà khoa học sớm nhận ra vai trị quan trọng của cơn trùng nƣớc trong
các hệ sinh thái, do đó phạm vi nghiên cứu cơn trùng nƣớc ngày càng đƣợc mở
rộng, các hƣớng nghiên cứu không chỉ dừng lại ở việc mơ tả, phân loại mà cịn đi
sâu vào các cơ chế bên trong nhƣ: biến động quần thể côn trùng, các mối quan hệ
dinh dƣỡng, đáp ứng yêu cầu của sinh thái học (Resh và Rosenberg, 1984;
Cummins, 1994) [38].
Đến cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, nhiều nhà khoa học đã công bố hàng
loạt các cơng trình nghiên cứu về cơn trùng nƣớc nhƣ: McCafferty W.P., 1983;
Kawai T., 1985; John C.M., Yang Lianfang và Tian Lixin, 1994; Yoon, I.B., 1995;
Merritt R. W. và Cummins K. W., 1996; … Các nghiên cứu này đã bổ sung và cung
cấp nhiều kiến thức về côn trùng nƣớc bao gồm cả phân loại học, sinh thái học, tiến
hóa, ứng dụng...
3


Qua các cơng trình nghiên cứu, đến nay có thể xác định 9 bộ thuộc nhóm Cơn
trùng ở nƣớc: Phù du (Ephemeroptera), Chuồn chuồn (Odonata), Cánh lông
(Tricoptera), Cánh úp (Plecoptera), Cánh nửa (Hemiptera), Cánh cứng (Coleoptera),
Hai cánh (Diptera), Cánh rộng (Megaloptera), Cánh vảy (Lepidoptera).
* Nghiên cứu về bộ Phù du (Ephemeroptera)
Bộ Phù du là cơn trùng có cánh cổ sinh tƣơng đối ngun thủy, thậm chí cịn
đƣợc xem nhƣ một trong những tổ tiên của côn trùng. Dựa vào những bằng chứng
hóa thạch, chúng có thể đã phát sinh vào giai đoạn cuối của kỷ Cacbon và đầu kỷ
Pecmơ trong đại Cổ sinh, cách đây khoảng 290 triệu năm [18]. Các lồi thuộc bộ
Phù du đƣợc mơ tả từ rất sớm. Cơng trình nghiên cứu đầu tiên về phân loại học Phù
du là của nhà tự nhiên học nổi tiếng Lineaus (1758). Ơng đã mơ tả 6 lồi Phù du tìm

thấy ở châu Âu và xếp chúng vào một nhóm là Ephemera [42].
A.E. Eaton có thể đƣợc xem nhƣ cha đẻ của phân loại học về Phù du. Tổng
hợp các bài báo đã viết, ơng cơng bố cơng trình “A monograph on the
Ephemeridae” vào năm 1871 và vài năm sau đó là: “A revisional monograph of the
Recent Ephemeridae or Mayflies”. Ông đã phân loại Phù du đến các bậc phân loại
dƣới giống (group, series, section), trở thành cơ sở cho phân loại học hiện đại [28].
Cơng trình nghiên cứu này đƣợc xem nhƣ là chìa khóa cho việc thực hiện các
nghiên cứu về phân loại Phù du tiếp sau này [44].
Nghiên cứu về Phù du thực sự phát triển mạnh mẽ vào thế kỷ XX, điển hình
là các cơng trình nghiên cứu của Ulmer (1920, 1924, 1925, 1932, 1933), Navás
(1920, 1930), Lestage (1921, 1924, 1927, 1930), Needham và cộng sự (1935) [11].
Edmunds (1962) đã thực hiện nỗ lực đầu tiên để xây dựng cây phát sinh loài
của Phù du và hệ thống phân loại đến họ. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của các
nghiên cứu về Phù du, hệ thống phân loại của ông ngày càng tỏ ra hạn chế. Một sự
thay đổi đáng kể đã đến từ công trình của Mc Cafferty và Edmunds (1979), hai ơng
đã bổ sung những dẫn liệu mới và chia Phù du thành hai phân bộ Panota và
Schistonota. Tiếp sau cơng trình nghiên cứu mang tính bƣớc ngoặt này hệ thống
phân loại Phù du ngày càng đƣợc hoàn chỉnh bởi các nghiên cứu của Kluge (1989,

4


1995, 1998, 2004), Mc Cafferty (1991, 1997) và nhiều nhà nghiên cứu về Phù du
khác. Gần đây nhất Odgen và Whiting (2005) đã tổng hợp lại thành một hệ thống
tổng quát về nghiên cứu phân loại Phù du [19].
Cho đến nay trên tồn thế giới đã có hơn 3000 lồi đƣợc mô tả thuộc 42 họ
và hơn 400 giống của bộ Phù du. Các nghiên cứu về Phù du, đặc biệt là phân loại
học vẫn đang phát triển, vẫn còn nhiều lồi chƣa đƣợc mơ tả, nhất là ở các khu vực
nhiệt đới [18].
Đối với khu vực châu Á, những nghiên cứu đầu tiên về Phù du đƣợc thực

hiện bởi các nhà côn trùng học đến từ châu Âu nhƣ: Navás (1922, 1925), Lestage
(1921, 1924) [44].
Hsu (1931, 1932, 1935, 1936, 1937) tiến hành nghiên cứu Phù du ở Trung
Quốc và xây dựng khóa định loại tới lồi. Nhƣng các kết quả nghiên cứu chỉ dừng
lại trên đối tƣợng thu đƣợc ở giai đoạn trƣởng thành. Cùng thời gian này, Ulmer
(1932, 1933) cũng tiến hành nghiên cứu khu hệ Phù du ở Trung Quốc. Ông đã thực
hiện những nghiên cứu của mình trên đối tƣợng Phù du ở giai đoạn ấu trùng. Tiếp
sau đó, hàng loạt các cơng trình nghiên cứu về Phù du ở Trung Quốc đƣợc thực hiện
bởi Wu (1986, 1987), You (1982, 1987), Zhang (1995), Zhou (1995). Tiếp sau đó,
Gose (1985) tiến hành xây dựng khóa định loại ấu trùng Phù du ở Nhật Bản. Trong
những thập niên 90 của thế kỷ XX, Bae và cộng sự (1994), Bae & Yoon (1997) đã
hoàn thành danh lục Phù du ở Hàn Quốc [44].
Tại khu vực Đông Nam Á, các nghiên cứu về Phù du đã đƣợc khởi xƣớng
bởi Ueno (1931, 1969) và Ulmer (1939). Các nhà nghiên cứu của Việt Nam và Thái
Lan cũng đã công bố khá nhiều cơng trình nghiên cứu về Phù du trong thời gian gần
đây (Boonsoong et al, 2004; Tungpairojwong và Bae, 2006; Tungpairojwong, 2007;
Braasch Boonsoong, 2009) [31].
Các kết quả nghiên cứu cho thấy, ở châu Á có khoảng 128 giống thuộc 18 họ
của bộ Phù du (Hubbard, 1990; McCaffrty, 1991; McCaffrty & Wang, 1997, 2000;
Dudgeon, 1999) [44]. Cho đến nay, những nghiên cứu liên quan đến phân loại và hệ
thống học Phù du khá tỉ mỉ, các nhà khoa học đã xây dựng khoá phân loại chi tiết

5


tới loài kể cả giai đoạn ấu trùng và trƣởng thành. Hiện nay, hƣớng nghiên cứu tập
trung vào các vấn đề sinh thái, phục hồi và bảo tồn các loài cũng nhƣ các nghiên
cứu ứng dụng của Phù du vào thực tiễn.
Ngồi các cơng trình nghiên cứu về đặc điểm phân loại của Phù du, nhiều
nhà khoa học còn quan tâm nghiên cứu đến các khía cạnh khác nhau liên quan đến

nhóm cơn trùng nƣớc này nhƣ: Sinh thái học, Địa động vật. Điển hình là Neddham
và cộng sự (1935), đã cơng bố các số liệu về vịng đời, q trình lột xác chuyển từ
đời sống dƣới nƣớc lên cạn, tập tính dinh dƣỡng, tập tính sinh sản, biến động số
lƣợng theo mùa... của nhiều loài Phù du. Các kết quả nghiên cứu về Địa động vật
cho thấy các loài thuộc bộ Phù du ƣa sống ở những nơi nƣớc chảy với hàm lƣợng
oxy hòa tan trong nƣớc cao, cấu trúc nền đáy của các thủy vực giữ vai trò quan
trọng, quyết định đến thành phần loài Phù du. Mặt khác, sự phân bố của Phù du còn
phụ thuộc vào độ cao, độ che phủ của rừng.
Gần đây, các công trình nghiên cứu đề cập đến khả năng sử dụng Phù du là
sinh vật chỉ thị chất lƣợng môi trƣờng nƣớc vì nhiều lồi thuộc bộ Phù du rất nhạy
cảm với sự biến đổi của môi trƣờng nhƣ một số cơng trình của Landa và Soldan
(1991), Bufagni (1997) [44].
* Nghiên cứu về bộ Chuồn chuồn (Odonata)
Chuồn chuồn thuộc nhóm cơn trùng ăn thịt ngay từ giai đoạn thiếu trùng
sống trong nƣớc cho đến giai đoạn trƣởng thành. Vòng đời của chúng trải qua 3 giai
đoạn: trứng, thiếu trùng, con trƣởng thành. Thiếu trùng thƣờng sống trong nƣớc,
chủ yếu ở vùng nhiệt đới hoặc vùng khí hậu ấm, con trƣởng thành sống trên cạn. Bộ
Chuồn chuồn đƣợc chia thành 3 phân bộ là: phân bộ Anisozygoptera, phân bộ
Zygoptera (Chuồn chuồn kim) và phân bộ Anisoptera (Chuồn chuồn ngô). Phân bộ
Anisozygoptera chỉ có 1 giống là Epiophlebia, giống này có một số loài chỉ phân bố
ở độ cao khoảng 2.000m ở những con suối thuộc Nhật Bản và vùng núi cao
Himalaya (Tani & Miyatake, 1979; Kumar & Khanna, 1983). Hai phân bộ còn lại
phân bố rộng cả ở nơi nƣớc đứng cũng nhƣ nƣớc chảy với số lƣợng lồi vơ cùng
phong phú [39].

6


Các nghiên cứu về Chuồn chuồn đƣợc bắt đầu từ khoảng cuối thế kỉ 19,
nhƣng phải sang thế kỉ 20 Chuồn chuồn mới ngày càng nhận đƣợc chú ý nhiều hơn

của các nhà nghiên cứu phân loại học và sinh thái học. Ở giai đoạn đầu, các cơng
trình nghiên cứu về Chuồn chuồn chủ yếu tập trung mơ tả hình dạng và đặc điểm
ngoài các loài Chuồn chuồn thu thập đƣợc ở châu Á và châu Âu nhằm xây dựng
khóa định loại. Điển hình cho các cơng trình nghiên cứu này là: Needham (1930),
Fraser (1933, 1934, 1936), Askew (1988), Zhao (1990), Hisore & Itoh (1993),
Wilson (1955) [1]. Merritt và Cummins (1996), xây dựng khóa định loại tới giống ở
cả giai đoạn thiếu trùng và trƣởng thành bộ Chuồn chuồn thuộc khu vực Bắc Mỹ.
Ở khu vực châu Á, Chowdhury và Akhteruzzaman (1981) là những ngƣời
đầu tiên công bố một công trình nghiên cứu về Chuồn chuồn ở Bangladesh. Hai ơng
đã mơ tả chi tiết các thiếu trùng của 13 lồi Chuồn chuồn thuộc bộ phụ Anisoptera.
Ngồi ra cịn một số cơng trình điển hình khác nhƣ: Nasiruddin và Begum (1985),
Asahina (1993), Subramanian (2005). Ở Việt Nam phải kể đến các cơng trình
nghiên cứu về Chuồn chuồn của Asahina (1969, 1996), Karube (1999, 2002),
Hoàng Đức Huy (2001), Đỗ Mạnh Cƣơng (2003) [5].
Ngồi các cơng trình nghiên cứu về phân loại học cịn có những cơng trình
nghiên cứu về Sinh học, Sinh thái học và Tập tính sinh học của Corbet (1999),
Silsby (2001) [5]. Các cơng trình nghiên cứu này chủ yếu dựa vào giai đoạn trƣởng
thành. Đối với giai đoạn thiếu trùng, Ishida & Ishida (1985) đã xây dựng khóa định
loại có kèm theo hình vẽ rõ ràng tới giống ở vùng châu Á [1].
* Nghiên cứu về bộ Cánh úp (Plecoptera)
Hiện nay, trên thế giới bộ Cánh úp đƣợc biết khoảng 2.000 lồi và là một
trong những nhóm cơn trùng có các đặc điểm nguyên thủy với nhóm có cánh hiện
nay. Hóa thạch của chúng đƣợc tìm thấy đầu tiên thuộc kỷ Pecmi, nó có những đặc
điểm khác biệt với Cánh úp hiện đại về số đốt bàn và cánh ở phần ngực (Hynes,
1976) [24].
Để nhận dạng bộ Cánh úp, ngƣời ta dựa vào một số đặc điểm: chúng có 3 đốt
bàn nhƣng chân sau khơng biến đổi để thích hợp theo kiểu nhảy nhƣ một số loài

7



thuộc bộ Cánh thẳng (nhƣ dế và châu chấu). Chúng có ăng ten dài dạng chỉ, tơ đi
khá dài đặc biệt là các thiếu trùng ở nƣớc. Hầu hết, cánh của các loài thuộc bộ Cánh
úp rất phát triển nhƣng đơi khi lại ngắn. Các đặc điểm đó dùng để phân biệt chúng
với bộ Cánh màng. Ấu trùng bộ Cánh úp trải qua thời gian dài sống ở nƣớc. Các
thiếu trùng Cánh úp giống con trƣởng thành ở nhiều đặc điểm. Thiếu trùng ln có
tơ đi dài và khơng bao giờ có tơ đi ở giữa. Mang nếu có, chỉ tìm thấy ở phần
ngực và phần bụng đƣợc tạo thành giữa các tơ đuôi. Thiếu trùng sống chủ yếu ở
nƣớc, có một vài lồi sống trong đất ẩm (Harpers và Stewart, 1996) [24].
So với khu vực ơn đới thì các nghiên cứu về Plecoptera ở khu vực nhiệt đới
vẫn còn ít (Sheldon và Theischinger, 2009) mặc dù các khu vực này có mức đa
dạng của Plecoptera rất cao (Zwick, 2000). Mức đa dạng về Plecoptera ở châu Á là
lớn hơn nhiều so với châu Âu hoặc Bắc Mỹ nhƣng kiến thức thì cịn khá nghèo nàn
(Fochetti và Tierno de Figueroa, 2008) [56].
Khu hệ Cánh úp ở châu Á đƣợc nghiên cứu bởi những nhà khoa học châu Á
và châu Âu. Trong suốt những thập niên 30 của thế kỷ XX, Wu và Claassen (1934,
1935, 1937, 1938) đã mơ tả khóa định loại Cánh úp ở miền Nam Trung Quốc.
Kawai (1961 - 1975) nghiên cứu một vài loài ở Ấn Độ, Bangladesh đến phía Nam
châu Á. Zwick và Sivec (1980) mơ tả một số loài Cánh úp ở Himalaya. Vào thập
niên 80 của thế kỷ XX, Zwick (1980, 1983, 1985, 1988) cũng đƣa ra những nghiên
cứu về khu hệ Cánh úp ở Đông Nam Á. Uchida và cộng sự (1988, 1989) mơ tả một
vài lồi thuộc Perlinae (Perlidae) ở Malaysia, Thái Lan và mô tả 2 giống thuộc
Peltoperlidae (Cryptoperla và Yoraperla) ở Nhật Bản và Đài Loan. Stark (1979,
1987, 1983, 1991, 1999) đã ghi nhận nhiều loài mới trong họ Peltoperlidae và
Perlidae ở châu Á. Gần đây, Du (1998, 1999, 2000) đã công bố những tài liệu liên
quan đến Perlidae ở miền Nam Trung Quốc [24].
Morse J. C., Yang Lianfang & Tian Lixin (1994); Merritt & Cummins (1996)
khi nghiên cứu khu hệ Cánh úp ở Trung Quốc và Bắc Mỹ, các tác giả đã xây dựng
khóa định loại tới giống thiếu trùng của bộ này, đó là cơ sở cho việc định loại các
loài thuộc bộ Cánh úp ở Trung Quốc và Bắc Mỹ sau này [39].


8


* Nghiên cứu về bộ Cánh lông (Trichoptera)
Cánh lông là một trong những bộ có số lƣợng lồi phong phú. Những nghiên
cứu về hệ thống phân loại bậc cao của bộ Cánh lông đƣợc thực hiện bởi Ross (1956,
1967) và sau đó tiếp tục đƣợc bổ sung và hồn thiện bởi Morse (1997) [29].
Bộ Cánh lông đƣợc nghiên cứu ở Đông Nam Á từ rất sớm bởi Ulmer (1911,
1915, 1925, 1927, 1930, 1932) và Navás (1913, 1917, 1922, 1930, 1932), đặc biệt
là Ulmer khi nghiên cứu khu hệ động vật ở Indonesia (1951, 1955, 1957). Ơng đã
cung cấp những thơng tin cơ bản về Cánh lông ở khu vực nghiên cứu này. Cánh
lông ở Borneo đã đƣợc nghiên cứu khá tỷ mỉ lần đầu bởi Kimmins (1955). Ở
Philippin, Banks (1937) là ngƣời đầu tiên nghiên cứu khu hệ Cánh lông ở khu vực
này. Tiếp đến là Ulmer (1955, 1957) nghiên cứu dựa vào giai đoạn ấu trùng. Trong
khi đó các hƣớng nghiên cứu khác lại dựa vào giai đoạn trƣởng thành. Đặc biệt
trong giai đoạn gần đây việc nghiên cứu dựa vào giai đoạn trƣởng thành lại càng
đƣợc quan tâm nhƣ: Kimmis (1953), Banard (1980, 1984), Oláh (1987-1989),
Chantaramongkol (1986, 1989, 1995), Malicky (1970, 1979, 1987, 1989, 1992 1998, 2002-2004), Malicky và Chantaramongkol (1989, 1991 - 1994, 1996 - 2000),
Mey (1989, 1990, 1995 - 1999, 2001 - 2003), Weavers (1985, 1987, 1989, 1992,
1994), Ismail (1993, 1996), Scheffer (2001), Armitage và Arefina (2003), Klaithong
(2003) [29]. Ismail (1993, 1996, 1997) cũng tiến hành nghiên cứu trên ấu trùng
Cánh lông tại một số nƣớc ở khu vực Đơng Nam Á [39].
Ngồi các cơng trình nghiên cứu ở các nƣớc Đông Nam Á, khu hệ Cánh lông
cũng đƣợc quan tâm nghiên cứu ở các quốc gia khác nhƣ: Ấn Độ, Srilanka đƣợc
nghiên cứu bởi Martynov (1935, 1936), Trung Quốc (Martynov, 1931; Wang,
1963), Nhật Bản (Iwata, 1927; Tanida, 1987). Trong giai đoạn hiện nay, hƣớng
nghiên cứu đánh giá chất lƣợng nƣớc dựa trên đối tƣợng là các lồi thuộc nhóm cơn
trùng này đƣợc nhiều nhà khoa học quan tâm tìm hiểu. Do đó, các cơng trình liên
quan đến giai đoạn ấu trùng xuất hiện ngày càng đồ sộ nhƣ nghiên cứu của Wiggins

(1996) [29]. Ở khu vực Bắc Mỹ, Merritt R. W. & Cummins K. W. (1996), đã xây

9


dựng khóa định loại tới giống của bộ Cánh lơng ở cả giai đoạn ấu trùng và trƣởng
thành [38].
* Nghiên cứu về bộ Cánh rộng (Megaloptera)
Bộ Cánh rộng đƣợc xem là nhóm cơn trùng ngun thủy trong nhóm cơn
trùng biến thái hồn tồn. Hiện nay, bộ Cánh rộng có khoảng 300 loài đƣợc biết trên
thế giới và chia thành hai họ là: Corydalidae và Sialidae. Giai đoạn trƣởng thành ở
cạn và ăn thịt, thƣờng hoạt động vào ban đêm. Tuy nhiên, giai đoạn ấu trùng lại
sống dƣới nƣớc và ăn thịt các loài động vật [39].
Số lƣợng loài thuộc họ Sialidae rất phong phú ở các thủy vực nƣớc ngọt nhƣ:
sơng, suối, hồ nơi có nhiều mùn, các mảnh vụn, cát hoặc sỏi nhỏ. Chúng trải qua 5
lần lột xác và sống đƣợc khoảng 1 năm trong vòng đời của mình. Ấu trùng rời khỏi
các thủy vực nƣớc ngọt và hóa nhộng. Các lồi thuộc họ này lại phân bố rất hẹp. Ở
châu Á, họ này mới chỉ phân bố ở vùng ôn đới thuộc Hàn Quốc, Nhật Bản và một
số nơi ở Trung Quốc (Bank, 1940) [39].
* Nghiên cứu về bộ Cánh cứng (Coleoptera)
Bộ Cánh cứng là bộ lớn nhất trong giới Động vật. Hiện nay, số loài thuộc bộ
cơn trùng này vào khoảng 277.000 đến 350.000 lồi và khoảng 10.000 thuộc nhóm
cơn trùng nƣớc [39]. Theo các kết quả nghiên cứu nhóm sống dƣới nƣớc đƣợc xem
là đa dạng nhất ở khu hệ suối vùng nhiệt đới. Hiện nay, các cơng trình nghiên cứu
về bộ Cánh cứng tập trung vào phân loại học, sinh thái học, tiến hóa nhƣ: các
nghiên cứu của Feng (1932, 1933), Gschwendtner (1932), Fernando (1962, 1969),
Nertrand (1973), Jach (1984). Heinrich & Balke (1997), Gentuli (1995), Jach & Ji
(1995, 1998, 2003) [40] đã cung cấp khá đầy đủ những dẫn liệu về phân loại học
của bộ Cánh cứng ở châu Á.
Wu và cộng sự đã xác định ở Trung Quốc có 601 lồi, Sato (1988) đã định

loại đƣợc 311 loài ở Nhật Bản, Britton (1970) xác định ở Úc có khoảng 510 lồi và
White (1984) đã phân loại đƣợc 1.143 loài ở khu vực Bắc Mỹ thuộc bộ Cánh cứng
[39].

10


* Nghiên cứu về bộ Hai cánh (Diptera)
Các nghiên cứu về bộ Hai cánh đã đƣợc rất nhiều các nhà khoa học cơng bố,
đặc biệt là các cơng trình nghiên cứu của Alexander (1931), Mayer (1934), Zwich
& Hortle (1989) [38]. Đối với khu vực châu Á, Delfinado & Hardy (1973, 1975,
1977) đã tổng hợp một danh lục khá đầy đủ về thành phần loài của bộ Hai cánh ở
miền Ấn Độ - Mã Lai. Khóa định loại tới họ và giống hiện nay chủ yếu thực hiện
theo khóa định loại đƣợc xây dựng bởi Harris (1990) [39].
* Nghiên cứu về bộ Cánh nửa (Hemiptera)
Hiện nay, trên thế giới đã xác định đƣợc trên 4.000 loài thuộc bộ Cánh nửa
sống ở nƣớc (Dudgeon, 1999). Trong đó, khu vực châu Á có số lƣợng lồi chiếm ƣu
thế, đặc biệt có rất nhiều giống đặc hữu, thậm chí có cả những phân họ đặc hữu ở
khu vực này (Andersen, 1982; Spence & Andersen, 1994) [40].
Các cơng trình nghiên cứu về bộ Cánh nửa ở châu Á đƣợc bắt đầu khá sớm
bằng các nghiên cứu của Lundblad (1933), La Rivers (1970), Lansbury (1972,
1973) [39]. Các họ trong bộ này cũng đƣợc nghiên cứu khá tỷ mỷ nhƣ: Nepidae
đƣợc nghiên cứu bởi Keffer (1990), Naucoridae là họ rất đa dạng ở vùng nhiệt đới
châu Á đã đƣợc nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu nhƣ Nieser & Chen (1991,
1992), Sites và cộng sự (1997) [40]. Merritt & Cummins (1996), Morse & cộng sự
(1994) đã xây dựng khóa định loại tới giống của các họ thuộc bộ Cánh nửa ở khu
vực Bắc Mỹ và Trung Quốc [38] [39].
Bộ Cánh nửa bao gồm 3 phân bộ: Gerromorpha, Nepomorpha và
Leptopodomorpha. Phân bộ Gerromorpha gồm hầu hết những cơ thể côn trùng sống
trên bề mặt của nƣớc. Trong phân bộ này, có hai họ lớn là Velliidae (trên thế giới có

khoảng 850 lồi) và họ Gerridae (khoảng 700 lồi) (Chen và cộng sự, 2005). Theo
Bendell (1988), Damgaard & Andersen (1996) các loài trong họ Gerridae đƣợc xem
nhƣ những sinh vật chỉ thị cho chất lƣợng môi trƣờng nƣớc [59].
Ở Đông Nam Á, nghiên cứu khu hệ bộ Cánh nửa đã đƣợc tiến hành khoảng
50 năm trƣớc. Đặc biệt, trong giai đoạn gần đây các cơng trình của Zettel & Chen ở
Việt Nam (1996) và Thái Lan (1998). Các nghiên cứu tập trung vào việc mô tả, xây

11


dựng khóa định loại. Năm 2001, Cheng và cộng sự nghiên cứu các loài thuộc họ
Gerridae ở Singapore và bán đảo Malaysia. Chen và cộng sự (2005) nghiên cứu ở
Malesia [59]. Vùng Malesia bao gồm: bán đảo Malaysia, Indonesia, Philippines
và New Guinea.
* Nghiên cứu về bộ Cánh vảy (Lepidoptera)
Trong bộ Cánh vảy chỉ có một số lồi thuộc họ Pyralidae, Pyraustidae và
Crambidae sống ở nƣớc. Ở châu Á, các nghiên cứu về Lepidoptera chủ yếu là về
phân loại học trong đó có các nghiên cứu của Rose & Pajni (1987), Habeck & Solis
(1994) và Munroe (1995) [38]. Trong các nghiên cứu này, các tác giả cũng đã thành
lập khóa định loại cụ thể tới lồi.
1.2. Tình hình nghiên cứu cơn trùng nƣớc ở Việt Nam
* Nghiên cứu về bộ Phù du (Ephemeroptera)
Ở Việt Nam , trong những năm đầu của th ế kỷ 20, các mô tả về
Ephemeroptera cũng đƣơ ̣c đề câ ̣p và quan tâm nghiên c

ứu. Mở đầ u cho nhƣ̃ng

nghiên cƣ́u về Ephemeroptera ở Viê ̣t Nam , nhà côn trùng học Lestage (1921, 1924),
đã mô tả một loài mới của bộ Phù du cho khoa học, dựa vào mẫu vật đƣợc lƣu giữ ở
bảo tàng Paris . Ơng đă ̣t tên lồi là


Ephemera duporti, do các lồi thuộc giống

Ephemera có kích thƣớc lớn, phân bố khá rộng và dễ thu thập nên nó đƣợc tiếp tục
nghiên cứu ở giai đoạn này. Sau đó, Navas (1922, 1925) đã cơng bố hai lồi
Ephemera longiventris và Ephemera innotata, cũng dƣ̣a trên các m ẫu vật thu đƣợc
ở miền Bắc Việt Nam. Cho đến nay, hai loài này cũng chƣa tim
̀ thấ y ở các khu v ực
phân bố khác, nên có thể xem chúng nhƣ là lồi đặc hữu cho khu hệ Ephemeroptera
ở Việt Nam.
Đặng Ngọc Thanh (1967), cũng đã đề cập đến thành phần loài của Phù du
(Ephemeroptera), tác giả đã mơ tả một lồi mới thuộc họ Heptageniidae. Đặng
Ngọc Thanh (1980), xác định khu hệ Phù du ở Bắc Việt Nam bao gồm 54 loài, 29
giống thuộc 13 họ khác nhau. Tuy nhiên trong số này chỉ có 13 lồi là đƣợc định tên
đầy đủ, số còn lại chỉ ở mức độ giống. Trong nghiên cứu này đã mơ tả hai lồi cho

12


khoa học đó là Thalerosphyrus vietnamensis Dang và Neopheieridae cuaraoensis
Dang [9].
Braasch and Soldan (1984, 1986, 1988) đã mô tả 10 loài mới thuộc họ
Heptageniidae thu đƣợc từ một số suối, cho khu hệ Ephemeroptera ở Việt Nam,
trong đó thành lập thêm 2 giống là Asionurus và Trichogeniella.
Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự (2001), khi xây dựng khố định loại các
nhóm động vật không xƣơng sống nƣớc ngọt thƣờng gặp ở Việt Nam đã đƣa ra
khoá định loại tới họ ấu trùng Phù du [7].
Nguyen Van Vinh and Yeon Jae Bae (2001, 2003, 2004, 2005, 2006, 2007,
2008) ở một số Vƣờn Quốc gia của Viê ̣t Nam . Những nghiên cứu này, đã công bố
hàng loạt các kết quả về các loài Ephemeroptera ở Việt Nam, và đã b ổ sung danh

sách thành phần lồi, mơ tả các lồi mới, cũng nhƣ xây dựng các khóa định loại tới
lồi [42] [43] [45] [46] [47] [48] [49].
Nguyễn Văn Vịnh (2003), đã xác định đƣợc 102 loài thuộc 50 giống và 14
họ Phù du ở Việt Nam. Trong nghiên cứu này, tác giả đã xây dựng khóa định loại
và mơ tả đặc điểm hình dạng ngồi của các lồi thuộc bộ Phù du ở Việt Nam,
nghiên cứu này là cơ sở để phục vụ cho các hƣớng nghiên cứu tiếp theo về bộ Phù
du ở nƣớc ta [43].
Nguyễn Văn Vịnh (2004), khi nghiên cứu về Phù du ở Vƣờn Quốc gia Tam
Đảo đã xác định đƣợc 32 loài thuộc 24 giống và 8 họ. Trong đó, có 10 lồi lần đầu
tiên ghi nhận cho Vƣờn Quốc gia Tam Đảo, Vĩnh Phúc, đó là: Platybaetis edmundsi
Muller - Liebenau, 1980; Baetiella trispinata Tong and Dudgeon, 2000; Serratella
albostriata Tong and Dudgeon, 2000; Torleya arenosa Tong and Dudgeon, 2000;
Cincticostella boja Allen, 1975; Ephemera serica Eaton, 1871; Choroterpes
trifrucata Ulmer, 1939; Habrophlebiodes prominens Ulmer, 1939; Caenis
cornigera Kang and Yang, 1994; Isonychia formosana Ulmer, 1912 [12]. Ngoài
việc phân loại các lồi thuộc bộ cơn trùng này, tác giả cịn nhận xét về sự phân bố
của chúng theo độ cao của suối Thác Bạc.

13


Nguyễn Văn Vịnh (2005), khi nghiên cứu về Phù du ở Vƣờn Quốc gia Ba
Vì, Hà Tây đã thu đƣợc 27 lồi thuộc 22 giống và 9 họ. Trong đó có một lồi ghi
nhận lần đầu tiên cho khu vực là Teloganodes tristis (Hagen, 1858) [14]. Trong
khoảng thời gian này, tác giả cũng tiến hành điều tra thành phần loài Phù du ở một
số Vƣờn Quốc gia khác ở Việt Nam [16] [17].
* Nghiên cứu về bộ Chuồn chuồn (Odonata)
Nghiên cứu về khu hệ thiếu trùng Chuồn chuồn ở Việt Nam còn tản mạn và
chƣa thành hệ thống. Chủ yếu các nghiên cứu tập trung vào giai đoạn trƣởng thành.
Bộ Chuồn chuồn ở Việt Nam đƣợc nghiên cứu lần đầu tiên vào những năm đầu thập

niên 90 của thế kỷ XX dƣới thời Pháp thuộc bởi một số nhà nghiên cứu ngƣời Pháp:
Martin trong báo cáo đƣợc công bố năm 1902 khi điều tra khu hệ động vật Đông
Dƣơng. Trong báo cáo này, ơng cơng bố 139 lồi thuộc 3 họ: Libellulidae,
Aeshnidae và Agrionidae. Trong 139 lồi, Martin đã mơ tả 9 loài mới và một giống
mới là Merogomphus [1].
Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự (2001), khi xây dựng khóa định loại các
nhóm động vật khơng xƣơng sống nƣớc ngọt thƣờng gặp ở Việt Nam đã xây dựng
khóa định loại tới họ của bộ Chuồn chuồn [7].
Nguyễn Văn Vịnh và cộng sự (2001), trong nghiên cứu khu hệ côn trùng
nƣớc ở Vƣờn Quốc gia Tam Đảo đã xác định đƣợc 26 loài thuộc 12 họ của bộ
Chuồn chuồn ở khu vực này. Tuy nhiên, do những nghiên cứu về phân loại thiếu
trùng chuồn chuồn ở Việt Nam còn ít. Do đó, những mẫu vật thu đƣợc mới chỉ phân
loại đến bậc giống [2].
* Nghiên cứu về bộ Cánh úp (Plecoptera)
Ở Việt Nam, những nghiên cứu về bộ Cánh úp đã đƣợc quan tâm nghiên cứu
trong thơi gian gần đây. Một vài lồi đã đƣợc mơ tả bởi Kawai (1968, 1969), Zwick
(1988), Stark và cộng sự (1999) [24], nhƣng tất cả các mẫu vật đều ở giai đoạn
trƣởng thành. Mục đích của những nghiên cứu là nhằm xác định lại và mơ tả một số
lồi mới thuộc bộ Cánh úp dựa trên những nghiên cứu trƣớc đó và những điều tra về
sau của cả giai đoạn trƣởng thành và ấu trùng đƣợc thu thập ở Việt Nam. Thêm vào

14


đó là việc xác định khóa định loại tới lồi của bộ Cánh úp ở cả giai đoạn trƣởng
thành và ấu trùng ở Việt Nam cũng nhƣ sinh thái, nơi ở của chúng. Cao Thị Kim
Thu (2002), đã xây dựng khóa định loại tới lồi Cánh úp ở Việt Nam. Cơng trình là
cơ sở khoa học cho các nghiên cứu về bộ Cánh úp ở nƣớc ta [24].
Nguyễn Văn Vịnh và cộng sự (2001), khi nghiên cứu về nhóm cơn trùng
nƣớc ở Vƣờn Quốc gia Tam Đảo đã tiến định loại các loài thuộc bộ Cánh úp. Kết

quả cho thấy số loài Cánh úp ở Vƣờn Quốc gia Tam Đảo là 12 loài thuộc 3 họ [12].
* Nghiên cứu về bộ Cánh lông (Trichoptera)
Ở Việt Nam, bộ Cánh lông đƣợc nghiên cứu từ rất sớm. Những tài liệu về
Cánh lông đã đƣợc xuất bản bởi các nhà phân loại học đến từ các nƣớc châu Âu
nhƣ: Đức (Ulmer, 1907), Tây Ban Nha (Navás, 1913). Sau những nghiên cứu đầu
tiên của Ulmer về 2 lồi Hydromanicus buenningi và Paraphlegopteryx tonkinensis,
ơng đã đặt nền móng cho việc nghiên cứu về Cánh lơng ở Việt Nam. Tiếp theo,
Navás (1913, 1917, 1921, 1922, 1930, 1932, 1933) đã mơ tả một số lồi thuộc các
tổng họ của Hydropsychoidae, Philopotamoidae (Stenopsychidae), Leptoceroidae,
Limnephiloidae và Rhyacophiloidae. Banks (1931) và Mosely (1934) [23] nghiên
cứu về Hydropsychoidae, Limnephiloidae và Rhyacopphiloidae. Oláh (1987 - 1989)
mơ tả các lồi thuộc Glossosomatoidae, Hydroptiloidae và Rhyacophiloidae [29].
May (1995-1998) và Malicky (1994, 1995, 1998), mô tả các loài thuộc các
họ Hydropsychoidae, Glossosomatoidae, Rhyacopphiloidae, Phiolopotamoidae,
Limnephiloidae, Hydroptiloidae, Sericostomatoidae và Leptoceroidae từ các mẫu
vật thu đƣợc ở một số vùng của Việt Nam. Malicky và Mey (2001), mô tả 2 loài
mới thuộc giống Ceratopsyche ở miền Bắc Việt Nam. Schefter và Johanson (2001),
mơ tả 3 lồi thuộc giống Helicopsyche. Nguyễn Văn Vịnh và cộng sự (2001) định
loại đƣợc 23 lồi thuộc 16 họ của bộ Cánh lơng ở Vƣờn Quốc gia Tam Đảo khi
nghiên cứu về nhóm cơn trùng nƣớc tại khu vực này [2].
Nguyễn Xuân Quýnh, Clive Pinder, Steve Tilling (2001), đã xây dựng khóa
định loại tới họ của bộ Cánh lông thƣờng gặp ở nƣớc ta. Hồng Đức Huy (2005) mơ

15


tả đặc điểm hình dạng, cấu tạo ngồi của các lồi Cánh lơng ở Việt Nam dựa vào
giai đoạn ấu trùng [7].
* Nghiên cứu về các bộ Cánh cứng, bộ Hai cánh, bộ Cánh nửa, bộ Cánh
vảy và bộ Cánh rộng

Ở nƣớc ta, các cơng trình nghiên cứu về bộ Cánh cứng (Coleoptera), Hai
cánh (Diptera), bộ Cánh vảy (Lepidoptera) và bộ Cánh rộng (Megaloptera) còn tản
mạn. Các nghiên cứu thƣờng không tập trung vào một bộ cụ thể mà thƣờng đi cùng
với các cơng trình nghiên cứu về khu hệ cơn trùng nƣớc nói chung nhƣ: Nguyễn
Văn Vịnh (2001) nghiên cứu ở Vƣờn Quốc gia Tam Đảo [42]; Cao Thị Kim Thu,
Nguyễn Văn Vịnh và Yeon Jae Bae (2008) nghiên cứu ở Vƣờn Quốc gia Bạch Mã
[26], Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự (2001) khi định loại các nhóm động vật
không xƣơng sống nƣớc ngọt thƣờng gặp ở Việt Nam [7].
Những nghiên cứu đầu tiên về khu hệ Cánh nửa ở Việt Nam đƣợc bắt đầu
vào những năm đầu của thế kỷ XX. Loài đầu tiên thuộc họ Gerridae (Hemiptera)
đƣợc mô tả ở Việt Nam là Ptilomera hylactor Breddin, 1903 thuộc Bắc Việt Nam.
Tiếp theo, khu hệ Gerridae ở Việt Nam tiếp tục đƣợc mô tả bởi Andersen (1975,
1980, 1993); Andersen & Cheng (2004); Polhemus (2001); Chen & Zettel (1999),
Polhemus & Andersen (1994); Polhemus & Karunaratne (1993) [59].
Trần Anh Đức (2008), mơ tả khá đầy đủ và chi tiết hình dạng ngoài của các
loài thuộc họ Gerridae ở Việt Nam. Đây là cơ sở khoa học cho các nghiên cứu về bộ
Cánh nửa ở nƣớc ta [59].
1.3. Tình hình nghiên cứu cơn trùng nƣớc ở Vƣờn Quốc gia Hồng Liên
Vƣờn Quố c gia Hoàng Liên nằ m trong khu vƣ̣c Tây Bắ c Viê ̣t Nam

, là một

trong nhƣ̃ng nơi có điạ hình đa da ̣ng và phƣ́c ta ̣p, với nhiề u núi cao và hê ̣ thố ng suố i
tƣ̣ nhiên dày đặc , do vâ ̣y rấ t phù hơ ̣p cho sƣ̣ tồ n ta ̣i và phát triể n của côn trùng



nƣớc. Các nhà khoa học trong và ngồi nƣớc đã có nhiều nghiên cứu về khu hệ côn
trùng nƣớc ở đây với nhiều hƣớng khác nhau.


16


Nguyễn Văn Vịnh (2005), khi điều tra thành phần loài Phù du ở một số suối
tại Sapa, tỉnh Lào Cai, đã xác định đƣợc 53 loài thuộc 31 giống và 11 họ. Đồng
thời, xác định đƣợc 10 loài ghi nhận mới cho khu hệ côn trùng của Việt Nam [13].
Nguyễn Văn Quân (2006), khi nghiên cứu về thành phần loài Phù du tại suối
Mƣờng Hoa, Sapa, tỉnh Lào Cai đã xác định đƣợc 57 loài thuộc 29 giống và 9 họ.
Kết quả này, đã bổ sung cho khu hệ Phù du ở Sapa, Lào một họ là Isonychiidae với
một loài Isonychia formosana. Hầu hết loài này chỉ phân bố ở khu vực suối thấp [6].
Jung S.W et al. (2006) khi nghiên cứu về côn trùng nƣớc ở một số suối khu
vực Sapa, tỉnh Lào Cai thu đƣợc tổng cộng 211 lồi thuộc 138 giống, 61 họ của 9
bộ cơn trùng nƣớc. Trong đó có 66 lồi Cánh lơng, 53 lồi Phù du, 35 loài Cánh
cứng, 24 loài Hai cánh, 15 loài Cánh ups 9 loài Chuồn chuồn, 7 loài Cánh nửa, 1
loài Cánh rộng và 1 loài Cánh vảy [32].
Nhâm Thị Phƣơng Lan (2007), khi nghiên cứu về đa dạng thành phần lồi
của 3 bộ cơn trùng nƣớc, trong đó có bộ Phù du tại suối Mƣờng Hoa, Sapa, tỉnh Lào
Cai, đã xác định đƣợc 60 loài thuộc 28 giống và 9 họ. Khu vực nghiên cứu này, có
mức độ đa dạng lồi Phù du cao, mặc dù trong đó nhiều họ nhƣ Baetidae, Caenidae,
hầu hết các loài chƣa xác định đƣợc tên cụ thể, điều này tiềm ẩn nhiều loài mới cho
khoa học [4].
Phạm Thị Thúy Hồng (2010), khi nghiên cứu thành phần loài, phân bố cùa
Phù du (Ephemeroptera, Insecta) tại một số suối thuộc Vƣờn Quốc gia Hoàng Liên,
tỉnh Lào Cai đã xác định đƣợc 71 loài thuộc 35 giống, 12 họ [3].
1.4. Một số đặc điểm tự nhiên của Vƣờn Quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai
1.4.1. Vị trí địa lý
Vƣờn Quố c gia Hoàng Liên nằ m trong khu vƣ̣c Tây Bắ c Viê ̣t Nam , có vị trí
điạ lý tƣ̀ 22°9’- 23°30’ đơ ̣ vi ̃ Bắ c và 103°00 - 103°59’ đô ̣ kinh Đông. Về điạ giới
hành chính gồm 6 xã: San Sả n Hồ , Lao Chải , Tả Van, Bản Hồ, Mƣờng Khoa, Thân
Thuô ̣c thuô ̣c huyê ̣n Sa Pa và huyê ̣n Than Uyên , tỉnh Lào Cai. Diê ̣n tích Vƣờn Quố c

gia là 51.803 ha. Trong đó vùng lõi là

29.848 ha, là phần cuối cùng của dãy

Himalaya cha ̣y do ̣c sông Hồ ng theo hƣớng Tây Bắ c - Đông Nam [10].
17


1.4.2. Điạ hin
̀ h
Hoàng Liên là một hệ thống các đỉnh núi cao trên

2000 m cha ̣y theo hƣớng

Tây Bắ c - Đông Nam. Đặc biệt ở Vƣờn Quố c gia có đỉnh núi Phansipan cao 3143m
so với mă ̣t nƣớc biể n . Các hệ chính của dãy núi thoải dần theo hƣớng Đông Bắc và
Tây Nam ta ̣o thành hai sƣờn chin
́ h của daỹ Hoàng Liên trong đó sƣờn Đông Bắ c
thuô ̣c huyê ̣n Than Uyên . Các dạng địa hình chủ yếu của Vƣờn Quốc

gia Hoàng

Liên gồ m núi cao, thung lũng, sƣờn núi đồ i [10].
1.4.3. Điạ chấ t và thở nhƣỡng
Hồng Liên đƣợc cấu tạo từ các loại đá nguồn gốc mắc

- ma nhƣ granit ,

amphibolit, filit, đá vôi, trong đó đá granit là phổ biế n nhấ t (Vũ Tự Lập, 1999). Điạ
chấ t và điạ hình, kế t hơ ̣p với khí hâ ̣u làm nên thổ nhƣỡng , quy luâ ̣t phân bố các loa ̣i

đấ t đai ở Vƣ ờn Quốc gia Hoàng Liên theo đai đô ̣ cao đƣơ ̣c thể hiê ̣n khá rõ

. Nhìn

chung, các loại đất ở đây có , hàm lƣợng mùn cao , phầ n lớn là dạng viên nhỏ , q
trình xói mịn và rửa trơi yếu, đơ ̣ tơi xớ p cao, đô ̣ ẩ m lớn, đô ̣ dầ y tầ ng đấ t phổ biế n là
ở mức trung bình (tƣ̀ 50 - 120cm), phầ n cơ giới thiṭ nhe ̣ , thịt trung bình , thịt nặng
[10].
1.4.4. Khí hậu
Do ở phí a Đông của daỹ Hoàng Liên , có địa hình phức tạp nên khí hậu ở
Vƣờn Q́ c gia Hoàng Liên cũng bi ̣phân hóa ma ̣nh mẽ theo đơ ̣ cao và hƣớng điạ
hình. Mơ ̣t đă ̣c trƣng của khí hâ ̣u Hoàng Liên là hầ u nhƣ quanh năm duy trì tin
̀ h
trạng ẩm ƣớt. Độ ẩm tƣơng đối trung bình năm khoảng trên 85%, tháng mƣa ít nhất
trung biǹ h cũng đa ̣t 20 - 30 mm. Tổ ng bƣ́c xa ̣ mă ̣t trời có chỉ số phổ biế n tƣ̀ 100 135 Kcal/cm2/năm. Nhiê ̣t đô ̣ không khí trung bin
̀ h năm tƣ̀

13 - 21°C, lớn ở sƣờn

Tây, nhỏ ở sƣờn Đông . Nhiê ̣t đô ̣ cao đa ̣t đỉnh vào tháng 6 - 7 có chỉ số 16 - 25°C.
Nhiê ̣t đô ̣ thấ p nhấ t vào các tháng 12 và tháng 1, nhiề u năm xuố ng dƣới 5°C. Vào
mùa đơng thƣờng có băng giá và tuyết rơi đơi khi có thể

x́ ng dƣới -3°C. Lƣơ ̣ng

mƣa phân bố không đề u giƣ̃a các tháng trong năm , đă ̣c biê ̣t vào các tháng mùa hè ,
lƣơ ̣ng mƣa tƣơng đố i cao . Mùa mƣa bắt đầu từ giữa tháng
trong đó có hai tháng có lƣơ ̣ng mƣa lớn nhấ t l
18


3 đến giữa tháng 10,

à tháng 7 (454,3mm) và tháng 8


(453,8mm). Vào mùa đông , do nhiê ̣t đô ̣ ha ̣ thấ p , hạn chế lƣợng bay hơi nƣớc , vì
vâ ̣y, đây là khoảng thời gian mƣa it́ nhấ t trong năm

, lƣơ ̣ng mƣa trung bin
̀ h trong

tháng khoảng 50 - 100 mm, thấ p nhấ t vào tháng 12 (63,6mm) nhƣng do nhiê ̣t đô ̣
thấ p nên thấ y rằ ng khu vƣ̣c Hoàng Liên không có tháng nào khô . Lƣơ ̣ng ẩ m khơng
khí ở khu vực Hồng Liên tƣơng đối cao , trung bin
̀ h năm khoảng 86%. Tháng có độ
ẩm lớn nhất là tháng 9 và tháng 11 với giá tri ̣ 90%, tháng có độ ẩm nhỏ nhất là
tháng 4 có giá trị 82% (Nguyễn Nghiã Thin
̀ , 2008) [10].
1.4.5. Thủy văn
Do đă ̣c điể m điạ hình của khu vƣ̣c , Vƣờn Quố c gia Hoàng Liên đƣơ ̣c ta ̣o
thành từ hai sƣờn chính : sƣờn Đông Bắ c dố c thoải về phiá sông Hồ ng và sƣờn Tây
Nam dố c thoải về phía sông Đà , vì vậy trong khu vực cũng tạo nên hai hệ suối
chính:
- Hê ̣ thố ng suố i thuô ̣c khu vƣ̣c Đông Bắ c gồ m 3 suố i chin
́ h: Mƣờng Hoa bắ t
nguồ n tƣ̀ Phanxipan, Séo Trung Hồ bắ t nguồ n tƣ̀ Tả Van , Tả Trung Hồ bắt nguồn từ
Bản Hồ. Ba suố i này gă ̣p nhau ta ̣i khu vƣ̣c Bản Dề n ta ̣o thành ngòi Bo đổ ra sông
Hồ ng. Vì địa hình dốc , chia cắ t ma ̣nh, nên về mùa đông chúng chỉ là suố i ca ̣n song
về mùa mƣa, đă ̣c biê ̣t là vào các tháng có lƣơ ̣ng mƣa tâ ̣p trung (7,8,9) thƣờng có lũ
và lũ quét.

- Hê ̣ thố ng suố i thuô ̣c khu vƣ̣c Tây Nam daỹ Hoàng Liên gồ m hai suố i chính :
Suố i Nâ ̣m Bé bắ t nguồ n tƣ̀ Phansipan và suố i Nâ ̣m Pao , Nâ ̣m Chăng. Cả hai suối
này đều chảy ra con ngòi lớn Nậm Mu và đổ ra sơng Đà . Ngồi hai h ệ thớ ng ś i
chính thuộc hai sƣờn của dãy Hồng Liên , cịn một con suối bắt nguồn từ lƣu vực
th ̣c xã Sa Pả và mô ̣t phầ n tƣ̀ Sa Pa, chảy theo hƣớng Đông Bắ c đổ vào sông Hồ ng
tại thị xã Lào Cai [6].

19


×