Tải bản đầy đủ (.doc) (136 trang)

Chất lượng công tác tuyên truyền, cổ động của các đảng bộ xó miền núi ở tỉnh bắc giang giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (576.78 KB, 136 trang )

Mục lục

Trang
1

Mở đầu

Chơng 1: công tác tuyên truyền, cổ động của các Đảng
bộ xà miền núi ở tỉnh bắc giang - những vấn
đề lý luận và thực tiễn

1.1. Công tác tuyên truyền, cổ động của Đảng
1.2. Công tác tuyên truyền, cổ động ở các Đảng bộ xÃ
miền núi tỉnh Bắc Giang

9
9
15

Chơng 2: chất lợng công tác tuyên truyền, cổ động của
các đảng bộ xà miền núi ở tỉnh bắc giang từ
năm 1997 đến nay - thực trạng, nguyên nhân
và bài học kinh nghiệm

2.1. Thực trạng chất lợng công tác tuyên truyền, cổ

41

động của các Đảng bộ xà miền núi ở tỉnh Bắc
Giang từ năm 1997 đến nay
2.2. Nguyên nhân và kinh nghiệm



41
73

Chơng 3: phơng hớng và giải pháp nâng cao chất lợng
công tác tuyên truyền, cổ động của các Đảng
bộ xà miền núi ở tỉnh bắc giang giai đoạn
hiện nay

80

3.1. Mục tiêu, phơng hớng nâng cao chất lợng công tác
tuyên truyền, cổ động của các Đảng bộ xà miền
núi ở tỉnh Bắc Giang giai đoạn hiện nay
3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất l-

80

ợng công tác tuyên truyền, cổ động của các Đảng
bộ xà miền núi ở tỉnh Bắc Giang giai đoạn hiện
nay

kIến nghị
kết luận
Danh mục tài liƯu tham kh¶o
pHơ LơC

89
112
114

117


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BCV

:

Báo cáo viên

CNH, HĐH

:

Công nghiệp hố, hiện đại hố

CTTT, CĐ

:

Cơng tác tun truyền, cổ động

ĐTT

:

Đài truyền thanh

HĐND


:

Hội đồng nhân dân

MTTQ

:

Mặt trận Tổ quốc

TSVM

:

Trong sạch vững mạnh

TTV

:

Tun truyền viên

UBND

:

Uỷ ban nhân dân

VHTT


:

Văn hố thơng tin

VHX

:

Văn hố xã


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn chú trọng xây dựng Đảng
vững mạnh cả về ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, trong đó cơng tác tư
tưởng là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công tác xây
dựng Đảng. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Cơng việc thành hay bại
một phần lớn là do nơi tư tưởng đạo đức, thái độ và lề lối làm việc của cán bộ
đảng viên, do đó tồn Đảng phải tư tưởng nhất trí, hành động nhất trí, đồn
kết nhất trí thì mới làm trịn nhiệm vụ của Đảng. Trong các bộ phận cấu thành
của công tác tư tưởng, Đảng ta luôn nhận thức rõ được tầm quan trọng của
công tác tuyên truyền, cổ động, coi đây là bộ phận trọng yếu trong hoạt động
của mình và quyết tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện tốt các hoạt động
tun truyền cổ động, tạo khơng khí sơi động khích lệ, cổ vũ động viên tâm lý
tích cực; tạo động lực tinh thần to lớn để lôi cuốn đảng viên và quần chúng
nhân dân, tổ chức các hoạt động cách mạng, các phong trào thi đua yêu nước,
dẫn dắt tư tưởng đúng và hành động đúng theo một mục tiêu chung được đặt
ra cho mỗi nhiệm vụ, mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn cách mạng.

Hiện nay, công tác tư tưởng nói chung và hoạt động tuyên truyền, cổ
động nói riêng của Đảng ta có nhiều thuận lợi, nhưng cũng phải đối mặt với
những thách thức không nhỏ, nhất là trong bối cảnh tình hình thế giới đang có
nhiều diễn biến phức tạp và thay đổi khó lường. Cuộc đấu tranh giữa hệ tư
tưởng vô sản và hệ tư tưởng tư sản, giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư
bản, giữa lực lượng cách mạng và lực lượng phản cách mạng ngày càng trở
nên phức tạp hơn. Những hoạt động phá hoại trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá
đã tác động tiêu cực đến niềm tin, ý chí cách mạng của một bộ phận cán bộ,
đảng viên và quần chúng nhân dân. Đây là bối cảnh đặt ra yêu cầu cần phải
tăng cường công tác tư tưởng nói chung và cơng tác tun truyền, cổ động nói
riêng; phải không ngừng nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, cổ động


2
nhằm phát huy tính tích cực chính trị của cán bộ, đảng viên, quần chúng vừa
để chủ động đập tan các âm mưu phá hoại tư tưởng của các thế lực thù địch,
không ngừng giữ vững và tăng cường trận địa tư tưởng của Đảng.
Ngày nay, khoa học - công nghệ đang phát triển như vũ bão; đặc biệt
công nghệ thơng tin bùng nổ và phát triển nhanh chóng ở nước ta. Mặt khác,
đất nước ta mở cửa hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng trên tất cả các lĩnh
vực. Rất nhiều loại hình thơng tin mới hiện đại đã xuất hiện, đáp ứng ngày
càng kịp thời và đầy đủ nhu cầu thông tin đa dạng phong phú của cán bộ,
đảng viên và nhân dân. Tuy nhiên, với vai trị, sức mạnh ưu thế riêng có của
mình, cơng tác tuyên truyền, cổ động vẫn là hình thức cơ bản không thể thay
thế, không thể xem nhẹ.
CTTT,CĐ cũng phải không ngừng được đổi mới cho phù hợp với
hoàn cảnh và đáp ứng nhu cầu cán bộ, đảng viên và nhân dân để giữ vững
được vai trò định hướng dư luận xã hội, định hướng được tư tưởng, cổ vũ
động viên hành động của nhân dân, nhất là ở cơ sở miền núi. Đồng thời cần
nâng cao chất lượng tuyên truyền, cổ động đáp ứng yêu cầu sự nghiệp cách

mạng trong giai đoạn hiện nay.
Bắc Giang là tỉnh miền núi, được tái lập từ ngày 01/01/1997, với diện
tích 3.882,6 km2, dân số 1.555.720 người (theo số liệu điều tra dân số và nhà ở
thời điểm 01/4/2009 ), gồm 9 huyện (Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam, Yên
Thế, Lạng Giang, Tân Yên, Hiệp Hòa, Việt Yên, Yên Dũng) và thành phố Bắc
giang, với 230 xã, phường, thị trấn. Nằm ở phía Đơng Bắc Bộ, phía Bắc và
Đơng Bắc giáp tỉnh Lạng Sơn, phía Tây và Tây Bắc giáp tỉnh Thái Nguyên,
phía Nam và Tây Nam giáp tỉnh Hải Dương, Bắc Ninh và Thành phố Hà Nội,
phía Đơng giáp tỉnh Quảng Ninh.
Mặc dù tình hình chính trị - an ninh, trật tự, xã hội tương đối ổn định,
kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao, song nhìn chung nền kinh tế của tỉnh vẫn
chủ yếu là nông, lâm nghiệp. Nguồn thu ngân sách hạn hẹp, GDP bình quân


3
đầu người cịn thấp hơn nhiều so với bình qn chung của cả nước. Nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với các
cấp, các ngành và các địa phương, nhất là vùng sâu, vùng xa, khu vực miền
núi... Đồng thời, đòi hỏi phải được phát huy cao độ vai trị, chức năng, nhiệm
vụ của các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận và đoàn thể nhân dân các cấp,
đặc biệt là trách nhiệm của đội ngũ cán bộ nói chung, trước hết là đội ngũ cán
bộ tuyên giáo, báo cáo viên, tuyên truyền viên ở cơ sở, bởi lẽ đây là lực lượng
sẽ đưa chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước đến được với các tầng
lớp nhân dân trong tỉnh - lực lượng chủ yếu phổ biến, tổ chức thực hiện các
chỉ thị, nghị quyết, quyết định của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước
ở địa bàn các xã trong tỉnh.
Với đặc điểm nổi bật này đặt ra yêu cầu bức thiết và thường xuyên
phải tuyên truyền, cổ vũ, khích lệ động viên, tạo tâm lý tích cực và động cơ
quyết tâm nỗ lực cố gắng cao nhất của tồn Đảng bộ, chính quyền và nhân
dân thúc đẩy mạnh mẽ, nhanh quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh,

nhanh chóng vươn lên thu hẹp dần khoảng chênh lệch về trình độ phát triển
chung cả nước.
Xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương và những u
cầu có tính cấp thiết đang đặt ra cho cơng tác tư tưởng nói chung, cơng tác
tun truyền cổ động nói riêng, tác giả đã lựa chọn đề tài "Chất lượng công tác
tuyên truyền, cổ động của các đảng bộ xã miền núi ở tỉnh Bắc Giang giai
đoạn hiện nay" để nghiên cứu và làm luận văn tốt nghiệp khoá học thạc sỹ
chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam tại Học viện Chính trị - Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua đã có nhiều đề tài, bài viết nghiên cứu về cơng
tác tư tưởng, tun truyền nói chung trong đó có đề cập đến công tác tuyên
truyền, cổ động của Đảng với quy mơ, góc độ, khía cạnh, phạm vi, thời gian


4
khác nhau. Có cơng trình nghiên cứu vấn đề này trong các nội dung khác
nhau của công tác tư tưởng, cũng có những cơng trình chun sâu, chun
khảo như:
- Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương, Tăng cường lãnh đạo, tiếp tục
đổi mới nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tuyên truyền miệng trong
thời kỳ mới (Kỷ yếu Hội nghị báo cáo viên xuất sắc toàn quốc lần thứ nhất),
Hà Nội, 8 - 2001.
- Hội đồng Chỉ đạo biên soạn giáo trình chun ngành cơng tác tư
tưởng (Thơng tin cổ động), Hà Nội, 2002.
- Hồng Quốc Bảo, Phương pháp tuyên truyền Hồ Chí Minh - Những đặc
trưng và sự vận dụng để đổi mới phương pháp tuyên truyền của cán bộ tư tưởng
cấp tỉnh và huyện của Đảng hiện nay. Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội - 2004.
- Hoàng Quốc Bảo, Học tập phương pháp tuyên truyền cách mạng Hồ
Chí Minh, Nxb CTQG, HN - 2006.

- Vũ Văn Vở, "Chất lượng công tác tuyên truyền miệng của các đảng
bộ huyện ở tỉnh Hải Dương trong giai đoạn hiện nay". Luận văn thạc sĩ Khoa
học chính trị, Hà Nội, năm 2009.
- Nguyễn Khoa Điềm: Một số biện pháp để tăng cường cơng tác tư
tưởng. Tạp chí Tư tưởng - Văn hoá, số 10/2005, tr.3.
- Nguyễn Khoa Điềm: Tun truyền nhân tố mới, điển hình tiên tiến,
góp phần hình thành phong trào thi đua theo phong cách mới, tiêu chuẩn
mới. Tạp chí Tư tưởng - Văn hố, số 12/2004, tr.3.
- Lương Đông Hải: Mấy yếu tố bảo đảm chất lượng báo cáo miệng.
Tạp chí Tư tưởng - Văn hoá, số 11/1996, tr.35.
- Lập luận trong tuyên truyền miệng. Tạp chí Tư tưởng - Văn hố, số
9/1996, tr.34.
- Nâng cao chất lượng tuyên truyền gương tốt, điển hình tiên tiến,
nhân tố mới trên báo chí. Tạp chí Tư tưởng - Văn hoá, số 12/2004, tr.41.


5
- Nguyễn Đình Then: Hải Phịng tăng cường lãnh đao đội ngũ báo
cáo viên và công tác tuyên truyền miệng. Tạp chí Tư tưởng - Văn hố, số
5/2005, tr.43.
- Trần Thanh Hải: Xây dựng Ban Tuyên giáo xã, phường, thị trấn
vững mạnh, đáp ứng yêu cầu đưa thông tin về cơ sở. Tạp chí Tư tưởng - Văn
hố, số 8/2005, tr.40.
- Vũ Vọng: Những vấn đề cần quan tâm trong công tác tư tưởng ở các
xã miền núi tỉnh Bắc Giang. Tạp chí Tư tưởng - Văn hố, số 11/2005, tr.37.
- Quốc Hiệp: Hiệu quả tuyên truyền miệng ở Đăk Lăk. Tạp chí Tư
tưởng - Văn hố, số 5/2007, tr.54.
- Nguyễn Huy Ngọc: Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền trong
tình hình hiện nay. Tạp chí Tư tưởng - Văn hố, số 6/2007, tr. 49.
Các cơng trình, đề tài nghiên cứu, các bài viết trên các tạp chí kể trên,

cũng phần nào đã làm sáng tỏ, phong phú thêm những luận cứ khoa học, các vấn
đề lý luận và thực tiễn công tác tuyên truyền, cổ động. Tuy nhiên, những đề tài
nghiên cứu, những cơng trình, bài viết đó mới chỉ đề cập vấn đề tun truyền nói
chung; hình thức, nội dung, phương pháp tuyên truyền miệng, hoặc thực hiện
tuyên truyền riêng của một số địa phương, đơn vị nhất định, mà chưa đề cập
nhiều đến nội dung, hình thức, phương pháp tuyên truyền, cổ động. Cho đến nay
chưa có tác giả nào đi sâu nghiên cứu về "Chất lượng công tác tuyên truyền, cổ
động của các đảng bộ xã miền núi ở tỉnh Bắc Giang giai đoạn hiện nay".
Luận văn này sẽ kế thừa, tiếp thu một cách có chọn lọc các cơng trình nghiên
cứu của các nhà khoa học, các tác giả có liên quan về cơng tác này, để tập trung
nghiên cứu sâu vấn đề trên, góp phần nâng cao chất lượng cơng tác tun truyền,
cổ động của các xã miền núi tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng công tác tuyên
truyền, cổ động ở các đảng bộ xã miền núi, góp phần làm rõ cơ sở lý luận và


6
thực tiễn của công tác tuyên truyền, cổ động Luận văn đề xuất một số nhóm
giải pháp có tính khả thi nhằm giúp cấp ủy, chính quyền, đồn thể ở các xã
miền núi Bắc Giang làm tốt hơn nữa công tác tuyên truyền, cổ động đáp ứng
yêu cầu của công tác xây dựng Đảng, phục vụ đắc lực hơn nữa các nhiệm vụ
chính trị của Đảng bộ, chính quyền, đồn thể ở địa phương trong thời kỳ mới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn.
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết các vấn đề sau:
- Làm rõ khái niệm, vị trí vai trị và tiêu chí đánh giá chất lượng, hiệu quả
của cơng tác tun truyền, cổ động ở các đảng bộ xã miền núi tỉnh Bắc Giang.
- Tập hợp tư liệu, khảo sát, điều tra phân tích đánh giá thực trạng cơng
tác tun truyền, cổ động của các đảng bộ xã miền núi ở tỉnh Bắc Giang.

- Đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu có tính khả thi để nâng
cao hơn nữa chất lượng công tác tuyên truyền, cổ động của đảng bộ xã miền
núi tỉnh Bắc Giang hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Chất lượng công tác tuyên truyền, cổ động của các đảng bộ xã miền
núi ở tỉnh Bắc Giang hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu chất lượng công tác tuyên truyền, cổ động
của đảng bộ xã miền núi trong toàn tỉnh; thời gian khảo sát từ 1997 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở những nguyên lý và phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường
lối, nghị quyết của Đảng ta về công tác tuyên truyền, cổ động. Đồng thời,
Luận văn kế thừa kết quả của các cơng trình khoa học, bài báo, bài viết và tài


7
liệu có liên quan đến nội dung của đề tài. Sử dụng các báo cáo, tờ trình về
cơng tác tun giáo của các đảng bộ xã miền núi với Ban Tuyên giáo các
huyện uỷ thuộc Đảng bộ tỉnh Bắc Giang.
5.2. Cơ sở thực tiễn
Luận văn nghiên cứu công tác tuyên truyền, cổ động của các đảng bộ
xã miền núi ở tỉnh Bắc Giang từ khi tái lập tỉnh đến nay (1997 - 2010); những
đóng góp của cơng tác tun truyền cổ động vào kết quả thực hiện các
chương trình kinh tế - xã hội của các đảng bộ xã ở tỉnh Bắc Giang những năm
gần đây; thực trạng đội ngũ những người làm công tác tuyên truyền, cổ động;
điều kiện phương tiện, những hình thức cụ thể để tiến hành công tác tuyên
truyền, cổ động trên từng địa bàn cụ thể của các xã miền núi.

5.3. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể như: tổng hợp, phân
tích, chọn mẫu thống kê, khảo sát thực tế; so sánh, điều tra xã hội học,
phương pháp chuyên gia.v.v.
6. Những đóng góp về mặt khoa học và ý nghĩa của luận văn
- Góp phần làm rõ quan niệm về chất lượng cơng tác tun truyền, cổ
động; hình thành tiêu chí đánh giá về chất lượng cơng tác tun truyền, cổ động
trong hồn cảnh hiện nay.
- Đánh giá đúng thực trạng chất lượng công tác tuyên truyền, cổ động
trong thời gian qua và đề xuất phương hướng, nhiệm vụ và những giải pháp
chủ yếu có tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, cổ
động ở các xã miền núi trong tỉnh.
- Luận văn có thể sử dụng làm nguồn tài liệu tham khảo cho cấp uỷ và
ban Tuyên giáo các cấp nói chung và các đảng bộ xã miền núi ở tỉnh Bắc
Giang nói riêng vận dụng trong việc nâng cao chất lượng công tác tuyên
truyền, cổ động trong giai đoạn hiện nay.


8
- Luận văn cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo và bồi dưỡng
nghiệp vụ công tác tuyên truyền, cổ động cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo ở cơ
sở; trong giảng dạy cho đội ngũ cán bộ ở Trường Chính trị tỉnh và trung tâm
bồi dưỡng chính trị cấp huyện. Làm tài liệu nghiên cứu, phục vụ công tác
tuyên truyền, cổ động những năm tiếp theo.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu thành 03 chương, 06 tiết.



9
Chương 1
CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, CỔ ĐỘNG
CỦA CÁC ĐẢNG BỘ XÃ MIỀN NÚI Ở TỈNH BẮC GIANG NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, CỔ ĐỘNG CỦA ĐẢNG

1.1.1. Quan niệm tuyên truyền và công tác tuyên truyền
* Quan niệm tuyên truyền
Theo tiếng La tinh, “tuyên truyền” (propaganda) là truyền bá, truyền
đạt một quan điểm nào đó. Trong tác phẩm Người tuyên truyền và cách tuyên
truyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Tuyên truyền là đem một việc gì nói
cho dân hiểu, dân nhớ, dân làm” [45, tr.162].
Theo một số tài liệu nghiên cứu, thuật ngữ tuyên truyền đầu tiên đã
được nhà thờ La Mã sử dụng để chỉ hoạt động của các nhà truyền giáo với sứ
mệnh thuyết phục, lôi kéo những người khác phấn đấu theo đức tin của đạo
Kitô. Về sau, thuật ngữ tuyên truyền được sử dụng một cách rộng rãi nhằm
biểu đạt một cách cụ thể (như ngơn ngữ, hình ảnh, đạo cụ...) nhằm tác động
đến suy nghĩ, tư tưởng tình cảm của người khác, hướng họ hành động theo
một khuynh hướng nhất định [61, tr.87].
Trong Bách khoa toàn thư Liên Xơ, thuật ngữ tưn truyền có hai
nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, tuyên truyền là sự truyền bá
những quan điểm, tư tưởng về chính trị, triết học, khoa học, nghệ thuật...
nhằm biến quan điểm, tư tưởng ấy thành ý thức xã hội, thành hành động cụ
thể của quần chúng. Theo nghĩa hẹp, tuyên truyền là truyền bá những quan
điểm lý luận nhằm xây dựng cho quần chúng một thế giới quan nhất định phù
hợp với lợi ích của chủ thể tuyên truyền và kích thích những hoạt động thực tế
phù hợp với thế giới quan ấy. Như vậy, tuyên truyền theo nghĩa hẹp chính là
tuyên truyền tư tưởng, tuyên truyền chính trị mà mục đích của nó là hình



10
thành trong đối tượng tuyên truyền một thế giới quan nhất định, một kiểu ý
thức xã hội nhất định và cổ vũ tính tích cực xã hội của con người.
Tuyên truyền là: thuyết phục người khác bằng những căn cứ lý luận
khoa học, nhất là đối với tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin.
Tuyên truyền là hoạt động tác động vào thế giới bên trong của con
người (nội tâm), khi tác động thì chủ yếu dùng lý thuyết, tác động vào lĩnh
vực trí tuệ, vào ý thức tư tưởng vào nhận thức của con người và thường diễn
ra trong suốt quá trình tiến hành hoạt động tuyên truyền.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Tun truyền là đem một việc gì nói
cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu khơng đạt được mục đích đó
là tun truyền thất bại ” [49, tr.167].
Tuyên truyền có nhiều kiểu loại tùy theo cách phân chia. Nếu phân
theo tính chất hệ tư tưởng mà nó truyền bá thì có tun truyền tư sản và tuyên
truyền vô sản... Nếu phân theo nội dung mà nó chuyển tải thì có tun truyền
kinh tế, tun truyền chính trị, tun truyền văn hóa... Nếu phân theo phạm vị
tác động đến đối tượng thì có tun truyền cá biệt (cho một người), tuyên
truyền nhóm và tuyên truyền đại chúng (cho đông người). Nếu phân theo
phương thức tác động thì có tun truyền miệng, tun truyền trực quan,
tun truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng hay tuyên truyền trực
tiếp và tuyên truyền gián tiếp. Ngoài ra, cịn có thể phân tun truyền thành
tun truyền đối nội và tuyên truyền đối ngoại, v.v.
* Quan niệm công tác tun truyền
Cơng tác tun truyền là một hình thái, một bộ phận cấu thành của
công tác tư tưởng nhằm truyền bá hệ tư tưởng và đường lối chiến lược, sách
lược cho quần chúng thế giới quan phù hợp với lợi ích của chủ thể hệ tư
tưởng, hình thành và củng cố niềm tin, tập hợp và cổ vũ quần chúng hành
động theo thế giới quan và niềm tin đó.
Trong cơng tác tư tưởng của Đảng và Nhà nước ta, công tác tuyên

truyền là hoạt động nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí


11
Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và
những tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân loại... làm cho chúng trở thành
nhân tố chi phối, thống trị trong đời sống tinh thần của xã hội; động viên, cổ
vũ tính tích cực, tự giác, sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
* Vai trị của cơng tác tun truyền
Cơng tác tun truyền có vai trị rất to lớn trong sự nghiệp cách mạng
cũng như trong tiến trình phát triển của xã hội lồi người. Vai trị quan trọng
của cơng tác tun truyền thể hiện ở chỗ, nó truyền bá, phổ biến hệ tư tưởng
cách mạng trong xã hội, trước hết là trong các lực lượng xã hội tiên tiến, khơi
dậy tính sáng tạo cách mạng của quần chúng, động viên lực lượng quần chúng
tham gia sự nghiệp cách mạng, góp phần tổ chức các phong trào cách mạng,
chuẩn bị tiền đề về tư tưởng, lý luận và con người cho các cuộc cách mạng.
Chính vì vậy, trong các thời kỳ vận động cách mạng, vào “đêm trước” của cuộc
cách mạng cũng như trong tồn bộ tiến trình các cuộc cách mạng xã hội thường
xuất hiện các nhà tư tưởng, các nhà tuyên truyền kiệt xuất, những “vĩ nhân đi
đầu” mà tên tuổi và sự nghiệp của họ gắn liền với các cuộc cách mạng ấy. Cơng
tác tun truyền, vì vậy trở thành một công tác cách mạng và là công tác cách
mạng đầu tiên của bất kỳ giai cấp cách mạng và tổ chức cách mạng nào.
Ở nước ta, công tác cách mạng đầu tiên mà Chủ tịch Hồ Chí Minh tiến
hành sau khi tìm thấy hệ tư tưởng cách mạng của thời đại chính là cơng tác
tun trưyền. Năm 1925, khi về Quảng Châu (Trung Quốc), Người đã mở
những lớp huấn luyện đầu tiên cho cách mạng Việt Nam. Nội dung chủ yếu
của chương trình huấn luyện, đào tạo cán bộ lúc bấy giờ là truyền bá những
vấn đề cơ bản nhất về chủ nghĩa Mác - Lênin, về lý luận và phương pháp cách
mạng, về đạo đức cách mạng.

C.Mác đã viết: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên khơng thể thay thế
được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng


12
lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một
khi nó thâm nhập vào quần chúng” [42, tr.580]. Vai trị của cơng tác tun
truyền chính là làm cho “lý luận thâm nhập vào quần chúng để qua đó “trở
thành lực lượng vật chất”.
Là một bộ phận của công tác tư tưởng, công tác tuyên truyền đóng vai
trị hết sức quan trọng trong việc xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân ta.
Chính nhờ cơng tác tun truyền mà chủ nghĩa Mác - Lênin thâm nhập vào
quần chúng lao động, giúp họ giác ngộ về con đường cách mạng, lật đổ chế
độ cũ, xây dựng chế độ mới, về sức mạnh đấu tranh cứu bản thân mình, về vai
trò, sứ mệnh, mục tiêu, lý tưởng của Đảng, tự nguyện đi theo Đảng, tự nguyện
gia nhập Đảng, làm cho đội ngũ của Đảng ngày càng mở rộng. Đồng thời,
thông qua việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, chính sách của
Đảng, giáo dục về phẩm chất, đạo đức cách mạng cho đảng viên... cơng tác
tun truyền góp phần xây dựng Đảng thường xuyên vững mạnh về chính trị,
tư tưởng và tổ chức, trong sáng về đạo đức, lối sống.
Cơng tác tun truyền góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam có ý thức làm
chủ, ý thức trách nhiệm cơng dân; có tri thức và sức khỏe; sống có văn hóa và
tình nghĩa; giàu lịng u nước và tinh thần quốc tế trong sáng.
Cơng tác tun truyền cịn góp phần đắc lực vào cuộc đấu tranh tư
tưởng, chính trị của Đảng, đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hịa
bình”của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta, góp phần bảo vệ
Đảng, bảo vệ chế độ, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an tồn xã hội.
1.1.2. Quan niệm cổ động và công tác cổ động

* Quan niệm cổ động
Cổ động có xuất xứ là một từ Hán - Việt. “Cổ” là cái trống, “động” là
hoạt động. Người xưa thường đùng tiếng trống để làm tín hiệu thúc giục xung


13
trận chiến đấu hoặc chống lụt, chống bão, chữa cháy... Trong tiếng Latinh,
“Cổ động” (aghitaxia) có nghĩa là tiến hành vận động, thúc đẩy. Như vậy, cổ
động là thông tin, giải thích về những sự kiện đang diễn ra trong đời sống để
cổ vũ, động viên con người đi tới hành động.
A.V.Lunasacxki đã từng nhận định: “Chúng ta hiểu cổ động là nghệ
thuật làm xúc động quần chúng, tác động vào tình cảm của quần chúng để dẫn
dắt quần chúng đi theo mình” [40, tr. 393].
Cổ động thơng qua các phương tiện trực quan - là hoạt động chủ yếu
tác động bằng những sự kiện, hình ảnh nhằm trực tiếp vào các giác quan, tạo
nên những xúc cảm, biểu tượng, tác động chủ yếu vào lĩnh vực tình cảm, ý
chí và hành động cụ thể của con người và thường chỉ diễn ra trong một thời
gian nhất định.
* Quan niệm công tác cổ động
Công tác cổ động là thông qua những phương thức, công cụ riêng, chủ
yếu là các biện pháp trực quan, tác động trực tiếp vào nhận thức, tư tưởng,
tình cảm của các tầng lớp nhân dân, lơi cuốn họ vào những hoạt động theo
mục tiêu, chương trình đã định.
* Vai trị của cơng tác cổ động
Cơng tác cổ động là một bộ phận và là khâu trọng yếu của cơng tác tư
tưởng, có vai trị hết sức quan trọng. Nó là hoạt động có hiệu quả rất cao trong
việc thuyết phục, vận động quần chúng nhân dân tham gia vào việc thực hiện
các nhiệm vụ chính trị của đất nước.
Cơng tác cổ động đóng vai trị to lớn trong việc thông tin những vấn
đề quan trọng trong đường lối đối nội và đối ngoại hiện thời của Đảng và Nhà

nước, những nhiệm vụ của địa phương, của tập thể lao động, làm cho mọi
người thấy rõ tính đúng đắn của đường lối, chính sách của Đảng, kêu gọi,
hiệu triệu quần chúng nhân dân hành động thực hiện đường lối, chính sách và
các nhiệm vụ thực tiễn. V.I.Lênin đánh giá rất cao vai trị của cơng tác cổ


14
động trong việc giải quyết các nhiệm vụ phức tạp đặt ra trước Đảng, trong
cuộc đấu tranh cho thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cổ động chính trị là một bộ phận khơng thể thiếu trong hoạt động cách
mạng của Đảng, là công cụ lãnh đạo chính trị đối với quần chúng, nâng cao giác
ngộ chính trị của quần chúng, tạo ra sự nhất trí về quan điểm đối với những vấn
đề thuộc đường lối đối nội, đối ngoại của Đảng. V.I.Lênin nhấn mạnh rằng:
Cổ động chính trị khơng bao giờ phí hồi cả. Người ta đánh giá
kết quả của cơng tác cổ động chính trị khơng chỉ ở chỗ chúng ta có
thể ngay lúc này giành được đa số hay là sự thỏa thuận cùng phối
hợp hoạt động chính trị. Có thể chúng ta khơng đạt được ngay tức
khắc điều đó: nhưng vì chúng ta là một đảng vơ sản có tổ chức, nên
chúng ta không bối rối trước những thất bại tạm thời, trái lại, dù
trong những hồn cảnh khó khăn nhất, chúng ta cũng vẫn nhẫn nại,
bền bỉ và kiên trì tiến hành cơng tác của mình [38, tr.264].
Cổ động đóng vai trị quan trọng khơng chỉ trong giai đoạn cách mạng
giành chính quyền mà còn trong giai đoạn xây dựng đất nước, trong nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội.
Sau thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười vĩ đại, đất
nước Xô Viết bước vào công cuộc xây dựng hịa bình, V.I.Lênin cho rằng:
“Chính trị chủ yếu của chúng ta lúc này là xây dựng nước nhà về mặt kinh
tế... Và tồn bộ cơng tác cổ động và tuyên truyền của chúng ta đều phải dựa
trên cơ sở đó” [39, tr.483].
Đảng ta, trong tất cả các giai đoạn cách mạng, đều rất coi trọng công

tác cổ động và sử dụng cơng tác này như một vũ khí sắc bén, một công cụ tổ
chức mạnh mẽ để thúc đẩy tồn dân tham gia giành, giữ chính quyền, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Chỉ thị số 48 - TTG/VG ngày 27 tháng 4 năm 1968 của Chính phủ về
“ tăng cường công tác thông tin và cổ động ở miền núi trong giai đoạn chống


15
Mỹ, cứu nước hiện nay” nêu rõ: ... cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước của
nhân dân ta đang gay gắt, quyết liệt. Công tác thông tin và cổ động ở miền núi
lại càng quan trọng và rất cần thiết nhằm góp phần tăng cường khối đồn kết
của các dân tộc, nâng cao ý thức và tình cảm cách mạng của đồng bào đối với
Tổ quốc chung, phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần làm
chủ tập thể, bảo đảm làm tốt mọi công tác sản xuất, chiến đấu và tổ chức đời
sống để xây dựng miền núi thành hậu phương kiên cố của miền Bắc, làm căn
cứ địa vững mạnh cho cả nước, đưa miền núi tiến kịp miền xuôi, dân tộc thiểu
số tiến kịp dân tộc đa số,...
1.2. CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, CỔ ĐỘNG Ở CÁC ĐẢNG BỘ XÃ
MIỀN NÚI TỈNH BẮC GIANG

1.2.1. Đặc điểm, tình hình kinh tế - xã hội và các đảng bộ xã miền
núi ở tỉnh Bắc Giang
1.2.1.1. Đặc điểm, tình hình
* Điều kiện địa lý, tự nhiên, dân số
Bắc Giang có 230 xã, phường, thị trấn, trong đó có 174 xã miền núi và
08 thị trấn thuộc khu vực miền núi; chia ra có 135 xã, thị trấn miền núi và 47
xã, thị trấn vùng cao, (trong số các xã miền núi, vùng cao có 30 xã đặc biệt
khó khăn (khu vực III) và 97 thôn, bản đặc biệt khó khăn thuộc 32 xã, thị trấn
(khu vực II) vào diện đầu tư của Chương trình 135 giai đoạn II) trong đó, có
01 huyện (Sơn Động) được đầu tư theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP của

Thủ tướng Chính phủ về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững
đối với 62 huyện nghèo cả nước.
Đơn vị hành chính dưới cấp xã là 2.451 thơn (bản). Trong đó, có 2.070
thơn (bản) thuộc khu vực miền núi chiếm 84,42% so với tổng số thơn (bản)
tồn tỉnh. Đồng bào các dân tộc thiểu số cư trú, sinh sống trên địa bàn cả 10
huyện, thành phố trong tỉnh, nhưng tập trung chủ yếu ở 105 xã, thị trấn thuộc
06 huyện miền núi, vùng cao là: Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam, Yên Thế,


16
Lạng Giang, Tân Yên với 46.330 hộ, riêng ở khu vực miền núi là 45.790 hộ,
chiếm 98,83% tổng số hộ dân tộc, còn lại ở khu vực trung du, đồng bằng 540
hộ. Tỉnh 21 có thành phần dân tộc, trong đó người Kinh là gần 88%, dân tộc
thiểu số là 20 với số dân là 192.941 người, chiếm 12,4%. Cụ thể: dân tộc
Nùng 73.932 người, chiếm 38,32%; dân tộc Tày 39.603 người, chiếm
20,53%; dân tộc Sán dìu 26.812 người, chiếm 13,9%; dân tộc Hoa 18.444
người, chiếm 9,56%; dân tộc Sán Chay (Cao Lan, Sán Chí) 24.786 người,
chiếm 12,85%; dân tộc Dao 8.871người, chiếm 4,6%; các dân tộc khác 493
người, chiếm 0,25%. Nhiều xã có diện tích rộng, địa hình hiểm trở, đi lại khó
khăn, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu kém. Ở nhiều xã vùng sâu, vùng
xa còn tồn tại một số phong tục lạc hậu cịn chưa được xóa bỏ.
* Tình hình phát triển kinh tế - xã hội
Từ năm 1997 đến nay, sau hơn 10 năm tái lập tỉnh, nền kinh tế của
tỉnh đã có những bước phát triển quan trọng. Các cấp ủy đảng, chính quyền từ
tỉnh đến cơ sở đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện
có hiệu quả các chính sách phát triển kinh tế, gắn tăng trưởng kinh tế với thực
hiện công bằng xã hội.
Tỉnh đã quan tâm xây dựng và triển khai nhiều chính sách phát triển
kinh tế - xã hội miền núi. Trong 5 năm trở lại đây đã huy động được 834 tỷ
đồng để đầu tư phát triển cho các huyện miền núi và vùng dân tộc; đề ra nhiều

cơ chế hỗ trợ phát triển đối với khu vực miền núi và những vùng khó khăn
như việc trợ giá, trợ cước; hỗ trợ đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất;
hàng năm, hỗ trợ mỗi xã nghèo 200 triệu đồng. Tiếp nhận đầu tư trên 714 tỷ
đồng từ các chương trình mục tiêu quốc gia như: Chương trình trồng mới 5
triệu ha rừng; Dự án giảm nghèo của Ngân hàng thế giới (WB); Chương trình
kiên cố hố trường học, cứng hố kênh mương và đường giao thơng nơng
thơn, nước sạch và vệ sinh môi trường; Dự án di dân khu vực Trường bắn
quốc gia TB1; chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn và gần


17
389 tỷ đồng từ các Chương trình 135 và 134. Đã thực hiện cho vay vốn phát
triển sản xuất đối với hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn theo
Quyết định số 32/QĐ-TTg ngày 5/3/2007 của Thủ tướng Chính phủ đạt trên 5
tỷ đồng; trong đó, năm 2007, đã cho 520 hộ vay 2.594 triệu đồng; năm 2008,
đã phân bổ cho 4 huyện: Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam, Yên Thế là 2.500
triệu đồng.
Sự nghiệp giáo dục ở các xã miền núi, đặc biệt khó khăn được quan
tâm, chất lượng giáo dục được nâng lên. Đến nay, 100% các xã có trường tiểu
học; tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi được đến trường tăng cao, nhất là ở các lớp
mẫu giáo; cơng tác chăm sóc sức khỏe nhân dân và đồng bào vùng dân tộc
được tăng cường, 100% các xã có trạm y tế, trong đó có 95% các trạm y tế
được xây dựng kiên cố; 100% số thơn, bản có nhân viên y tế phục vụ; Tỷ lệ
dân số có bảo hiểm y tế đạt gần 60%. Trong đó, có 108 xã miền núi đạt chuẩn
y tế; 100% người dân tại các xã đặc biệt khó khăn đã được cấp thẻ khám chữa
bệnh miễn phí theo Quyết định số 139/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ;
100% các xã đều có Bưu điện văn hóa, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể
thao được diễn ra thường xuyên mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.
* Con người, văn hố, tập qn, tơn giáo
Con người Bắc Giang là sự hòa nhập, hòa quyện giữa người bản địa

sống lâu đời ở địa phương với cư dân ở các tỉnh khác chuyển đến xây dựng
quê hương mới qua các thời kỳ lịch sử, từ thời phong kiến, thời thực dân Pháp
thống trị, đến thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Trong cơ cấu dân
số, dân số sống bằng nghề nông chiếm tới gần 80%.
Đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của nhân dân tỉnh Bắc Giang
ngày càng được cải thiện và khơng ngừng nâng cao. Tính đến 2009 trên địa
bàn tỉnh có 1.424 làng, thơn, bản, tổ dân phố, khu dân cư đạt danh hiệu “văn
hóa”, đạt tỷ lệ 58%; 303.275/380.169 hộ gia đình đạt danh hiệu “văn hóa”
(đạt 79,7%); 1.470 cơ quan văn hóa cấp huyện, thành phố (đạt 79%), 343


18
làng, bản, tổ dân phố văn hóa và 447 cơ quan văn hóa cấp tỉnh; 16 xã,
phường, thị trấn văn hóa). Sự nghiệp giáo dục - đào tạo tiếp tục phát triển tồn
diện theo hướng đa dạng hóa và xã hội hóa, xây dựng các trường học thân
thiện, góp phần thực hiện mục tiêu về nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài. Sự nghiệp y tế đã và đang được quan tâm đúng mức, công tác
y tế dự phòng và y tế cộng đồng được chăm lo hơn trước, từng bước nâng cao
chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân. Cơ sở vật chất và trang thiết bị cho
các bệnh viện, trạm xá được tăng cường. Cơng tác Dân số - Kế hoạch hóa gia
đình và trẻ em được duy trì thường xuyên và triển khai sâu rộng, nhất là ở
vùng sâu, vùng xa. Công tác Văn hóa - Thể thao và Du lịch ln được quan
tâm. Đời sống, xã hội, việc làm từng bước được cải thiện.
Tỉnh Bắc Giang có 21 dân tộc cùng chung sống hịa thuận, mỗi dân
tộc có phong tục, tập qn, ngôn ngữ, trang phục, ẩm thực riêng biệt, với bản
sắc và truyền thống văn hóa khác nhau. Kết cấu dân cư nhiều thành phần dân
tộc tạo cho Bắc Giang có truyền thống văn hóa phong phú, và đa dạng.
Các dân tộc anh em trên đất Bắc Giang sống trong các gia đình hạt
nhân (có trường hợp đến ba, bốn thế hệ ) tụ cư thành các cộng đồng bản làng
ven sơng, ven đồi, lấy gia đình làm đơn vị cơ bản để tổ chức kinh tế và tổ

chức xã hội. Sản xuất và chi tiêu, tín ngưỡng và tơn giáo, đóng góp việc làng,
việc nước đều lấy gia đình làm cơ sở.
Ở Bắc Giang cũng như cả nước, dòng họ đóng vai trị quan trọng.
Trong làng, bản có hai cộng đồng: Cộng đồng huyết thống - liên gia đình theo
dịng họ và cộng đồng địa vực - liên gia đình theo xóm ngõ. Hai loại cộng
đồng này lại thường liên kết lại với nhau tạo ra sự cố kết khá bền vững để xây
dựng và phát triển quê hương đất nước. Kết cấu xã hội này trên cơ sở kinh tế
tiểu nông truyền thống tạo ra sự ngưng kết trong thể chế kinh tế - xã hội ổn
định vững chắc mà ngày nay những mặt ưu việt của nó cịn được kế thừa để
phát triển.


19
Bắc Giang có 2 tơn giáo chính là đạo Phật và đạo Công giáo với hơn
186.000 người theo đạo chiếm hơn 11% dân số của tỉnh; trong đó Phật giáo
có trên 160 nghìn người, Cơng giáo có trên 26 nghìn giáo dân.
Những đặc điểm tự nhiên - xã hội của vùng đất Bắc Giang đã tạo nên
bản sắc riêng của con người Bắc Giang với tinh thần đoàn kết, gắn bó cộng
đồng; lịng u q hương đất nước, ý chí quật cường chống giặc ngoại xâm;
tính cần cù, nhẫn nại, chịu thương chịu khó; ln sáng tạo và hàm học hỏi.
Những đức tính q báu đó đã giúp con người Bắc Giang vượt qua mọi hoàn
cảnh vươn lên đấu tranh bảo vệ cuộc sống, xây dựng quê hương Bắc Giang
ngày càng no ấm hạnh phúc.
1.2.1.2. Đặc điểm của các đảng bộ xã miền núi ở tỉnh Bắc Giang
Các xã miền núi của tỉnh có vị trí địa kinh tế, địa chính trị trọng yếu.
Đây là nơi diễn ra mọi quá trình, mọi hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội của mọi tầng lớp nhân dân; là nơi tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng, trực tiếp đưa nghị quyết của Đảng, pháp luật và chính
sách của Nhà nước vào cuộc sống; là nơi thể hiện sự gắn bó máu thịt giữa
Đảng với nhân dân. Đây cũng là nơi thể hiện sự thành công cũng như những

hạn chế của đường lối, chính sách khi đưa vào cuộc sống; là nơi khẳng định
uy tín của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, hiệu quả hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Nó cũng vừa là địa bàn để đưa nghị
quyết của Đảng vào cuộc sống, vừa là nơi nảy sinh và đặt ra những vấn đề bổ
sung, là sáng tỏ nội dung nghị quyết của Đảng.
Tỉnh Bắc Giang được tái lập năm 1997, hệ thống tổ chức của Đảng
được lập tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính của Nhà nước. Hiện nay,
Bắc Giang có 09 đảng bộ huyện, 01 đảng bộ thành phố, (ngồi ra cịn có và
05 đảng bộ trực thuộc Tỉnh ủy) với 230 đảng bộ xã, phường, thị trấn (7
phường, 17 thị trấn và 206 xã - trong đó có 174 xã miền núi) và 3.842 chi bộ
trực thuộc các đảng bộ cơ sở với 63.381 đảng viên. Như vậy, đảng bộ xã, thị


20
trấn miền núi chiếm trên 75,65% tổng số đảng bộ xã, phường, thị trấn trong
tồn tỉnh. Ở thơn, bản, làng đa số chi bộ trực thuộc được thành lập theo địa
giới hành chính. Các đơn vị trường học, nhà trẻ, trạm y tế, các đơn vị kinh
tế... thành lập chi bộ hoặc tổ đảng.
Điều kiện địa lý, tự nhiên đã khiến Bắc Giang có những đảng bộ xã ở
đồng bằng và những đảng bộ xã ở vùng đồi núi. Trình độ nhận thức của người
dân nhất là ở vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa không đồng đều, nên trong
lãnh đạo,chỉ đạo của các đảng bộ xã về công tác tư tưởng nói chung và cơng
tác tun truyền, cổ động nói riêng địi hỏi phải sáng tạo, nhạy bén phù hợp
với thực tiễn của địa phương.
Cùng chung đặc điểm nổi bật của tỉnh là kinh tế nông nghiệp là chủ
yếu nên các đảng bộ huyện và xã, thị trấn ở tỉnh Bắc Giang đặt vấn đề lãnh
đạo, chỉ đạo phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới là
nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu.
Cũng như đa phần các tỉnh miền núi Bắc bộ, phần lớn các đảng viên
của các đảng bộ xã miền núi Tỉnh Bắc Giang tham gia sinh hoạt ở các chi,

đảng bộ nông thôn (100%), nên các vấn đề như: nhận thức không đồng đều;
nội dung, thời gian, điều kiện sinh hoạt của chi bộ cịn bất cập, hạn chế, v.v.
Vì vậy, địi hỏi cơng tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy phải uyển chuyển, gắn
sát với đặc điểm của chi bộ nông thôn.
Các chi, đảng bộ ở nông thôn miền núi của tỉnh hiện đang chịu nhiều tác
động của một số yếu tố đặc thù sau: địa hình vùng núi phức tạp, địa giới thường
rộng hơn đồng bằng khó khăn cho việc hoạt động và sinh hoạt của cán bộ đảng
viên và nhân dân; dân thưa đan xen nhiều dân tộc sinh sống ảnh hưởng đến việc
tương trợ, hộ giúp nhau trong sản xuất, sinh hoạt..; số lượng đảng viên trong các
đảng bộ xã miền núi thường không đông, phân tán ở các nơi cư trú, khơng đồng
đều về trình độ nhận thức, lứa tuổi, dân tộc. Chất lượng, năng lực lãnh đạo
không đồng đều trong từng đảng bộ và giữa đảng bộ các xã miền núi.


21
Công tác phát triển đảng chậm, việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tại chỗ
nhất là cán bộ người dân tộc cịn hạn chế. Cịn có chi bộ yếu kém, sức chiến
đấu chưa tốt. Phong tục tập qn cịn có nơi bao thủ lạc hậu; trình độ mặt
bằng dân trí còn thấp, phát triển kinh tế, xã hội còn nhiều khó khăn, cơ sở hạ
tầng kinh tế, xã hội cịn thấp. Thụ hưởng kết quả đổi mới các chính sách xã
hội cịn ít hơn các khu vực khác và địa bàn nhạy cảm về dân tộc và tơn giáo,
tín ngưỡng dễ bị lợi dụng, kích động...
Mơi trường hoạt động của cơ sở đảng có địa bàn rộng, nhiều sơng
ngịi, địa hình phức tạp chia cắt, điều kiện về giao thơng, thơng tin, liên lạc
cịn nhiều khó khăn. Dân cư nhỏ lẻ, phân tán, đan xen nhiều dân tộc với các
phong tục, tập quán tín ngưỡng khác nhau. Sản xuất chủ yếu là nơng, lâm
nghiệp, trình độ sản xuất chưa cao, chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm; trình độ
dân trí cịn thấp; mặt bằng các tiêu chí kinh tế, giáo dục, ý tế, văn hóa, xã hội
thấp hơn các vùng khác. Là nơi tập trung chủ yếu các xã đặc biệt khó khăn, xã
nghèo, hộ nghèo chủa tỉnh; là nơi đang triển khai chương trình, dự án, dễ phát

sinh các tiêu cực... Đây cũng là địa bàn trọng tâm chống phá của các thế lực thù
địch; tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây mất đồn kết, mất ổn định tình hình địa phương.
Chi bộ chủ yếu được tổ chức theo địa giới hành chính; lực lượng đảng
viên mỏng, nhiều chi bộ phải lãnh đạo từ 2 - 3 thôn; nhiều thôn, bản trắng
đảng viên (năm 2007 cịn 10 thơn bản, năm 2009 cịn thơn Nguyệt Đức - Vân
Hà - Việt n chưa có đảng viên). Cơ cấu đảng viên theo thành phần dân tộc,
tín ngưỡng, tơn giáo, nghề nghiệp, tuổi tác rất đa dạng: đảng viên có thể của
nhiều dân tộc khác nhau; hoạt động trên nhiều lĩnh vực, ngành nghề, có địa vị
xã hội khác nhau; theo các tín ngưỡng, tơn giáo khác nhau... Do vậy, trình độ,
năng lực, nhận thức giữa các nhóm đảng viên thường có sự chênh lệch, tạo ra
khoảng cách. Chất lượng chi bộ thấp hơn bình quân chung của tỉnh.
Trình độ cán bộ, đảng viên nhìn chung cịn hạn chế, thấp hơn mặt bằng
chung của tỉnh. Cán bộ, đảng viên ít có điều kiện tiếp cận thông tin, nhất là cập


22
nhật thông tin thời sự, các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng
và Nhà nước, nên khó khăn, hạn chế trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị.
Mối quan hệ gia đình, thân tộc giữa các đảng viên trong chi bộ khá
bền chặt, nhiều chi bộ chỉ tâp trung vào vài ba dịng họ; có gia đình nhiều thế
hệ từ ơng, bố, con cháu là đảng viên cùng sinh hoạt trong chi bộ. Đặc điểm
này ảnh hưởng đến thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và
phê bình và tính chiến đấu của đảng viên, của chi bộ.
Do điều kiện kinh tế, nhiều đảng viên phải bươn trải, đi làm ăn ở địa
bàn khác, nên việc duy trì sinh hoạt của chi bộ và quản lý đảng viên gặp
khơng ít khó khăn.
Năng lực lãnh đạo nhiều tổ chức cơ sở đảng còn hạn chế; khơng ít
đảng bộ, chi bộ cịn lúng túng trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện các
nghị quyết về phát triển kinh tế xã hội; một số đảng ủy cơ sở chưa thường
xuyên quan tâm củng cố phát triển và nâng cao năng lực lãnh đạo, chất lượng

sinh hoạt chi bộ, nâng cao chất lượng đảng viên, chú trọng phát triển đảng
viên mới; một số nơi nội bộ mất đoàn kết; một số cán bộ vi phạm đạo đức lối
sống, chấp hành Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng khơng nghiêm, tinh thần trách
nhiệm thấp nên tín nhiệm với nhân dân chưa cao; tỷ lệ đảng viên so với dân
số, với tỷ lệ người dân tộc cịn ít. Đội ngũ cán bộ cơ sở miền núi trình độ năng
lực nhìn chung cịn thấp chưa đáp ứng với u cầu hiện tại. Hệ thống chính trị
ở cơ sở tuy đã được củng cố song chức năng nhiệm vụ tổ chức cơ sở Đảng với
các tổ chức khác trong hệ thống chính trị cịn chồng chéo, chưa đồng bộ, tính
tích cực chủ động của các tổ chức còn hạn chế; hiệu lực hiệu quả quản lý điều
hành của nhiều cơ sở chính quyền cịn thấp, quy chế dân chủ ở xã chưa được
thực hiện thường xuyên và đầy đủ, một số bức xúc của nhân dân chưa được xem
xét giải quyết kịp thời. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở một số nơi
hoạt động cịn mang tính hình thức, hành chính, thụ động hiệu quả thấp.
Đảng bộ tỉnh Bắc Giang hiện có 207 tổ chức cơ sở Đảng ở các xã toàn
tỉnh bao gồm 2.960 chi bộ trực thuộc với 43.964 đảng viên chiếm 69,36%


23
tổng số đảng viên trong tồn tỉnh. Trong đó, tỷ lệ đảng viên các xã miền núi
chiếm 2,7%, thấp hơn tỷ lệ các xã đồng bằng 0,5% và bằng hơn ½ tỷ lệ đảng
viên ở thành phố (2005).
1.2.1.3. Vai trò, nhiệm vụ của các đảng bộ xã miền núi ở tỉnh Bắc
Giang trong công tác tuyên truyền, cổ động
Theo quy định số 95 - QĐ/TƯ của Ban Bí thư, quy định chức năng,
nhiệm vụ của tổ chức đảng cấp xã thì: ở đảng bộ xã có nhiệm vụ lãnh đạo
tồn diện các mặt công tác ở cơ sở. Bao gồm: thực hiện chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói,
giảm nghèo, xây dựng làng văn hóa, giữ vững quốc phòng, an ninh, phòng
chống các tệ nạn xã hội; xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh; xây dựng
nơng thơn, miền núi giàu đẹp, văn minh; không ngừng nâng cao đời sống vật

chất và tinh thần của nhân dân... Trong đó, nắm vững nhiệm vụ phát triển
kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, không ngừng nâng cao văn
hóa - nền tảng tinh thần của xã hội.
Có thể nói, đảng bộ xã chính là nơi hiện thực các chủ trương, chỉ thị,
nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trực tiếp là nơi
triển khai các nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Ở cấp này, mọi chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, thông qua nhận thức và hành
động cách mạng của đông đảo cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân để
được hiện thực hóa vào trong thực tiễn cuộc sống.
Với vị trí, vai trị là cầu nối, nơi gắn bó trực tiếp với cơ sở, cấp ủy xã
miền núi tỉnh Bắc Giang có vai trị to lớn đối với CTTT,CĐ:
- Xây dựng kế hoạch chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức thực hiện các hoạt
động tuyên truyền cho các đối tượng đến tận cơ sở thông qua các loại hình,
phương tiện tun truyền, trong đó có hoạt động tuyên truyền cổ động; tổ
chức bồi dưỡng về lý luận chính trị và nghiệp vụ cho đội ngũ BCV, TTV,
VHTT, ĐTT.v.v.


×