Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Kết quả bước đầu nuôi cá chình bông (Anguilla marmorata) thương phẩm trong nhà bằng hệ thống tuần hoàn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (615.09 KB, 11 trang )

VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU NI CÁ CHÌNH BƠNG
(Anguilla marmorata) THƯƠNG PHẨM
TRONG NHÀ BẰNG HỆ THỐNG TUẦN HỒN
Nguyễn Nhứt*, Nguyễn Hồng Qn1, Đinh Hùng1
TĨM TẮT
Mục đích của nghiên cứu này nhằm thử nghiệm áp dụng hệ thống tuần hồn ni cá chình Bơng
(Anguilla marmorata) thương phẩm ở trong nhà với quy mô nông hộ. Thí nghiệm được bố trí trong
3 hệ thống tuần hồn có kích thước và các thành phần như nhau. Mật độ ni cá chình là 90 con/m3
và trọng lượng cá thả ban đầu là 97± 0,2g/con. Chất lượng nước, tỷ lệ thay nước và lượng thức ăn
được ghi nhận hàng ngày. Tốc độ tăng trưởng cá được đánh giá định kỳ theo hàng tháng.
Trong suốt q trình ni sử dụng thức ăn viên công nghiệp với lượng thức ăn từ 1% trọng lượng
thân/ngày. Kết quả sau 90 ngày nuôi cho thấy chất lượng nước được duy trì ổn định và thích hợp
cho cá chình Bơng phát triển trong điều kiện rất ít thay nước. Tốc độ tăng trưởng trung bình của cá
chình Bơng là 1,1 g/con/ngày và tỷ lệ sống đạt trung bình 98%. Sau 3 tháng ni, trọng lượng cá
thể trong quần đàn rất biến động và chia thành 3 nhóm 100-150g, 151-170g và 171-380 g. Đặc biệt,
trong suốt q trình ni cá khơng thấy xuất hiện bất cứ bệnh đặc trưng. Vì vậy, cá ni trong hệ
thống này khơng sử dụng kháng sinh và hóa chất.
Kết quả 3 tháng ni thử nghiệm cho thấy cá chình Bơng có thể ni ở mật độ cao trong hệ thống
tuần hồn ít thay nước để giảm thiểu không gian sử dụng đất và nước, giảm ơ nhiễm và an tồn sinh
học. Việc đánh giá tồn bộ chu kỳ ni cá chình Bơng thương phẩm trong hệ thống tuần hồn sẽ
được nghiên cứu tiếp tục. Có thể khẳng định rằng đây là cơng nghệ phù hợp ni cá chình thương
phẩm trong nhà ở điều kiện thành phố Hồ Chí Minh.
Từ khóa: Cá chình Bơng, RAS, hệ thống tuần hồn, an tồn sinh học, chất lượng nước

I. MỞ ĐẦU
Thành phố Hồ Chí Minh ngày càng phát
triển các dịch vụ khách sạn, nhà hàng phục vụ
cho ngành du lịch và giao dịch thương mại đứng
đầu cả nước. Do đó, có nhu cầu tiêu thụ các loại


thủy sản có giá trị cao trong đó có chình Bơng
(Anguilla marmorata). Nguồn thực phẩm này
chủ yếu được nhập từ các tỉnh khác trên cả nước
và thậm chí nhập khẩu, nhưng vẫn không đáp
ứng được nhu cầu của thị trường thành phố Hồ
Chí Minh cả về số lượng và chất lượng. Q
trình đơ thị hóa tại Tp.HCM phát triển nhanh
chóng dẫn đến diện tích đất và tài ngun nước
92

phục vụ nghề nuôi thủy sản bị thu hẹp lại và
giá trị tăng cao. Phương án sản xuất nuôi thủy
sản lạc hậu hiện nay khơng thể đáp ứng được
vì năng suất sinh học tính trên đơn vị diện tích
thấp và gây ô nhiễm môi trường sống đô thị.
Lực lượng sản xuất nông nghiệp và thủy sản ven
đô thị cũng đang chịu sức ép của sự thay đổi của
lối sống đô thị chưa thực sự sẵn sàng chuyển đổi
nghề nghiệp thích ứng với cuộc sống văn minh
và chưa có phương thức sản xuất thích hợp nên
tác động khơng nhỏ đến kinh tế xã hội ở Tp.
Hồ Chí Minh. Nhu cầu đặt ra xây dựng phương
thức sản xuất mới đáp ứng và đạt được điều kiện

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

của thành phố là một vấn đề quan tâm hiện nay.

Hệ thống nuôi thủy sản tuần hồn (RAS)
mang lại tính ưu việt so với cơng nghệ ni ao,
ni lồng bình thường hiện nay là: an toàn sinh
học hạn chế tối đa tỷ lệ chết trong q trình
ni, năng suất cá ni trên đơn vị thể tích cao
hơn 8-10 lần so với ni ao, đặc biệt thân thiện
với môi trường và với lượng nước sử dụng thấp
(150 – 300L/kg cá) so với nuôi ao (2.000 – 3.000
L/kg). Diện tích sử dụng thấp hơn ao nuôi ao là
9 – 448 lần tùy theo đối tượng ni (Timmons
và Ebeling, 2010). Vì vậy, nó phù hợp cho ni
vùng ven đơ với diện tích đất nhỏ.
Cơng nghệ ni thủy sản bằng RAS nếu
thích ứng được ở vùng ven đơ thị có thể sẽ giải
quyết vấn đề việc làm cho nơng dân ven đơ,
ở đó đang hiện diện một lực lượng lao động
lớn đang gặp khó khăn cần diện tích đất lớn để
canh tác với cơng nghệ thơng thường. Mơ hình
này có thể nhân rộng theo nhiều cấp từ nông
hộ đến quy mô sản xuất lớn, cung cấp lượng

hàng hóa cho nội địa và xuất khẩu. Tổ chức sản
xuất theo cơng nghệ này mang tính chất khoa
học và cơng nghiệp tự động và bán tự động.
Công nghệ RAS được đánh giá là tiên tiến nhất
hiện nay và được ứng dụng ở các nước tiên tiến
cho năng suất cao, bền vững và thân thiện về
môi trường, lượng chất thải được xử lý liên tục
trong suốt q trình ni, hạn chế tối đa thay
nước, sử dụng nguồn tài nguyên nước và giảm

thiểu phát thải hiệu ứng nhà kính. Cơng nghệ
này được xem là công nghệ sản xuất thủy sản
tiên tiến phù hợp với điều kiện của thành phố
Hồ Chí Minh.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Mô tả hệ thống nuôi và nguyên lý
hoạt động
Thời gian của thí nghiệm bắt đầu từ
ngày 19/01/2016 và tại thời điểm đánh giá
là ngày 15/5/2016. Trong khoảng thời gian
này bao gồm các giai đoạn nuôi cách ly,
khởi động hệ thống và ni tăng trưởng.

Hình 1. Cấu tạo của hệ thống RAS ni cá chình Bơng thương phẩm. UV: đèn tia cực tím; airlift:
dùng khí bơm nước; swirl separator: hệ thống nước ly tâm; trickling filter: hệ thống lọc nhỏ giọt.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016

93


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

Hệ thống tuần hồn ni cá Chình bao gồm
một ao ni xi măng hình vng diện tích 4m2
với thể tích nước ni 3,6m3;1 bể lắng tách thải
rắn swirl separator (0,234m3), và hệ thống lọc
sinh học sử dụng giá thể bám vi sinh diện tích
đặc hiệu 800 m2/m3, hệ thống lọc sinh học bao
gồm 2 bể lọc sinh học 1 (1m3) và lọc sinh học
2 (1m3) kết nối song song, vật thể bám vi sinh

chiếm 60% thể tích bể sinh học (1m3), hệ thống
tháp lọc trickling filter 2,2m3và bể hồi lưu chứa
nước đệm 0,312 m3, 1hệ thống UV 240W,và hệ
thống bơm nước bằng airlift dự phịng khi cúp
điện chạy bằng máy khí theo Hình 1.
Nguyên lý hoạt động: đầu tiên nước từ bể
lọc sinh học 2 bơm với lưu tốc tối đa thiết kế
260 m3/ngày lên hệ thống tháp lọc trickling
filter, tại đây bể điều phối hứng nước và tự chảy
qua đường ống
=114mm bằng chênh lệch
cao trình 40 cm so với bể ni cá chình. Tại hệ
thống bể ni, nước được xốy li tâm gom thải
về vùng trung tâm giữa bể bằng hỗ trợ airlift
đặt 4 góc và đĩa khí. Từ vùng giữa trung tâm bể
cá, nước tự chảy qua ống dẫn =114 mm sang
bể swirl separator lắng. Tại swirl separator chất
thải rắn lắng đọng đáy bể được xả định kỳ 4 giờ

/lần và nước sạch chảy tràn bề mặt sang bể lọc
sinh học 1 theo ngun tắc bình thơng nhau do
lực hút từ máy bơm của bể lọc sinh học 2.
Trong hệ thống này thiết kế hệ thống bơm
nước bằng khí theo nguyên tắc airlift từ bể sinh
học 2 sang bể cá nuôi chênh lệch cao trình 10
cm khi mất điện. Hệ thống này bảo đảm khi
mất điện sử dụng máy thổi khí đầu nguồn chạy
hệ thống lọc sinh học và cung cấp oxy hòa tan
cho cá sống, hệ thống trickling filter ngưng hoạt
động tạm thời nhưng không ảnh hưởng đến sức

khỏe cá.
2.2. Phương pháp nuôi
Cá giống được vận chuyển về và nuôi cách
ly để xử lý bệnh ký sinh trùng trong vòng 15
ngày trước khi thả ni vào hệ thống tuần hồn.
Cá giống thả có trọng lượng trung bình 96,8 ±
0,2g/con, mật độ thả nuôi 90 con/m3. Sử dụng
thức ăn viên công nghiệp hàm lượng protein
43%. Lượng cho ăn từ 1-2% trọng lượng thân/
ngày, sử dụng phương pháp cho ăn bằng tay 4
lần/ngày. NaCl được duy trì ở nồng độ 0,5-1‰
để hạn chế tính độc của NO2-N ảnh hưởng đến
sức khỏe cá.

Bảng 1. Mật độ và trọng lượng cá thả nuôi tăng trưởng trong hệ thống tuần hồn
Hệ thống
Thơng số

Đơn vị

RAS1

RAS2

RAS3

Trung Bình

Số cá thả


con/hệ thống

324

325

325

324,7±0,6

Tổng khối lượng

kg/hệ thống

31,5

31,6

31,5

31,5±0,6

Trọng lượng trung bình

g/con

96,9

96,9


96,6

96,8±0,2

Mật độ thả
con/m3
90,3
90,6
RAS1, RAS2, RAS3: hệ thống ni cá chình tuần hồn số 1,2,3.

90,6

90,5±0,2

2.3. Phương pháp đánh giá tốc độ tăng
trưởng và tỷ lệ sống của cá

- Cơng thức tính TĐTT (g/con/ngày) =
[bwT2-bwT1]/(T2-T1);

Cá được lấy mẫu ngẫu nhiên 30 con/bể để
cân trọng lượng thân và tính trung bình trọng
lượng thân theo định kỳ 30 ngày. Tốc độ tăng
trưởng (TĐTT) (g/con/ngày) được xác định
theo chu kỳ 30 ngày.

- Tốc độ tăng trưởng đặc biệt (%/bw/ngày)
= [Ln(bwT2-Ln(bwT1)]/(T2-T1);

94


Trong đó,
+ bwT1: giá trị trung bình của trọng lượng
cá tại thời gian ni trước (g);

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

+ bwT2: giá trị của trọng lượng trung bình
của cá tại chu kỳ nuôi sau (g);
+ T1: thời gian nuôi trước (ngày);
+ T2: thời gian nuôi sau (ngày).
- Tỷ lệ sống của cá (%) = [Tổng số lượng
cá thả ban đầu – Tổng số lượng cá chết cộng
gộp tại thời điểm xác định]/ tổng số lượng cá
thả ban đầu * 100.
Cá chết hàng ngày được ghi nhận bằng hệ
thống hút bùn thải tự động và quan sát bằng mắt
thường.
2.4. Phương pháp đo và phân tích chỉ
tiêu mơi trường
Hàng ngày đo trực tiếp tại bể ni các thơng
số oxy hịa tan, pH và nhiệt độ 2 lần vào lúc 6h và
14h bằng máy cầm tay đa chỉ tiêu HANNA - Hi
9384. Các chỉ tiêu ammonia tổng (TAN), nitrite

nitrogen (NO2-N), nitrate nitrogen (NO3-N),
Organic-N, kiềm tổng (Alkalinity), Hydrogen

sulfide (H2S), chemical oxygen demand (COD),
Biological oxygen demand ủ 5 ngày (BOD5),
Orthophosphate (PO4-P) và Phosphorus tổng
(TP) được đo định kỳ 7 ngày/lần trong phịng thí
nghiệm theo phương pháp chuẩn của (APHA,
1999).
2.5. Phương pháp xử lý thống kê số liệu
Ghi nhận và thu thập thông tin từ nhật ký
hàng ngày. Sử dụng phần mềm Excel vẽ mơ tả
biểu đồ, tính tốn giá trị các chỉ tiêu mơi trường,
tính tốn giá trị trung bình số liệu về tăng trưởng
cá, tổng thức ăn, tổng khối lượng cá và nước
thay.
III. KẾT QUẢ
3.1. Chất lượng nước

Bảng 2. Chất lượng nước (trung bình ± độ lệch chuẩn) trong bể ni cá chình bằng hệ thống
tuần hồn trong giai đoạn 90 ngày ni

Chỉ tiêu
Nhiệt độ

Đơn
vị

RAS 1

RAS 2

RAS 3


Trung bình

26,2

28,5±1,8

28,4±1,71

28,3±1,7

28,4±1,7

pH nước

6,6

7,2±0,2

7,2±0,2

7,2±0,2

7,2±0,2

Oxy hịa tan mg/L

4,3

7,3±0,3


7,3±0,3

7,3±0,3

7,3±0,3

o

C

Nước cấp

Alkalinity

mg CaCO3/L 35,1

82,9±11,6

81,7±11,6

81,8±11,9

82,1±11,7

TAN

mg/L

0,0


0,3±0,1

0,3±0,1

0,3±0,1

0,3±0,1

NO2-N

mg/L

0,0

0,3±0,2

0,3±0,1

0,3±0,2

0,3±0,2

NO3-N

mg/L

0,0

48,6±18


50,1±19,2

50,2±18,4

49,7±18,5

Organic -N

mg/L

0,0

8,8±0

4,8±0

5,9± 0

6,5±0

COD

mg/L

1,7

4,6±1

12,3±0


12,7±0

9,85±0

BOD5

mg/L

2,2

3,1±0

8,0±0

8,1±0

6,33±0

PO4-P

mg/L

0,0

4,9±0

6,2±0

6,8 ±0


5,99±0

TP

mg/L

0,0

4,9±0

10,3±0

14,8 ±0

10±0

H 2S

mg/L

0,0

0,01±0

0,01±0

0,01±0

0,01±0


Kết quả của Bảng 2 phản ánh chất lượng nước tương đồng giữa các hệ thống ni thí nghiệm
(RAS1, RAS2 và RAS3) vì cùng nguồn nước cấp, tỷ lệ thay nước như nhau, lượng thức ăn, số lượng
cá và kích thước các hệ thống lọc sinh học tương đồng. Từ đó cũng thấy rằng, tính ổn định của hệ
thống lọc sinh học trong việc quản lý chất lượng nước ni trồng thủy sản.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016

95


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

Biến động nhiệt độ nước và oxy hịa tan

Hình 2. Biến động nhiệt độ (bên trái) và oxy hòa tan (bên phải) trong bể cá nuôi.
RAS1: hệ thống RAS số 1; RAS2: hệ thống RAS số 2; RAS3: hệ thống RAS số 3;
TBRAS: giá trị trung bình của 3 hệ thống RAS1, RAS2 và RAS3.
Tại Hình 2 cho thấy nhiệt độ nước trong bể
ni tăng dần và được duy trì khoảng 30oC. Oxy
hịa tan giảm dần trong thời gian ni và có xu

hướng ổn định (dao động 6,8 – 7,2 mg/L), thích
hợp cho cá chình Bơng sinh trưởng và phát triển.

Biến động ammonia tổng

Hình 3. Biến động tổng ammonia (TAN) trong bể ni tuần hoàn.
RAS1: hệ thống RAS số 1; RAS2: hệ thống RAS số 2; RAS3: hệ thống RAS số 3;
TBRAS: giá trị trung bình của 3 hệ thống RAS1, RAS2 và RAS3.
Hàm lượng TAN trong các hệ thống tuần

hồn khơng dao động lớn, tương đồng với nhau.
Nồng độ tích lũy TAN theo thời gian nuôi dao
động 0,1-0,5mg/L. Hầu như hàm lượng TAN

96

được khống chế < 0,5 mg/L trong suốt thời gian
nuôi dù lượng thức ăn hàng ngày cũng như sinh
khối cá tăng. Chứng tỏ hệ thống lọc sinh học
đang hoạt động khá tốt.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II

Hình 4. Biến động NO2-N (bên trái), NO3-N (bên phải) trong bể nuôi tuần hoàn.
RAS1: hệ thống RAS số 1; RAS2: hệ thống RAS số 2; RAS3: hệ thống RAS số 3;
TBRAS: giá trị trung bình của 3 hệ thống RAS1, RAS2 và RAS3.
Nitrite nitrogen giảm mạnh đầu chu kỳ ni
nhưng có xu thế tăng nhẹ dần ở cuối chu kỳ 90
ngày nuôi. Nồng độ nitrate nitrogen biến động

lớn (30-100 mg/L) trong bể ni tuần hồn
trong chu kỳ ni.

3.2. Sử dụng nước và thức ăn

Hình 5. Lượng nước thay hàng ngày (bên trái) và thức ăn (bên phải) trong hệ thống tuần hồn
ni cá chình Bơng. Giá trị thể hiện trong hình là trung bình của 3 hệ thống RAS. Trục X thể hiện

ngày nuôi bao gồm: ngày nuôi thứ 1-15 là chu kỳ nuôi cách ly; ngày nuôi thứ 16-27 là chu kỳ khởi
động hệ thống; bw: trọng lượng thân của cá với giá trị trung bình.
Kết quả ở Hình 5 cho thấy, lượng nước sử
dụng trong giai đoạn nuôi tăng trưởng ít hơn
nhiều so với các giai đoạn nuôi cách ly và giai
đoạn khởi động hệ thống vì hệ thống lọc sinh

học hoạt động đã cải thiện chất lượng nước nên
thay nước không đáng kể, dù cho lượng thức ăn
sử dụng tăng dần.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016

97


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

3.3. Kết quả nuôi tăng trưởng trong 90 ngày nuôi
Bảng 3. Kết quả nuôi tăng trưởng trong 90 ngày nuôi
Hệ thống
Thông số

Đơn vị

RAS1

RAS2

RAS3


TBRAS±SD

Tổng thời gian nuôi

ngày

90

90

90

90 ± 0,0

Số cá thả

con/hệ
thống

322

323

323

322,7 ± 0,5

Số lượng cá còn sống


con/hệ
thống

317

320

312

316,33 ± 3,3

Mật độ cá thả ban đầu

con/m3

89,4

89,7

89,7

89,63 ± 0,1

Tổng khối lượng ban đầu

kg/hệ thống

31,2

31,3


31,3

31,53 ± 0,1

Tổng khối lượng ngày ni 90

kg/hệ thống

59,0

63,0

59,0

60,32 ± 1,9

Trọng lượng trung bình ban đầu

g/con

97,0

97,0

97,0

97 ± 0,0

Trọng lượng trung bình ngày ni 90


g/con

186,0

197,0

189,0

190,7 ± 4,6

Tổng khối lượng thức ăn

kg/hệ thống

63,5

65,4

65,0

64,6 ± 8,5

2,3

2,1

2,4

2,3 ± 0,1


Hệ số chuyển đổi thức ăn
Tăng trưởng

g/con/ngày

1,0

1,1

1,0

1,1 ± 0,1

Tăng trưởng đặc trưng

%/bw thân/
ngày

0,7

0,8

0,8

0,8 ± 0,0

Tỷ lệ sống

%


98,4

99,1

96,6

98,0 ± 1,3

RAS1: hệ thống RAS số 1; RAS2: hệ thống RAS số 2; RAS3: hệ thống RAS số 3; TBRAS: giá trị trung bình của
3 hệ thống RAS1, RAS2 và RAS3; SD: độ lệch chuẩn. bw: trọng lượng thân cá.

Sau 90 ngày nuôi tăng trưởng, tốc độ tăng
trưởng trung bình là 1,1 g/con/ngày, FCR = 2,3
và tỷ lệ sống đạt 96,6-99,1%. Tương đương với
tỷ lệ chết của cá chình ni trung bình 0,7% /
tháng ni. Tỷ lệ sống cộng gộp được tính bao
gồm cá chết trong hệ thống ni và trốn thốt
nhảy ra khỏi bể trong thời gian đầu thích nghi.
IV. THẢO LUẬN
Các chỉ tiêu về mơi trường nước cho cá
chình Bơng sinh trưởng tối ưu ít được cơng bố
một cách chi tiết ở Việt Nam cũng như trên thế
giới. Các chỉ tiêu cơ bản ảnh hưởng đến tăng
trưởng của cá chình Bơng như TAN, NO2-N,
pH, H2S, độ kiềm và ngoại trừ nhiệt độ trong
nghiên cứu này được đánh giá thích hợp cho cá
chình Bơng phát triển (Chu Văn Cơng, 2005).
Nhiệt độ ảnh hưởng trực tiếp lên khả năng bắt
98


mồi của cá được trình bày ở trên. Nhiệt độ trung
bình của chu kỳ ni này được đánh giá là thấp
vì thả cá giống vào tết âm lịch, nhiệt độ khơng
khí khá thấp mà trong hệ thống bể không trang
bị hệ thống nâng và ổn định nhiệt độ nước. Các
chỉ tiêu đánh giá mức độ ô nhiễm của nước như
COD, BOD5, PO4-P và TP trong nước được
đánh giá thấp hơn quy định xả thải của QCVN
(5945-1995-B) và có thể tái sử dụng trong ni
trồng thủy sản. Nhiệt độ nước biến động theo xu
thế tăng dần và đạt lý tưởng cho cá chình Bơng
sinh trưởng và phát triển. Trong giai đoạn 17
ngày đầu nhiệt độ nước ≤ 27oC được đánh giá là
khơng thích hợp cho cá chình Bơng. Sở dĩ nhiệt
độ nước thấp là do nhiệt độ khơng khí lạnh đầu
năm tác động trực tiếp. Tuy nhiên, nhiệt độ tăng
dần đạt ngưỡng thích hợp từ ngày ni thứ 19

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II

do khí hậu ấm lên, nhiệt độ nước đạt ≥ 27oC.
Nhiệt độ của nước khi chảy qua trickling filter
giảm 1-3oC (Nhut và ctv., chờ tạp chí đăng).
Để cải thiện nâng cao nhiệt độ nước, hệ thống
trickling filter được di dời ra khỏi nhà ni để
tiếp xúc với nhiệt độ khơng khí cao đã mang

lại kết quả đáng kể (≥ 28oC) cá tiêu thụ thức ăn
nhiều hơn.
Hàm lượng oxy hòa tan tăng dần ở giai
đoạn đầu có thể do nguyên nhân tăng cường vận
tốc bơm, lượng thức ăn thấp và trong thời gian
này nhiệt độ thấp lượng oxy hịa tan cao. Từ
ngày ni 11-23, lượng thức ăn tăng lên và nhiệt
độ nước tăng lên đáng kể với lưu tốc nước như
nhau, oxy hòa tan trong bể ni có xu hướng
ổn định. Sự tổng hợp các yếu tố nhiệt độ tăng,
lượng thức ăn tăng và sinh khối cá tăng dẫn đến
sự tiêu tốn oxy trong bể nuôi cao hơn, là nguyên
nhân làm giảm nồng độ oxy hịa tan trong nước.
Chính vì thế cuối chu kỳ hàm lượng oxy trong
bể nuôi hướng giảm xuống. Tương tự như cá trê
ni trong hệ thống tuần hồn xảy ra cùng hiện
tượng này (Bovendeur và ctv., 1987).
Mặc dù lượng thức ăn tăng lên đáng kể
trong giai đoạn tăng trưởng có thể làm sản
phẩm thải của cá chình Bơng tăng nhưng nồng
độ TAN tiếp tục có xu hướng giảm và duy trì ở
mức 0,3 mg/L. Sự chênh lệch giữa các hệ thống
thí nghiệm khơng đáng kể, chứng tỏ hệ thống
lọc sinh học hoạt động bền vững suốt thời gian
nuôi. Hệ vi khuẩn thực hiện q trình nitrate
hóa hoạt động được đánh giá chưa đến mức
tới hạn so với thiết kế. Khi TAN tăng lên hệ vi
khuẩn phát triển sinh khối tăng theo mối tương
quan dương. Nhìn vào các chỉ tiêu chất lượng
nước khác tại Bảng 2, các giá trị vẫn nằm trong

ngưỡng hoạt động tối ưu của hệ vi sinh nitrate
hóa. Sinh khối của chúng sẽ còn tiềm năng phát
triển để khử TAN sinh ra khi cá đạt sinh khối
200 kg/bể (tương đương với 6 kg thức ăn tiêu
thụ hàng ngày). Trong điều kiện cá đói được
giữ trong bể ni, TAN từ sản phẩm bài tiết của
cá tích lũy 5,5 mg/L (bể ni 3,6m3) trong 24h,
ước tính khoảng 0,8g TAN tích lũy / kg cá/ngày
nuôi . Đây là thông số rất quan trọng trong việc

thiết kế và tính tốn hệ thống lọc sinh học hay
thay nước ở điều kiện ni.
Nhìn chung hàm lượng NO2-N biến động
theo hướng giảm dần theo thời gian và ổn định
từ ngày thứ 15 đến cuối chu kỳ (NO2-N = 0,2
mg/L). Sự tích lũy bất thường ở ngày ni thứ
9 đến ngày ni 14 có nồng độ cao nhiều lần so
với các ngày nuôi khác. Nồng độ cao bất thường
này chưa được hiểu nguyên nhân. Số liệu ghi
nhận cho thấy, các thời điểm này là thời điểm
tăng lượng thức ăn đột ngột, thức ăn dư thừa làm
ô nhiễm nước và sinh khối vi khuẩn Nitrobacter
sp chưa phát triển đủ để khử NO2-N trong khi
đó Nitrosomonas sp. hoạt động mạnh mẽ. Bằng
chứng cho thấy hàm lượng TAN vẫn duy trì ở
giá trị thấp. Tuy vậy, nồng độ NO2-N được xem
là cao nhưng không ảnh hưởng đến sức khỏe cá
chình trong điều kiện sử dụng NaCl giảm tính
độc của NO2-N. NaCl cung cấp Cl- làm tăng khả
năng trao đổi NO2-N thông qua tế bào chloride

cell ở mang cá chuyển tải NO2-N trong máu ra
môi trường nước. Trong thực tiễn, các trang trại
ni cá chình ở Hà Lan thường sử dụng NaCl
để giảm tính độc của NO2-N, thật sự đây là giải
pháp hiệu quả.
Kết quả ở Hình 4 cho thấy nồng độ NO3-N
trong bể ni có xu thế tăng dần. Từ ngày nuôi
thứ 3 đến ngày 17, xu thế tăng theo hàm số
NO3-N (mg/L) = 3,3 * ngày nuôi + 35,16 trong
điều kiện không thay nước. Tuy nhiên, thay
nước 100 -200 L nước /ngày đã duy trì NO3-N
≤ 100 mg/L (khoảng 80 mg/L) và sau ngày
nuôi 33 nồng độ NO3-N tiếp tục giảm với cùng
chế độ thay nước. Sở dĩ có sự thay đổi xu thế
giảm là do tác động chính bởi thay nước khống
chế nồng độ NO3-N và một phần nhỏ quá trình
phản nitrate (denitrification process) thụ động
xảy ra trong q trình ni; q trình này khử
khoảng 19-21% N trong hệ thống đã được báo
cáo (Bovendeur và ctv., 1987; van Rijin và ctv.,
2006). NO3-N được xem ít độc đến các lồi
cá ni nói chung ở mức ≤ 300 mg/L và thậm
chí có vài trường hợp 1000 mg/L (Timmons
và Ebeling, 2010). Tuy vậy, sự nghiên cứu tác
động của NO3-N lên tăng trưởng cá chình Bơng

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016

99



VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

chưa được nghiên cứu và báo cáo chi tiết. Trong
nghiên cứu này chúng tơi thận trọng tham khảo
nồng độ NO3-N duy trì được đề nghị cho cá trê
nuôi thương phẩm (Schram và ctv., 2014) áp
dụng cho cá chình ≤ 100 mg/L để bảo đảm sự
thành công của công nghệ và các bước tiếp theo
cải tiến kỹ thuật và xác định chính xác sự ảnh
hưởng NO3-N lên tăng trưởng cá chình Bơng.
Tỷ lệ thay nước được thể hiện chi tiết ở Hình
5, lượng nước thay ở giai đoạn xử lý mầm bệnh
từ 50-100%/ ngày, tỷ lệ thay nước giảm xuống
khi kết nối khởi động hệ thống lọc sinh học từ
20 -45%/ ngày. Tỷ lệ thay nước giảm xuống
rất thấp 0- 5% ở giai đoạn nuôi tăng trưởng từ
ngày nuôi 37-59, chủ yếu là bù thêm nước cho
quá trình xả bùn thải và bù vào lượng nước bốc
hơi. Từ đó, cho thấy rằng hệ thống tuần hoàn rất
hạn chế thay nước. Với tỷ lệ thay nước trong thí
nghiệm này thấp hơn so với báo cáo của các tác
giả khác rằng thông thường hệ thống RAS thay
nước từ 10 -15%/ngày (Timmons và Ebeling,
2010). Tổng khối lượng nước sử dụng được tính
là 1,33 m3/kg cá được đánh giá chấp nhận được
ở giai đoạn đầu ni cá chình.
Khẩu phần lượng thức ăn cho ăn được tính
khoảng 1% trọng lượng thân nằm trong khoảng
khuyến cáo của nhà sản xuất thức ăn. Trong khi

đó, các báo cáo khác cho thấy cá chình nên cho
ăn 3-5% trọng lượng thân ni ao hay lồng bè.
Có thể khẳng định rằng ni trong lồng bè và
nuôi ao không kiểm tra thức ăn một cách hồn
tồn chính xác và khơng thể xác định lượng
thức ăn dư vì cá kéo thức ăn ra khỏi sàng, dịng
nước sẽ cuốn trơi. Theo quan sát của chúng tơi
cá chình có đặc tính ăn theo từng đàn, cắn xé

100

thức ăn và không ăn mãnh vụn nhỏ, đây là đặc
điểm ảnh hưởng đến tiêu phí thức ăn. Chính vì
thế tại Châu Âu trang trại cá chình thường sử
dụng thức ăn dạng viên bán nổi để nuôi năng
suất cao, FCR thấp (1,2) và dễ kiểm sốt so với
thức ăn bột dính như Việt Nam và Trung Quốc.
Qua đó, có thể khẳng định rằng trọng lượng
thân cá chình từ 110 – 210 g có thể ăn 1-3%
trọng lượng thân/ ngày như nhà sản xuất thức ăn
là hợp lý với kết quả nghiên cứu này.
V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
Chất lượng nước trong bể ni hệ thống
tuần hồn bảo đảm cho sự sinh trưởng và phát
triển của cá chình Bơng ni thương phẩm. Yếu
tố nhiệt độ rất quan trọng cho ni cá chình
Bơng liên quan đến tiêu hóa và bắt mồi: ≤ 26oC
tiêu thụ thức ăn kém, từ 27-28oC tiêu thụ thức
ăn tốt. Hệ thống ni tuần hồn thay nước từ 0 –
32,8%/ ngày, trung bình 4,9%/ngày vẫn duy trì

được chất lượng nước tối ưu cho cá chình sinh
trưởng và phát triển.
Cá chình Bơng ni trong hệ thống tuần
hồn được cho ăn 4 lần/ngày bằng thức ăn viên
công nghiệp với tỷ lệ 1% trọng lượng thân/ngày
ở trọng lượng 97-210 g/con. Tốc độ tăng trưởng
đạt tốc độ tăng trưởng trung bình 1,1g/con/ngày,
FCR = 2,3 và tỷ lệ sống đạt 96,6 - 99,1% và
bệnh không xuất hiện trong q trình ni.
Để hồn tồn khơng thay nước và hạn chế
thải một lượng chất thải rắn đáng kể trong q
trình ni cá chình Bơng trong hệ thống RAS,
hệ thống khử nitrate xử lý chất thải rắn (nguồn
carbon hữu cơ nội tại) được đề nghị kết hợp với
hệ thống lọc sinh học hiếu khí.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Chu Văn Công, 2005. Nghiên cứu xây dựng quy
trình kỹ thuật ni thương phẩm cá Chình tại
miền Trung Việt Nam. Báo cáo khoa học năm
2005, viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III,
65 trang.
Tài liệu tiếng Anh
APHA, 1999. Standard methods for the

examination of water and waste water, 20th
edition. American public health association,
American water works association, water
pollution control federation, Washington DC.
Bovendeur, J., Eding, E.H., Henken, A.M.,
1987. Design and performance of a water
recirculation system for high-density culture
of the African catfish, Clarias gariepinus
(Burchell 1822). Aquaculture 63, 329-353.
Nhut, N., Quan, N.H., Hao, N.V., Verreth, J.A.V.,
Eding, E.H., Verdegem, M.C.J., Submitted.

Nutrient mass balances, water quality and
water use of striped catfish ( Pangasianonodon
hypophthalmus, Sauvage, 1878) in flowthrough and recirculation systems. Aquaculture
Engineering.
Schram, E., Roques, J.A.C., Abbink, W.,
Yokohama, Y., Spanings, T., de Vries, P.,
Bierman, S., van de Vis, H., Flik, G., 2014. The
impact of elevated water nitrate concentration
on physiology, growth and feed intake of
African catfish Clarias gariepinus (Burchell
1822). Aquaculture Research 45, 1499-1511.
Timmons, M.B., Ebeling, J.M., 2010.
Recirculating aquaculture NRAC Publication
No. 401-2010, 948 p.
van Rijn, J., Tal, Y., Schreier, H.J., 2006.
Denitrification in recirculating systems: Theory
and applications. Aquacultural Engineering
34, 364-376.


TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016

101


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

PRELIMINARY RESULTS OF APPLICATION OF INDOOR
RECIRCULATING AQUACULTURE SYSTEM FOR MARBLED
EEL (Anguilla marmorata) CULTURE
Nguyen Nhut1*, Nguyen Hong Quan1, Dinh Hung1
ABSTRACT
The aim of this study is to apply recirculating aquaculture system (RAS) for indoor grow-out of
marbled eel (Anguilla marmorata) at household scale. Three RASs with same dimension, components and functions were set up for experiment and stocked with the eel juveniles of 97g ± 0,2 ind-1
in average weight and at a density of 90 ind m-3. Water quality, water exchange and feeding level
were recorded daily but fish growth rate and mortality were determined monthly.
The feeding level was accounted for 1% body weight day-1during culture period. The 90-day culture
period showed that water quality was stable and acceptable for fish growth, although amount of water exchange was low. Individual growth was 1,1g per day and survival rate was about 98%. After
three months of culture, the individual body weight of fish was found to be differentiated in three
groups: 100-150g, 151-170g and 171-380g per fish. Particularly, fish disease was not recognized
during culture. Thus, fish culture in RAS did not indicate any antibiotics and chemicals.
The Marbled eel culture with a high density in RAS results in reduction of room, land and pollution
but enhancement of biosecurity. A full production cycle for the Marbled eel culture in the RAS
should be further researched. The results of the experiment indicate that the indoor RAS technology
can be adapted for eel culture in Hochiminh City.
Keywords: Marbled eel, RAS, biosecurity, water quality.

Người phản biện: TS. Nguyễn Phúc Cẩm Tú
Ngày nhận bài: 27/7/2016

Ngày thông qua phản biện: 03/8/2016
Ngày duyệt đăng: 05/9/2016

Department of Experimental Biology, Research Institute for Aquaculture No.2.
* Email:
1

102

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016



×