Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 5 DÂN TỘC THIỂU SỐ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (486.24 KB, 30 trang )

PHÒNG GD & ĐT HUYỆN .....
TRƯỜNG TIỂU HỌC.....
********************
`

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 5 DÂN
TỘC - ĐIỂM TRƯỜNG …
HỌC TỐT PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN

Họ và tên: …..
Chức vụ: Giáo viên
Trường: Tiểu học …

Page1

Năm học: 2019 - 2020

0


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 5 DÂN TỘC - ĐIỂM
TRƯỜNG LANG CANG HỌC TỐT PHÂN MƠN TẬP LÀM VĂN
A. PHẦN MỞ ĐẦU:
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong chương trình tiểu học, Tiếng Việt là mơn học có nhiều phân mơn và
có số tiết chiếm tỉ lệ cao nhất. Nhiệm vụ trọng tâm của môn Tiếng Việt là cung
cấp kiến thức và rèn luyện kĩ năng sử dụng Tiếng Việt thành thạo. Đó chính là
điều kiện cơ bản, bắt đầu để các em tiếp cận với tri thức của các bộ môn khác.
Mỗi phân môn ngồi việc thực hiện nhiệm vụ của phân mơn đó cịn có nhiệm vụ


chung của mơn Tiếng Việt. Nếu phân môn Luyện từ và câu cung cấp, mở rộng
vốn từ, rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu thì phân mơn Tập đọc cung cấp các kiến
thức văn học, kiến thức đời sống về con người, thiên nhiên. Các bài tập đọc cũng
chính là những bài văn thuộc các thể loại khác nhau. Tập làm văn là phân môn
tổng hợp tri thức các phân mơn đó. Mỗi một bài văn của các em là một q trình
tích luỹ các kiến thức đã học từ các phân môn khác. Nếu chỉ dạy với yêu cầu,
mục đích của một tiết dạy tập đọc theo chương trình thì khơng thể hướng dẫn
học sinh nắm bắt và hiểu hết giá trị nghệ thuật cũng như nội dung của văn bản
nghệ thuật trong phân môn Tập đọc. Do đó sẽ khó giúp các em cảm thụ hết cái
hay, cái đẹp của bài tập đọc, sẽ không giúp các em nắm được bố cục, trình tự của
bài tập đọc để các em học hỏi và vận dụng khi làm bài Tập làm văn bởi mỗi một
bài tập đọc chính là một văn bản nghệ thuật.
Thiên nhiên và con người Việt Nam luôn là đề tài bất tận cho chúng ta
khám phá. Vì vậy ở mỗi thể loại văn đều có vơ số đề bài u cầu học sinh viết
thành những bài văn khác nhau về tả cảnh, tả người… Nhưng với học sinh tiểu
học, nhất là học sinh dân tộc , hiểu biết của các em còn hạn chế, sự tưởng tượng
của các em chưa phong phú. Có những cảnh các em chưa được biết đến, có
những người các em chưa được tiếp xúc, có những con vật, cây cối, đồ vật các
em chưa được nhìn thấy. Vậy nên việc cung cấp cho các em hiểu và biết được
vấn đề đó thơng qua các bài Tập đọc để làm bài Tập làm văn là một việc làm hết
sức cần thiết. Đây quả là một vấn đề mà những giáo viên trực tiếp giảng dạy nói
chung và giáo viên phụ đạo, bồi dưỡng các đối tượng học sinh trong mơn Tiếng
Việt nói riêng ln quan tâm trăn trở.
Xuất phát từ những lí do trên, qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy lớp 5 vùng
dân tộc, đặc biệt là dạy mơn Tiếng Việt, nhằm góp phần bồi dưỡng khả năng
trình bày, diễn đạt trong phân mơn Tập làm văn cho học sinh, tôi quyết định thực
hiện đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 Lang Cang học tốt phân mơn
Tập làm văn ”.

Page1


II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Để giúp cho chúng ta thấy rõ vị trí quan trọng của phân môn Tập làm văn
trong môn Tiếng Việt.
1


Để giúp học sinh tiếp thu bài giảng một cách nhẹ nhàng, khắc sâu kiến thức
về phân môn Tập làm văn.
Qua sách giáo khoa, tài liệu tham khảo, phương pháp giảng dạy phân môn
tập làm văn và khảo sát thực tế để tìm ra cách giải quyết vấn đề nêu trên.
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
- Góp phần cải tiến phương pháp dạy học Tiếng Việt.
- Tìm hiểu thực trạng, nguyên nhân, giải pháp khắc phục để góp phần giảm
bớt khó khăn khi hướng dẫn HS thực hành nói, viết tốt trong dạy và học môn
Tiếng Việt lớp 5 vùng dân tộc.
IV. THỜI GIAN ĐỊA ĐIỂM:
- Thời gian: Từ tháng 9 năm 2015 đến tháng 5 năm 2016
- Đối tượng: Học sinh lớp 5 điểm trường Lang Cang – Trường Tiểu học
Đồn Đạc
V. ĐÓNG GÓP VỀ MẶT THỰC TIỄN:

Page1

Tập làm văn có nhiệm vụ chủ yếu là rèn kĩ năng sản sinh ngơn bản nói và
văn bản viết. Khơng học tốt tập làm văn, khả năng nói và viết của học sinh sẽ bị
hạn chế. Vì tập làm văn được thừa hưởng và cần phải tận dụng vốn từ vựng,
nghệ thuật dùng từ, đặt câu … mà học sinh thu nhận được từ các bài tập đọc, kể
chuyện, …không những thế, học sinh cịn được học cách dùng tính từ, động từ,
học được cách dùng các phép so sánh, nhân hóa.., để chắp thêm cánh cho trí

tưởng tượng, liên tưởng… khi làm các bài văn tả cảnh trong chương trình tập
làm văn. Văn miêu tả không đưa ra những lời nhận xét chung chung, những lời
đánh giá trừu tượng về sự vật như: cái cặp này cũ, cái bàn này hỏng… Mà văn
miêu tả vẽ ra các sự vật, sự việc, hiện tượng, con người … bằng ngôn ngữ một
cách sinh động, cụ thể. Văn miêu tả giúp người đọc nhìn rõ chúng, tưởng như
mình đang xem tận mắt, bắt tận tay. Tuy nhiên hình ảnh một cánh đồng, một
dịng sơng, một con vật, một con người…do văn miêu tả tạo nên không phải là
bức ảnh được chụp lại, sao chép lại một cách vụng về. Nó là sự kết tinh của
những nhận xét tinh tế, những rung động sâu sắc mà người viết đã thu lượm
được khi quan sát trong cuộc sống. Vì thế mà văn miêu tả có thể được ví như
“hịn đá thử vàng” đối với các tài năng văn học, tạo nên sức hấp dẫn của các tác
phẩm văn học. Những sáng tác (bài văn) đầu tay sẽ như “tiếng chim gọi
đàn”đánh thức niềm hứng thú và năng khiếu văn chương còn tiềm ẩn trong
những tâm hồn trẻ thơ, khuyến khích các em phát huy khả năng của bản thân từ
việc học tập môn Tiếng Việt ở nhà trường: không chỉ tiếp thu cái hay cái đẹp của
tiếng mẹ đẻ, của văn học dân tộc, mà còn bắt đầu từ chút vốn liếng ấy, các em
muốn tự mình “làm ra” những vẻ đẹp của riêng mình.

2


B. PHẦN NỘI DUNG.
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN
I. Cơ sở lí luận:
Trong chương trình tiểu học mới, các bài văn thường gắn với chủ điểm của
đơn vị học. Qúa trình thực hiện các kĩ năng phân tích đề, tìm ý, quan sát, viết
đoạn là những cơ hội giúp học sinh mở rộng hiểu biết về cuộc sống theo các chủ
điểm đã học. Việc phân tích dàn bài, lập dàn ý, chia đoạn bài văn kể chuyện,
miêu tả,…góp phần khả năng phân tích, tổng hợp, phân loại của học sinh. Tư
duy hình tượng của các em cũng được rèn luyện nhờ vận dụng các biện pháp so

sánh, nhân hóa khi miêu tả cảnh, tả người. Học các tiết tập làm văn, học sinh
cũng có điều kiện tiếp cận với vẻ đẹp của con người, thiên nhiên qua các bài
văn, đoạn văn điển hình. Khi phân tích đề tập làm văn, học sinh lại có dịp hướng
tới cái chân, cái thiện, cái mĩ được định hướng trong các đề bài. Những cơ hội
đó làm cho tình cảm u mến, gắn bó với thiên nhiên, với người và việc xung
quanh được nảy nở, tâm hồn của học sinh thêm phong phú. Đó cũng là những
nhân tố quan trọng góp phần hình thành nhân cách tốt đẹp cho các em. Muốn có
bài tập làm văn tốt, các em cần được bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc, tích lũy vốn
hiểu biết về cuộc sống, các tri thức văn hóa chung thơng qua các mơn học, đặc
biệt phải có sự kiên trì luyện tập các kĩ năng làm bài văn. Để làm được một bài
tập làm văn, điều trước tiên các em phải bộc lộ trên trang giấy về tình cảm yêu,
ghét của mình đối với con đường từ nhà đến trường em thường đi học, quyển
lịch nhà em, cây có bóng mát bên đường, tấm gương miệt mài luyện tập thành
tài…

Page1

Bài làm văn nào cũng là sự thể hiện các trạng thái tình cảm của học sinh.
Chỉ có những tình cảm trong sáng, đẹp đẽ, hồn nhiên mới tạo ra những đoạn
văn, bài văn đáng yêu và đạt kết quả cao. Vì thế giáo viên phải giúp cho học sinh
tự bồi dưỡng tình cảm, cảm xúc, dạy cho các em biết kính trọng ơng bà, cha mẹ,
anh chị,… yêu quý từng quyển sách, cái bút,…những đồ vật gần gũi hằng ngày,
dạy các em tinh thần đoàn kết giúp đỡ các bạn gặp khó khăn… Chính những
tình cảm ấy giúp cho bài văn của các em sống động, lôi cuốn, hấp dẫn người
đọc. Ngược lại những bài văn đạt kết quả chưa cao, giáo viên cần chỉnh sửa
động viên và nhắc nhở để học sinh cố gắng làm tốt hơn.
Vì bài tập làm văn cịn là sản phẩm thể hiện rõ vốn hiểu biết đời sống, trình
độ kiến thức văn hóa của học sinh. Tập làm văn là môn học thực hành, kết quả
của tập làm văn dựa trên sự huy động nhiều kĩ năng khác nhau như kĩ năng phát
âm và nói, kĩ năng viết chữ, kĩ năng dùng từ, đặt câu, viết bài, kĩ năng quan sát.

Vì kĩ năng là kết quả của sự luyện tập, thực hành là sản phẩm của lịng kiên trì.
Muốn có bài tập làm văn đạt kết quả cao, địi hỏi mỗi em phải chịu khó tập viết,
tập nói, tập dùng từ, đặt câu, viết đoạn… nhiều lần. Mà không ngại tập đi tập lại,
không ngại sửa đi sửa lại đoạn văn, câu văn đã viết. Và chính bản thân người
giáo viên cũng kiên trì hướng dẫn học sinh luyện tập và giúp các em sửa chữa
3


các sai sót. Một câu châm ngơn đã nói: “Tài năng một phần mười là bẩm sinh,
chín phần mười là do lao động kiên trì làm nên”.
II. Cơ sở thực tiễn:
- Việc thực hành trình bày diễn đạt bằng lời nói hay viết trong phân mơn
Tập làm văn là một nội dung hết sức quan trọng đối với học sinh lớp 5 (kể cả HS
khá, giỏi).
- HS còn mắc nhiều lỗi về dùng từ, câu, diễn đạt khi thực hành nói viết. Do
đó, kết quả bài làm của các em đạt chất lượng rất thấp.
Vì vậy, vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để tìm ra cách dạy cho học sinh
dễ hiểu, giảm bớt những khó khăn và hạn chế sai lầm của HS khi thực hành
dùng từ, câu để nói, viết trong phân mơn Tập làm văn. Khó khăn, lúng túng của
thầy ở điểm nào? Cách truyền đạt tới học sinh thường mắc lỗi ở đâu? Nguyên
nhân dẫn đến những lỗi đó?....
Từ thực tế giảng dạy và học mơn tập đọc nói chung và hướng dẫn học sinh
thực hành nói, viết trong phân mơn Tập làm văn,tơi thực hiện chun đề này
nhằm tìm ra ngun nhân và giải pháp khắc phục, góp ý kiến đề xuất với đồng
nghiệp với mục đích nâng cao chất lượng dạy môn Tiếng Việt lớp 5
a . Thuận lợi:
- Ban giám hiệu luôn quan tâm đến chất lượng dạy và học.
- Các ban ngành, đồn thể ln tạo điều kiện giúp đỡ hỗ trợ nhiệt tình về
mọi mặt.
- Cơ sở vật chất của trường tương đối đảm bảo cho việc dạy và học.

- Bản thân nhiệt tình trong cơng tác, hết lịng vì học sinh thân u.
- Học sinh đã có sự quan tâm của gia đình có đủ đồ dùng học tập.
b. Khó khăn:
- Địa bàn dân cư khá rộng đời sống của một bộ phận nhân dân cịn khó
khăn.
- Nhiều em ngồi giờ học cịn phải phụ giúp cha mẹ. Mặt khác, gia đình các
em đa số ở cách xa trường, việc đi lại khó khăn nên ảnh hưởng khơng nhỏ đến
việc học tập.
- Trình độ tiếp thu kiến thức Tiếng Việt của các em rất yếu kém. Các em ít
được giao tiếp với mơi trường xã hội bên ngồi nên ngơn ngữ, vốn từ cũng như
cách trình bày, diễn đạt của các em còn rất nhiều hạn chế
- Trình độ phụ huynh cịn hạn chế ( có gia đình khơng biết chữ)

Page1

- Phụ huynh có trình độ song không biết cách hướng dẫn các em làm bài
đúng phương pháp.
- Phụ huynh chưa quan tâm đến việc học của các em, ít gặp gỡ giáo viên để
4


trao đổi về cách dạy cho con em lúc ở nhà.
CHƯƠNG II: NỘI DUNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:
1. Thực trạng:
Năm nay (2015 – 2016), tôi được phân công phụ trách lớp 5 điểm trường
Lang Cang với 5 học sinh. Hầu hết học sinh của lớp 5 tơi chủ nhiệm cịn rất hạn
chế khi làm bài Tập làm văn. Sau khi nghiên cứu sách giáo khoa Tiếng Việt 5,
tôi nhận thấy học sinh lớp 5 đã được học văn miêu tả về đồ vật, cây cối, con vật.
Nhưng qua khảo sát chất lượng đầu năm học này, hầu hết học sinh bị điểm yếu
về Tập làm văn.

Các hạn chế của học sinh là:
- Bài viết của học sinh còn mắc nhiều lỗi chính tả.
- Học sinh chưa xác định được trọng tâm đề bài cần miêu tả.
- Nhiều em thường liệt kê, kể lể dài dòng, diễn đạt vụng về, lủng củng.
Nhiều em chưa biết dừng lại để nói kĩ một vài chi tiết cụ thể nổi bật.
- Vốn từ ngữ của các em cịn nghèo nàn, khn sáo, quan sát sự vật còn hời
hợt.
- Các em chưa biết cách dùng các biện pháp nghệ thuật khi miêu tả.
Thực trạng học sinh còn nhiều hạn chế như vậy đã làm cho tiết Tập làm văn
trở thành một gánh nặng, một thách thức đối với giáo viên. Ý nghĩ cho rằng Tập
làm văn là một phân mơn khó dạy, khó học và khó đạt hiệu quả cao đã là nhận
thức chung của nhiều thầy cô giáo dạy lớp 5.
Đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng chất lượng Tập làm văn của học
sinh khơng đạt u cầu ? Qua q trình giảng dạy lớp 5, tôi nhận thấy học sinh
học yếu Tập làm văn là do nhiều nguyên nhân.
2. Nguyên nhân của thực trạng
Theo tơi có các ngun nhân như sau:
Về phía học sinh:
- Đa số các em rất ngại học phân mơn Tập làm văn vì đây là mơn học địi
hỏi phải dùng ngơn ngữ viết để trình bày bài làm của mình nhưng vốn từ ngữ
của các em cịn rất hạn chế.
- Mặt khác, khả năng cảm thụ văn học của các em chưa cao. Chưa biết sử
dụng các biện pháp nghệ thuật vào trong bài viết của mình nên hầu hết các bài
văn đều chưa có cảm xúc và chưa lôi cuốn người đọc.
- Khi làm văn, học sinh chưa xác định được yêu cầu trọng tâm của đề bài.

Page1

- Học sinh không được quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả.
- Khi quan sát thì các em khơng được hướng dẫn về kĩ năng quan sát: quan

sát những gì, quan sát từ đâu ? Làm thế nào phát hiện được nét tiêu biểu của đối
5


tượng cần miêu tả.
- Khơng biết hình dung bằng hình ảnh, âm thanh, cảm giác về sự vật miêu
tả khi quan sát.
- Vốn từ đã nghèo nàn lại không biết sắp xếp như thế nào để bài viết mạch
lạc, chưa diễn đạt được bằng vốn từ ngữ, ngôn ngữ của mình về một sự vật, cảnh
vật, về một con người cụ thể nào đó.
- Một số học sinh cịn phụ thuộc vào bài văn mẫu, áp dụng một cách máy
móc, chưa biết vận dụng bài mẫu để hình thành lối hành văn của riêng mình.
Phần lớn học sinh thường dùng lời thầy cô hướng dẫn để viết thành bài văn của
mình
Về phía giáo viên:
- Phân mơn Tập làm văn là một mơn học mang tính tổng hợp và sáng tạo,
nhưng lâu nay người giáo viên chưa có cách phát huy tối đa năng lực học tập và
cảm thụ văn học của học sinh; chưa bồi dưỡng được cho các em lịng u q
Tiếng Việt, ham thích học Tiếng Việt để từ đó các em nhận ra rằng đã là người
Việt Nam thì phải đọc thơng viết thạo Tiếng Việt và phát huy hết ưu điểm của
tiếng mẹ đẻ.
Trong chương trình môn Tiếng Việt lớp 5, giữa Tập đọc và Tập làm văn có
mối quan hệ mật thiết với nhau. Cụ thể trong cùng một tuần, cứ sau hai tiết Tập
đọc là đến tiết Tập làm văn. Các bài Tập làm văn thường gắn với chủ điểm đang
học ở các bài Tập đọc. Trong những bài văn, bài thơ, đoạn văn mẫu trong phân
môn Tập đọc, phân môn Tập làm văn, tác giả đã sử dụng nhiều biện pháp tu từ
như: so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, hốn dụ, đảo ngữ, điệp ngữ, điệp từ,… nhưng
một số giáo viên chưa hiểu hết tác dụng của nó.
Hầu hết giáo viên dạy Tập đọc chỉ dừng lại ở mục tiêu cơ bản của tiết dạy
là luyện đọc và trả lời câu hỏi theo yêu cầu sách giáo khoa chưa đi sâu vào

hướng dẫn các em cảm thụ hết cái hay cái đẹp từ các biện pháp nghệ thuật mà
tác giả đã sử dụng để làm toát lên nội dung của bài. Chưa hướng dẫn học sinh
nhận dạng xem bài Tập đọc đó thuộc thể loại văn gì.
Khơng ít giáo viên chưa hiểu hết tầm quan trọng của phân môn Tập đọc và
Tập làm văn, cịn xem nhẹ mơn học này nên trong các buổi học chính khố cũng
như các tiết học tăng thêm vào buổi chiều, nhiều giáo viên chưa đầu tư nội dung
bài soạn. Nếu có xây dựng kế hoạch dạy thì cũng khơng biết dạy nội dung gì?
Dạy như thế nào?

Page1

Trước thực trạng đó, tơi thiết nghĩ mình cần phải thay đổi cách thức dạy
học mới để góp phần nâng cao hiệu quả phân môn Tập làm văn.

6


CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP:
Xuất phát từ thực trạng và nguyên nhân trên, đồng thời thấy rõ vai trò,
nhiệm vụ của một giáo viên đang đứng trên bục giảng, tôi mạnh dạn đưa ra bảy
giải pháp sau đây, hy vọng sẽ nâng cao được chất lượng phân môn Tập làm văn
cho lớp tôi.
1. Điều tra phân loại học sinh
Giáo viên điều tra phân loại học sinh, nắm chắc từng đối tượng học sinh:
học sinh năng khiếu, trung bình, học sinh yếu. Nắm chắc được đối tượng học
sinh, giáo viên sẽ đề ra được kế hoạch dạy học phù hợp, có những biện pháp dạy
học giúp vun xới, phát triển năng lực học văn của học sinh năng khiếu. Đồng
thời, giáo viên cũng có biện pháp phù hợp giúp học sinh yếu, học sinh DT biết
làm văn miêu tả, có thể vận dụng làm được một bài văn hoàn chỉnh.
2. Giáo viên phải nắm vững nội dung, chương trình và phương pháp

dạy Tập làm văn:
Dạy như thế nào để học sinh học giỏi Tập làm văn, viết được những bài văn
miêu tả sinh động ? Điều cơ bản là người dạy phải nắm vững nội dung chương
trình, đồng thời biết chọn và vận dụng phương pháp phù hợp để truyền thụ kiến
thức cho học sinh. Biết được học sinh cần gì, chưa biết những gì để xác định
đúng mục tiêu bài dạy, xác lập được mối quan hệ giữa kiến thức bài dạy với kiến
thức cũ và kiến thức sẽ cung cấp tiếp theo. Cụ thể, giáo viên cần nắm vững
những vấn đề sau :
a. Nội dung chương trình Tập làm văn lớp 5: Cả năm có 62 tiết trong đó
Tập làm văn miêu tả 33 tiết (chiếm hơn 50% số tiết) với mục tiêu là trang bị kiến
thức và rèn luyện kĩ năng làm văn, góp phần cùng với các môn học khác làm
giàu vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình
thành nhân cách cho học sinh.
b. Biện pháp dạy học từng kiểu bài: Hướng dẫn học sinh phân tích ngữ
liệu và làm bài tập thực hành theo các biện pháp sau:


Giúp học sinh nắm vững yêu cầu bài tập.



Tổ chức cho học sinh thực hiện bài tập.

c. Trình tự dạy Tập làm văn:
Trong phần dạy bài mới, giáo viên phải nắm vững trình tự dạy đối với hai
loại bài Tập làm văn: loại bài dạy lý thuyết và loại bài dạy thực hành. Khi dạy
từng loại bài, giáo viên cần chú ý đến các đối tượng học sinh của lớp: có nội
dung cho học sinh khá, giỏi; có nội dung cho học sinh trung bình, yếu,...
Page1


Ví dụ:
Muốn dạy học sinh làm văn miêu tả đạt yêu cầu thì giáo viên cần biết thế
nào là văn miêu tả, đặc điểm thể loại văn miêu tả, biết yếu tố nào là quan trọng
7


và cần thiết để giúp học sinh làm được bài văn miêu tả sinh động thông qua
quan sát đối tượng miêu tả (Nội dung này nằm trong bước chuẩn bị bài mới của
giáo viên).
3. Rèn luyện kĩ năng quan sát cho học sinh
Miêu tả là vẽ lại bằng lời những đặc điểm nổi bật của cảnh, của người để
giúp người nghe, người đọc hình dung được các đối tượng ấy (Tiếng Việt 4 tập
1, trang 140), tức là lấy câu văn để biểu hiện các đặc tính, chân tướng sự vật,
giúp người đọc như được nhìn tận mắt, sờ tận tay vào sự vật miêu tả. Vì vậy, khi
dạy văn miêu tả, giáo viên cần chú ý hướng dẫn học sinh quan sát và miêu tả
theo các trình tự hợp lý, đặc biệt là đối với HS dân tộc. Quan sát theo trình tự từ
xa đến gần, từ trong ra ngoài, từ tổng quát đến cụ thể… Ghi chép những điều đã
quan sát được. Tổ chức cho học sinh quan sát cụ thể đối tượng tả. Có thể hướng
dẫn quan sát theo nhiều hình thức: quan sát trực tiếp đối tượng (sân trường),
quan sát ở nhà, ghi chép (ngôi nhà em đang ở), quan sát qua phim ảnh (cảnh
biển buổi sáng) …
a. Tả theo trình tự khơng gian:
Quan sát tồn bộ trước rồi đến quan sát từng bộ phận, tả từ xa đến gần, từ
ngoài vào trong, từ trái qua phải,... (hoặc ngược lại). Ở lớp 4, lớp 5 trình tự này
được vận dụng khi miêu tả loài vật, đồ vật, cảnh vật,...
Ví dụ 1:
Tả từ ngồi vào trong: “ Đền Thượng nằm chót vót trên đỉnh núi Nghĩa
Lĩnh. Trước đền, những khóm hải đường đâm bơng rực đỏ, những cánh bướm
nhiều màu sắc bay dập dờn như đang múa quạt xoè hoa. Trong đền dòng chữ
vàng Nam Quốc Sơn Hà uy nghiêm đề ở bức hồnh phi treo chính giữa.”

Ví dụ 2:
Tả từ dưới lên trên “ Cây hồi thẳng, cao, tròn xoe. Cành hồi giòn, dễ gãy
hơn cành khế. Quả hồi phơi mình xoè trên mặt lá đầu cành” (Rừng hồi xứ Lạng).
b. Tả theo trình tự thời gian:
Cái gì xảy ra trước (có trước) thì miêu tả trước. Cái gì xảy ra sau (có sau)
thì miêu tả sau. Trình tự này thường được vận dụng khi làm Tập làm văn miêu tả
cảnh vật hay tả cảnh sinh hoạt của người .
Ví dụ:

Page1

“Thảo quả trên rừng Đản Khao đã chín nục. Chẳng có thứ quả nào hương
thơm lại ngây ngất kì lạ đến như thế. Mới đầu xuân năm kia, những hạt thảo quả
gieo trên đất rừng qua một năm, đã lớn cao đến bụng người. Một năm sau nữa,
từ một thân lẻ, thảo quả đâm thêm hai nhánh mới. Sự sinh sôi sao mà mạnh mẽ
vậy.”
c. Tả theo trình tự tâm lí:
Khi quan sát cần thấy những đặc điểm riêng, nổi bật nhất, thu hút và gây
8


cảm xúc mạnh nhất đến bản thân thì quan sát trước, tả trước, các bộ phận khác tả
sau. Khi miêu tả đồ vật, loài vật, tả người nên vận dụng trình tự này nhưng chỉ
nên tả những điểm đặc trưng nhất, không cần phải tả đầy đủ chi tiết như nhau
của đối tượng.
Ví dụ 1:
“ Bà tơi ngồi cạnh tơi chải đầu. Tóc bà đen và dày kì lạ, phủ kín cả hai vai,
xỗ xuống ngực, xuống đầu gối. Một tay khẽ nâng mớ tóc lên và ướm trên tay,
bà đưa một cách khó khăn chiếc lược thưa bằng gỗ vào mớ tóc dày.
Giọng bà trầm bỗng, ngân nga như tiếng chng. Nó khắc sâu vào trí nhớ

tơi dễ dàng, và như những đoá hoa, cũng dịu dàng, rực rỡ, đầy nhựa sống. Khi
bà mỉm cười, hai con ngươi đen sẫm nở ra long lanh, dịu hiền khó tả,...” (Bà Tôi
- Tiếng Việt 5- Tập 1).
Tác giả đã quan sát và tập trung tả mái tóc, giọng nói rồi đến ánh mắt. Mái
tóc “dày kì lạ”.
Ngồi các trình tự miêu tả trên, giáo viên cần hướng dẫn và rèn luyện cho
học sinh kĩ năng sử dụng các giác quan (thính giác, thị giác, xúc giác, vị giác,...)
để quan sát, cảm nhận sự vật, hiện tượng miêu tả.
Ví dụ 3:
Phân tích bài “Mưa rào” (Tiếng Việt 5- Tập 1- Trang 33) ta thấy tác giả đã
quan sát bằng các giác quan như sau:
+ Thị giác: Thấy những đám mây biến đổi trước cơn mưa, thấy mưa rơi.
+ Xúc giác: Gió bỗng thấy mát lạnh, nhuốm hơi nước.
+ Khứu giác: Biết được mùi nồng ngai ngái, xa lạ man mác của những trận
mưa đầu mùa.
+ Thính giác: Nghe thấy tiếng gió thổi, tiếng mưa rơi, tiếng sấm, tiếng hót
của chào mào.
4. Xác định yêu cầu trọng tâm đề bài:
- Học sinh tiểu học vùng thuận lợi có thể viết được những bài văn miêu tả
chỉ bằng quan sát qua tranh ảnh, phim… Nhưng đối với học sinh DT của trường,
những đề tài tương đối xa lạ là điều cần tránh. Các em đến trường học tập bằng
ngôn ngữ thứ hai với vốn tiếng Việt tương đối hạn chế mà giáo viên lại yêu cầu
học sinh hình dung, đặt câu, viết một bài văn miêu tả một đối tượng các em chưa
nhìn thấy bao giờ thì đúng là điều quá sức các em.

Page1

Bài văn của học sinh được viết theo một đề bài cụ thể, cho nên yêu cầu
hàng đầu là các em phải viết đúng đề bài. Một đề bài đưa ra cho học sinh viết
thường ẩn chứa đến 3 yêu cầu: yêu cầu về thể loại (kiểu bài), yêu cầu về nội

dung, yêu cầu về trọng tâm.
Ví dụ: Đề bài ở tuần 4 lớp 5:
9


“ Tả cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) trong một vườn cây (hay trong
công viên, trên đường phố, trên cánh đồng, nương rẫy).
Khi xác định yêu cầu trọng tâm của đề bài, giáo viên phải làm sao giúp học
sinh hiểu được rằng việc viết đúng yêu cầu của đề bài là yếu tố quyết định nội
dung bài viết:
Với đề bài trên, ẩn chứa 3 yêu cầu sau:
+ Yêu cầu về thể loại của đề là: Miêu tả (thể hiện ở từ “Tả”).
+ Yêu cầu về nội dung là: Buổi sáng (hoặc trưa, chiều) thể hiện ở cụm từ
“cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều)”.
+ Yêu cầu về trọng tâm là: Ở trong một vườn cây (hay trong công viên….).
Trong thực tế, không phải đề bài nào cũng xác định đủ 3 yêu cầu. Như đề
bài “Tả một cơn mưa” chỉ có yêu cầu về thể loại và nội dung. Với đề bài này,
giáo viên cần giúp học sinh tự xác định thêm yêu cầu về trọng tâm của bài viết.
Chẳng hạn “Tả một cơn mưa khi em đang trên đường đi học”...
Việc xác định đúng trọng tâm của đề sẽ giúp cho bài viết được thu hẹp nên
các em có được ý cụ thể, chính xác, tránh việc viết tràn lan, chung chung,...
5. Giúp học sinh nắm đặc điểm của từng kiểu bài miêu tả:
Giáo viên giúp học sinh biết dùng lời văn phù hợp với yêu cầu về nội dung
và thể loại cho trước, khi luyện tập. Giáo viên cũng cần lưu ý nhắc nhở các em
nắm vững các đặc điểm của mỗi thể loại, mỗi dạng bài và xác định đối tượng
miêu tả. Trong mỗi bài văn phải thể hiện cái mới cái hay, cái riêng và cảm xúc
của mình.
KIỂU BÀI TẢ CẢNH: Cần xác định các yêu cầu sau:
a. Xác định không gian, thời gian nhất định:
Sau khi xác định thời gian, không gian nhất định học sinh cần biết lựa chọn

trình tự quan sát. Việc quan sát có thể tiến hành ở những vị trí khác nhau nhưng
vẫn phải có một vị trí chủ yếu làm cho cảnh được quan sát bộc lộ ra những điều
cơ bản nhất của nó. Khi đã xác định được vị trí quan sát rồi, ta nên có cái nhìn
bao quát toàn cảnh đồng thời phải biết phân chia cảnh ra thành từng mảng, từng
phần để quan sát.
b. Xác định trình tự miêu tả:
Khi tả phải xác định một trình tự miêu tả phù hợp với cảnh được tả. Tả từ
trên xuống hay từ dưới lên, từ phải sang trái hay từ ngoài vào trong... là tuỳ
thuộc đặc điểm của cảnh.

Page1

c. Chọn nét tiêu biểu:
Chỉ nên chọn nét tiêu biểu nhất của cảnh để tả, tập trung làm nổi bật đặc
điểm đó lên, có thể tả xen hoạt động của người, của vật, ... trong cảnh để góp
phần làm cho cảnh sinh động hơn, đẹp hơn.
10


d. Tả cảnh gắn với cảm xúc riêng bằng nhiều giác quan:
Tả cảnh luôn luôn gắn với cảm xúc của người viết. Cảnh vật mang theo
trong nó cuộc sống riêng với những đặc điểm riêng. Con người cảm nhận cảnh
như thế nào sẽ đem đến cho cảnh những tình cảm như thế. Nhà thơ Lê Anh
Xuân, trong niềm vui của ngày Tổ quốc hồn tồn thống nhất, đất nước thốt
khỏi ách ngoại xâm, bằng tâm trạng hạnh phúc nhất, ông đã thốt lên:
“Bỗng thấy nội tôi trẻ lại
Như thời con gái tuổi đơi mươi.”
Đây chính là phần hồn của cảnh. Cảnh khơng có hồn sẽ trơ trọi, thiếu sức
sống.
e. Chọn từ ngữ thích hợp khi tả cảnh:

Khi làm văn miêu tả cần biết lựa chọn từ ngữ gợi tả, dùng hình ảnh so sánh
hoặc nhân hố để làm nổi bật đặc điểm cảnh đang tả giúp người đọc như đang
đứng trước cảnh đó và cảm nhận được những tình cảm của người viết.
Ví dụ :
Sau đây xin trích một số câu trong bài văn tả cảnh: “Chiều tối” của Phạm
Đức (Sách Tiếng Việt 5- tập 1- trang 22): “Nắng bắt đầu rút lên những chòm cây
cao, rồi nhạt dần và như hoà lẫn với ánh sáng trắng nhợt cuối cùng.”
Ta thấy câu văn miêu tả sự chuyển hoá của ánh sáng từ “nhạt dần” rồi “hoà
lẫn” với “ánh sáng trắng nhợt”.
Tác giả cũng đã dùng mắt để quan sát sự biến đổi của ánh sáng và bóng tối,
đã dùng tai để nghe tiếng dế và dùng mũi để cảm nhận hương vườn và cũng đã
sử dụng nghệ thuật nhân hoá làm cho câu văn sinh động một cách rất tinh tế, khi
viết:
“Bóng tối như bức màn mỏng, như thứ bụi xốp, mờ đen phủ dần lên mọi
vật.”
“Một vài tiếng dế gáy sớm, vẻ thăm dò, chờ đợi.”
“ Trong im ắng, hương vườn thơm thoảng bắt đầu rón rén bước ra và tung
tăng trong ngọn gió nhẹ, nhảy trên cỏ, trườn theo những thân cành.”
KIỂU BÀI TẢ NGƯỜI:
Khi miêu tả người, yếu tố quan sát lại càng quan trọng. Nhìn chung, mọi
người đều có những đặc điểm giống nhau nhưng lại hoàn toàn khác nhau ở
những đặc điểm riêng, chỉ người đó mới có. Nhiệm vụ của giáo viên khi hướng
dẫn học sinh “miêu tả người” là giúp cho các em thấy rằng phải miêu tả ngắn
gọn mà chân thực, sinh động về hình ảnh và hoạt động của người mình tả.
Page1

Ví dụ:
Trong bài văn “Người thợ rèn” (SGK lớp 5- tập 1- trang 123). Tác giả miêu
11



tả người thợ rèn đang làm việc:
“Anh bắt lấy thỏi thép hồng như bắt lấy một con cá sống. Dưới những nhát
búa hăm hở của anh, con cá lửa ấy vùng vẫy, quằn quại, giãy lên đành đạch.”
Ta thấy tác giả quan sát rất kĩ và miêu tả sinh động làm nổi bật hình ảnh
người thợ rèn như một người chinh phục dũng mãnh và thấy rõ quá trình biến
thỏi thép thành một lưỡi rựa.
Vì thế, để làm được bài văn tả người thành công, giáo viên cần giúp học
sinh xác định các yêu cầu sau:
a. Chú ý tả ngoại hình hoạt động:
Khi tả người cần chú ý đến tuổi tác- mỗi lứa tuổi khác nhau sẽ có sự phát
triển về cơ thể, về tâm lý riêng biệt khác nhau và có những hành động thể hiện
theo giới tính, thói quen sinh hoạt, hoàn cảnh sống…. Khi miêu tả cần tập trung
vào việc làm sao nêu được cái chung và cái riêng của con người được miêu tả.
b. Quan sát trò chuyện trực tiếp:
Khi tả người, điều cần nhất là quan sát trực tiếp hoặc trò chuyện, trao đổi ý
kiến với người đó. Quan sát khn mặt, dáng đi, nghe giọng nói, xem xét cách
nói, cử chỉ, thao tác lúc làm việc…để rút ra nét nổi bật... (chọn và quan sát người
định tả trong thời gian chuẩn bị bài mới ở nhà). Ta cũng cần dùng cách quan sát
gián tiếp là thơng qua trí nhớ hoặc nhận xét của một người khác về người định tả
để bổ sung những thông tin cần thiết.
c. Tả kết hợp ngoại hình, tính nết, hoạt động:
Khi miêu tả có thể tách riêng từng mặt,từng bộ phận để tả nhưng để nội
dung bài văn miêu tả đạt được sự gắn bó, súc tích ta nên kết hợp tả ngoại hình,
tính nết đan xen với tả hoạt động.
d. Tả những nét tiêu biểu bằng tình cảm chân thật của mình:
Khi tả người, điều quan trọng là cần tả chân thật những nét tiêu biểu về
người đó, khơng cần phải tơ điểm người mình tả bằng những hình ảnh hoa mĩ,
vẽ nên một hình ảnh tồn diện. Làm như vậy bài văn sẽ trở nên khuôn sáo, thiếu
sự chân thật làm người đọc cảm thấy khó chịu. Thầy cô giáo cần lưu ý học sinh

rằng, trong mỗi con người ai cũng có chỗ khiếm khuyết nhưng nét đẹp thì bao
giờ cũng nhiều hơn ( đẹp về hình thể, đẹp về tính cách, đẹp về tâm hồn….) Nếu
học sinh phát hiện, cảm nhận được và biết tả hết các đặc điểm đó thì sẽ làm cho
bài văn miêu tả của các em sinh động, hồn nhiên đầy cảm xúc và người đọc dễ
chấp nhận hơn.

Page1

Ví dụ:
Trong bài văn tả “Cô Chấm” (sách Tiếng Việt 5- tập 1- trang 156) nhà văn
Đào Vũ đã viết: “Chấm không phải là cô con gái đẹp, nhưng là người mà ai đã
gặp thì khơng thể lẫn lộn với bất cứ một người nào khác.”
“Chấm cứ như một cây xương rồng. Cây xương rồng chặt ngang chặt dọc,
12


chỉ cần cắm nó xuống đất, đất cằn cũng được, nó sẽ sống và sẽ lớn lên. Chấm thì
cần cơm và lao động để sống .”
“Chấm mộc mạc như hòn đất. Hòn đất ấy bầu bạn với nắng với mưa để cho
cây lúa mọc lên hết vụ này qua vụ khác, hết năm này qua năm khác...”
5. Làm giàu vốn từ cho học sinh
Giáo viên cần có biện pháp làm giàu vốn từ ngữ cho học sinh qua từng bài
đọc, từng bài tập ở các môn Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ- câu cùng chủ điểm.
Tạo cho học sinh thói quen quan sát, đánh giá, nhìn nhận một sự vật, một
cảnh vật hay một con người nào đó và thể hiện những điều đã quan sát và đánh
giá được bằng vốn từ ngữ, ngơn ngữ của mình, kịp thời điều chỉnh những lỗi về
dùng từ, viết câu, làm văn...
a. Bài tập làm giàu vốn từ cho học sinh thông qua các phân môn Tiếng
Việt:
Môn Tập đọc giúp các em hiểu được nghĩa đen, nghĩa bóng, hiểu được nội

dung của các đoạn văn, khổ thơ có ý nghĩa miêu tả (cảnh vật, con người,...). Mỗi
tiết dạy Tập đọc nên thêm một vài câu hỏi về thể loại, bố cục và trình tự miêu tả
của tác giả để học sinh thấm dần về Tập làm văn miêu tả.
Môn Luyện từ- câu là mơn có thể giúp học sinh làm giàu vốn từ nhiều nhất
khi dạy các tiết Mở rộng vốn từ. Trong các tiết này có các bài tập mở rộng vốn
từ rất cụ thể, thiết thực như tìm từ, ghép từ, phát hiện từ miêu tả, dùng từ đặt
câu, sắp xếp các từ thành nhóm miêu tả như nhóm từ ngữ miêu tả ngoại hình,
nhóm từ ngữ miêu tả đặc điểm cảnh vật, nhóm miêu tả hoạt động,...
Đặc biệt ở chính phân mơn Tập làm văn, giáo viên có thể giúp học sinh
làm giàu vốn từ theo các đề tài nhỏ:
Ví dụ 1:
Tìm từ láy gợi tả âm thanh trên dịng sơng (bì bọp, ì ọp, ì ầm, xơn xao, ào
ào...)
Ví dụ 2:
Tìm những hình ảnh so sánh để so sánh với dịng sơng: dịng sơng như dải
lụa, dịng sơng như con trăn khổng lồ, dịng sơng như người mẹ hiền ôm ấp đồng
lúa chín vàng...
b. Sử dụng từ ngữ trong miêu tả:
Sau khi học sinh đã có một vốn từ nhất định, giáo viên giúp học sinh các
cách sử dụng vốn từ trong miêu tả như: sử dụng từ láy, sử dụng tính từ tuyệt đối
(đỏ mọng, đặc sệt, trong suốt...), sử dụng các biện pháp nghệ thuật (so sánh,
nhân hố, ẩn dụ...).
Page1

Ví dụ 1: Cho các từ “ríu rít, líu lo, liếp chiếp, rộn ràng, tấp nập, là là, từ
từ...”
13


Hãy chọn từ thích hợp điền vào chỗ trống trong đoạn văn sau: “Tiếng

chim... báo hiệu một ngày mới bắt đầu. Ơng mặt trời... nhơ lên sau luỹ tre xanh.
Khói bếp nhà ai... bay trong gió. Đàn gà con... gọi nhau,...theo chân mẹ. Đường
làng đã... người qua lại.”
Ví dụ 2: Hãy chọn từ ngữ thích hợp trong ngoặc điền vào chỗ trống để
được các câu văn có hình ảnh so sánh phù hợp nhất (tiếng chuông, chùm sao,
thuỷ tinh, dải lụa, giọng bà tiên).
- Hoa xoan nở từng chùm trông giống như...

( những chùm sao )

- Nắng cứ như...xối xuống mặt đất.

( thuỷ tinh )

- Giọng bà trầm ấm ngân nga như...

( tiếng chng )

Ở ví dụ 1 và ví dụ 2, cho số từ nhiều hơn số chỗ trống cần điền, buộc HS
phải suy nghĩ kĩ hơn khi chọn từ.
6. Sử dụng phương pháp luyện tập theo mẫu:
Gợi ý cho học sinh khá giỏi làm bài, trình bày câu văn, đoạn văn. Cả lớp
theo dõi, nhận xét, giáo viên chốt lại và cho học sinh phát biểu. Nhưng điểm
mấu chốt là giáo viên phải chú ý từng đối tượng học sinh, sửa cho từng em,
động viên sự sáng tạo của các em, dù là rất nhỏ.
7. Cá thể hóa hoạt động dạy học
- Quan tâm đến đối tượng học sinh trung bình, yếu đồng thời vẫn đảm bảo
phát triển năng lực cảm thụ văn học đối với học sinh khá giỏi.
8. Lập và hoàn thiện dàn ý
Đây là một việc làm khó. Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh lập dàn ý

trước khi làm thành một bài văn hồn chỉnh. Có lập được dàn bài thì mới có thể
tìm ý, sắp xếp ý, viết thành một bài văn mạch lạc, bố cục rõ ràng, ý văn trong
sáng.
Để làm một bài văn đúng trình tự, đầy đủ nội dung, hay về ý tứ lời văn, đẹp
về hình ảnh sống động, dùng từ viết câu chính xác, rõ ràng... địi hỏi học sinh
phải có vốn kiến thức về từ ngữ, kiến thức về câu, về cách xây dựng văn bản.

Page1

Khi học sinh đã được cung cấp những từ ngữ miêu tả rồi, giáo viên cần tổ
chức, hướng dẫn cho các em lập dàn ý, lựa chọn sắp xếp ý để miêu tả. Mục đích
xây dựng dàn ý là giúp học sinh xác định được đúng yêu cầu của từng phần: mở
bài, thân bài, kết bài, xác định thể loại và đối tượng miêu tả để tránh tình trạng
học sinh viết tràn lan, lạc đề và miêu tả không trọng tâm.
Hoạt động tiếp theo sau khi lập dàn ý là hoàn thiện dàn ý. Đây là bước quan
trọng, cần thiết để có được một bài tập làm văn viết tốt nhất. Khi làm bài vào vở,
học sinh cần chú ý cách trình bày, chữ viết, lỗi chính tả. Đó là những yếu tố giúp
học sinh thành cơng trong q trình học Tập làm văn. Cuối cùng, khi đã làm bài
xong học sinh cần kiểm tra lại bài viết của mình trước khi nộp bài.
14


9. Giáo viên chấm bài và trả bài viết
Chương trình Tập làm văn lớp 5 có 3 tiết trả bài tả cảnh, 3 tiết trả bài tả
người, 4 tiết trả bài kể chuyện, đồ vật, cây cối, con vật. Ta nhận thấy rằng có
chấm bài chu đáo thì mới có tiết trả bài đạt hiệu quả.
a. Chấm bài:
Khi chấm bài Tập làm văn cho học sinh, mỗi bài tôi đọc qua một lượt để có
cái nhìn chung về bố cục, về diễn đạt của học sinh, xem thử học sinh đã làm bài
đúng thể loại, nội dung và trọng tâm bài viết chưa. Tôi ghi ra sổ chấm bài những

chỗ hay, chưa hay hoặc sai những lỗi gì...của từng HS.
Khi nhận xét, đánh giá bài làm xong cho cả lớp, tôi đánh giá chung kết quả
bài làm của học sinh và rút ra những tiến bộ cần phát huy, và những thiếu sót cần
sửa chữa bổ sung để chuẩn bị cho tiết trả bài sắp tới…..
b. Trả bài viết:
Nội dung, phương pháp lên lớp một tiết trả bài Tập làm văn viết lớp 5, theo
sách giáo khoa xác định có 3 hoạt động chính:
1. Nghe thầy (cơ) nhận xét chung về kết quả bài làm của lớp.
2. Chữa bài.
3. Đọc tham khảo các bài văn hay được thầy (cô) giáo khen để học tập và
rút kinh nghiệm (TV5- T1- T53).
Để tiết trả bài viết đạt hiệu quả, giáo viên cần lấy thông tin từ bài viết của
học sinh (đã chấm và ghi ở sổ chấm bài) và thực hiện các hoạt động trả bài một
cách bài bản, có linh hoạt tuỳ theo tình hình chất lượng Tập làm văn của lớp.
Hoạt động 1: Nhận xét chung về bài làm của lớp gồm các bước sau:
Bước 1: Đánh giá việc nắm vững các yêu cầu của đề bài (ghi đề, học sinh
đọc đề bài, xác định 3 yêu cầu: thể loại, nội dung và trọng tâm). Đánh giá tình
hình làm bài của lớp về mặt nhận thức đề (số bài đã đạt 3 yêu cầu của đề, số bài
chưa đạt hoặc đạt chưa đủ 3 yêu cầu. Biểu dương cá nhân, cả lớp...).
Bước 2: Đánh giá về nội dung bài viết (cho học sinh nêu dàn ý chung của
kiểu bài tả cảnh,( tả người )… Đọc một vài đoạn văn đã chọn sẵn cho học sinh
nghe và nhận xét, cuối cùng giáo viên đánh giá chung về nội dung đoạn văn đó.
Hoạt động 2: Chữa bài:

Page1

Nội dung và cách thức thực hiện sửa chữa lỗi diễn đạt:
Việc sửa chữa lỗi diễn đạt dựa trên cơ sở bài làm của cả lớp mà trong quá
trình chấm bài, GV đã ghi ra các câu có vấn đề về ngữ pháp, các lỗi chính tả …
Đến lúc này GV tổ chức, hướng dẫn cho HS nhận xét, sửa chữa. Định hướng

như vậy sẽ giúp cho việc sửa chữa lỗi sát hợp và kịp thời uốn nắn kĩ năng diễn
đạt cho lớp. Tuy nhiên, sửa như vậy sẽ dẫn đến tình trạng nhàm chán trong HS
vì tiết trả bài nào cũng sửa chữa những lỗi đó.
15


Riêng tôi, ngay từ đầu năm học đã lên kế hoạch sửa lỗi diễn đạt cho lớp,
mỗi tiết trả bài viết tập trung sửa chữa cho một hoặc hai loại lỗi nào đó một
cách bền vững, tức là cần có trọng tâm sửa lỗi cho từng tiết.
Hoạt động 2 này tiến hành theo 3 bước :
Bước 1: Tham gia chữa lỗi chung cho cả lớp:
Ví dụ:
Tiết trả bài viết số 1(tả cảnh, tuần 5) : Trọng tâm sửa lỗi là luyện từ -câu và
thực trạng viết câu.
Bước 2: Học sinh đọc lại bài làm của mình, chú ý những chỗ mực đỏ ghi
lời khen, chê của cơ giáo. ( Ví dụ : câu hay, đoạn hay, hoặc lỗi dùng từ, lỗi viết
câu, lỗi chính tả…)
Bước 3: Học sinh tự chữa bài vào vở tập làm văn.
Hoạt động 3:

Page1

Đọc tham khảo một số đoạn, hoặc vài bài văn hay của một số em cho cả lớp
nghe để học tập và rút kinh nghiệm.

16


C. KẾT QUẢ:
I. Tiêu chí đánh giá:

Để đánh giá kết quả sau khi đã tiến hành áp dụng các giải pháp rèn kĩ năng
viết văn cho học sinh lớp phụ trách. Tơi đề ra những tiêu chí để đánh giá một bài
văn được coi là đạt yêu cầu như sau:
1. Tả cảnh:
- Xác định được đối tượng miêu tả: cảnh nào? ở đâu? Vào thời điểm nào?
- Quan sát lựa chọn được những hình ảnh tiêu biểu.
-Trình bày những điều quan sát được theo một thứ tự.
* Mở bài: Giới thiệu được cảnh sẽ tả.
* Thân bài: Tả cảnh vật chi tiết theo mộtthứ tự nhất định, có thể ở một số
trường hợp sau:
+ Từ khái quát đến cụ thể (hoặc ngược lại)
+ Khơng gian từ trong tới ngồi. (hoặc ngược lại)
+ Không gian từ trên xuống dưới. (hoặc ngược lại)
* Kết bài: phát biểu cảm tưởng về cảnh vật đó.
2. Tả người
- Phân biệt được đối tượng miêu tả theo yêu cầu:
- Tả được chân dung nhân vật ( về ngoại hình, tính nết…)
- Tả đươc người trong tư thế hoạt động (tả người trong hành động: chú ý
các chi tiết thể hiện cử chỉ, trạng thái cảm xúc)
* Mở bài: Giới thiệu người được tả (chú ý đến mối quan hệ của người viết
với nhân vật được tả, tên, giới tính và ấn tượng chung về người đó)
*Thân bài:
+ Miêu tả được khái quát hình dáng, tuổi tác, nghề nghiệp..
+ Yề tả chi tiết: ngoại hình, cử chỉ, hành động, lời nói… ( tả người trong
cơng việc, các động tác, khuôn mặt thay đổi, trạng thái cảm xúc, ánh mắt…).
+ Tả được các chi tiết khiến người đọc có thể cảm nhận được tính cách của
đối tượng và thái độ của người miêu tả đối với đối tượng đó.
* Kết bài: Nêu được cảm nghĩ của người viết về người được miêu tả.

Page1


3. Miêu tả sáng tạo
- Tả cảnh phải bám vào một số nét thực của đời sống. Ví dụ khi tả một
phiên chợ trong tưởng tượng của em cần dựa trên những đặc điểm thường xảy ra
của cảnh đó làm cơ sở tưởng tượng như: khơng khí của cảnh, số lượng người với
17


những lứa tuổi tầng lớp nào? chợ diễn ra ở địa điểm nào? Thời tiết khí hậu ra
sao?….Những cơ sở đó là thực tế để tưởng tượng theo ý định của mình.
- Tả người trong tưởng tưởng: nhân vật thường là những người có đặc điểm
khác biệt với người thường như các nhân vật ông Tiên, ông Bụt trong cổ tích hay
một người anh hùng trong truyền thuyết….Cần dựa vào đặc điểm có tính bản
chất để tưởng tượng những nét ngoại hình cho phù hợp, tạo sự hấp dẫn
- Sự ví von so sánh để bài văn miêu tả có nét độc đáo mang tính cá nhân rõ.
II. Kết quả:
Qua những biện pháp và giải pháp tôi đã áp dụng được nêu ở trên, đến cuối
học kì I năm học 2015 – 2016 các em đã nắm được một số vốn kiến thức nhất
định để học có hiệu quả phân mơn Tập làm văn. Cả lớp đều ham thích mơn học,
không sợ sệt khi đến tiết Tập làm văn như đầu năm học nữa. Bài làm của các em
đa số đã có tiến bộ, học sinh nắm được cách sắp xếp ý, bố cục chặt chẽ, dùng từ
chính xác, viết câu văn trơi chảy, mạch lạc, bước đầu có hình ảnh, cảm xúc, hiểu
và vận dụng khá tốt các biện pháp tu từ trong các bài tập làm văn của mình. Các
em cảm thụ được bài văn, đọc bài trơi chảy, hiểu đúng nội dung bài, nhất là rất
tự tin khi đến tiết học Tập làm văn.
Diễn biến chất lượng Tập làm văn:

Thời điểm

Số

HS

Biết sắp xếp
ý, bố cục chặt chẽ,
dùng từ chính xác,
viết câu văn trơi
chảy, mạch lạc,
bước đầu có hình
ảnh, cảm xúc

Biết
sắp
xếp ý, viết đủ
các phần, biết
dùng từ viết
được câu văn

Chưa biết
sắp xếp ý, chưa
viết đủ các phần,
chưa biết dùng
từ, câu, cịn sai
chính tả,

Khảo
sát
đầu năm

5 0


0%

1

20%

4

80%

Giữa HKI

5 0

0%

2

20%

3

60%

Cuối HKI

5 1

20%


2

40%

2

40%

Page1

Diễn biến chất lượng phân môn Tập làm văn sau khi áp dụng đề tài này thật
đáng phấn khởi, đây là kết quả của một quá trình phấn đấu của giáo viên và học
sinh lớp 5 điểm trường Lang Cang. Chất lượng phân môn Tập làm văn đi lên rõ
rệt đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt của
lớp.

18


D. BÀI HỌC KINH NGHIỆM.
1. Đối với giáo viên:
- Từ thực tế giảng dạy, tôi thấy để nâng cao chất lượng dạy tập làm văn
người giáo viên cần:
- Tìm hiểu kỹ đối tượng học sinh, đặc điểm tâm lý của học sinh, hiểu và
nắm chắc đặc điểm, chức năng của văn miêu tả và cần giúp các em hiểu rõ các
đặc điểm ấy ngay từ tiết đầu tiên của thể loại văn miêu tả.
- Vì tập làm văn là phân môn thực hành tổng hợp của tất cả các phân môn
thuộc môn Tiếng việt nên muốn dạy tập làm văn có chất lượng cần thiết phải dạy
tốt các phân mơn còn lại.
- Cần chuẩn bị chu đáo trước khi lên lớp, cần phải đầu tư hơn nữa về

phương pháp và biện pháp cho mỗi giờ học phân môn Tập làm văn ( từng thể
loại, từng kiểu bài cụ thể ) cần đọc cho học sinh nghe các câu văn, câu thơ có sử
dụng các biện pháp nghệ thuật, cung cấp cho cac em những đoạn văn mẫu…
giúp các em mở rộng vốn từ, mở rộng vốn hiểu biết để từng bước giúp các em
nắm vững kiến thức, chủ động nói lên những suy nghĩ hồn nhiên của mình; nói
đúng, nói hay, làm giàu thêm vốn từ ngữ và giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt
.
- Trong việc tổ chức cho học sinh hoạt động học tập, giáo viên cần thường
xuyên kiểm tra, phát hiện những kiến thức bị hổng để có biện pháp giúp đỡ các
em bổ sung cho đầy đủ. Thường xuyên cho học sinh ôn luyện, củng cố những
kiến thức đã học một cách linh hoạt.
- Luôn tạo bầu khơng khí vui tươi, tự nhiên, thoải mái, kích thích học sinh
hoạt động học tập để phát huy vốn sống, khả năng diễn đạt trong văn nói cũng
như văn viết.
- Cần coi tiết trả bài như một khâu không thể thiếu của các hoạt động tiếp
theo. Trả bài là tiết học mà giáo viên dành nhiều thời gian để sửa lỗi cho học
sinh, giúp học sinh điều chỉnh những sai sót mắc phải trong bài viết để bài viết
sau sẽ hoàn chỉnh hơn, hấp dẫn hơn.
- Giáo viên cần phải kiên trì, bền bỉ, khơng được nóng vội. Bởi vì có những
học sinh tiến bộ ngay trong vài tuần nhưng cũng có những học sinh thì sự tiến bộ
diễn ra rất chậm, khơng phải vài tuần, có khi vài tháng, thậm chí cả một học kỳ.
Nếu giáo viên khơng biết chờ đợi, nơn nóng thì chắc chắn sẽ thất bại.
2. Đối với học sinh:
- Xây dựng cho bản thân thói quen học tập
Page1

- Chuẩn bị bài ở nhà, mang đầy đủ tài liệu sách vở đến lớp để chủ động
trong giờ học.
19



- Thực hiện tốt các hoạt động học tập dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
- Làm văn: Đọc kĩ đề => tìm ý, dàn ý => vận dụng các kĩ năng để làm bài
- Đọc lại đề, đọc kĩ lời phê, sửa lỗi kịp thời, không được tự ái, bi quan
- Phải rèn thói quen tự kiểm tra, đánh giá và sửa lỗi sau khi làm bài.
- Tham khảo bài viết tốt của các bạn để học tập.

Page1

- Rèn thói quen mở mang kiến thức: đọc sách báo, giao lưu với bạn bè,…

20


E. ĐỀ XUẤT Ý KIẾN:
1. Với các cấp quản lý:
Để kết quả của đề tài có thể được áp dụng rộng rãi và có hiệu quả, tơi xin
có một số ý kiến đề xuất sau đây:
* Đối với Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT:
- Cần tăng thời lượng cho các tiết dạy tập làm văn xây dựng đoạn văn miêu
tả để học sinh được rèn kỹ năng nhiều hơn.
- Kiểm soát các loại sách nâng cao, sách tham khảo, sách chuyên đề phục
vụ cho việc dạy và học tập làm văn lớp 5.
- Nghiên cứu các ngữ liệu đưa vào sách giáo khoa cho phù hợp với tâm lý
lứa tuổi, phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh.
- Hàng năm cần tổ chức các phong trào thi đua viết thơ văn, sáng tác nhỏ
của tuổi thơ để các em có điều kiện phát huy tài năng của mình.
- Thường xuyên mở các hội thảo, nói chuyện chuyên đề với các chuyên gia
về dạy và học tập làm văn để giáo viên được tiếp xúc, học hỏi kinh nghiệm trong
công tác giảng dạy.

- Trong các kỳ hội giảng, hội thi nên khuyến khích giáo viên dạy tập làm
văn để trao đổi tìm ra phương pháp hay.
- Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho nhà trường: Trang bị những thông
tin hiện đại, máy tính nối mạng Internet để giáo viên có thể tra cứu, tìm các
thơng tin phục vụ cho giảng dạy.
* Đối với Ban giám hiệu nhà trường:
- Có thể bố trí để giáo viên dạy theo phân mơn để tiết kiệm thời gian soạn
bài, giúp giáo viên có thêm thời gian đầu tư nghiên cứu chuyên sâu những môn
được phụ trách.
- Tăng cường đầu sách trong thư viện để giáo viên có đủ tư liệu tham khảo
phục vụ cho giảng dạy nhất là các tạp chí: Giáo dục Tiểu học, Thế giới trong
ta…
- Nâng cao hiệu quả các giờ chun mơn, khuyến khích giáo viên đầu tư
trao đổi kế hoạch bài học, cùng thống nhất soạn giáo án tập thể để phát huy sở
trường của từng cá nhân và sức mạnh của tập thể.

Page1

- Hàng năm thường xuyên tổ chức cho giáo viên và học sinh đi thăm quan
du lịch để nâng cao hiểu biết về cảnh vật, đất nước và con người Việt Nam.
2. Đối với giáo viên:
- Để dạy tốt, GV cần phải học, và tiếp tục học hồi để tích lũy kiến thức.
21


GV phải có một q trình chuẩn bị đầy đủ, chu đáo cho một tiết dạy, không
được hời hợt chủ quan.
- Một tiết dạy tốt của người thầy bao hàm cả tiết học tốt của trò. Tiết dạy tốt
phải là tiết dạy dễ hiểu, rõ ràng, rành mạch, có trật tự, làm cho học sinh (HS)
hứng thú, chăm chú nghe giảng một cách tập trung. Dạy xong, HS nắm vững nội

dung bài giảng, khắc sâu được kiến thức trọng tâm. Với mơn văn, ngồi việc
hiểu bài, cảm nhận đầy đủ, sâu sắc nội dung, các em còn lắng đọng suy tư về các
hình tượng, nhân vật trong bài học mà GV đã truyền đạt. Do đó, để dạy được tốt,
GV phải đối mặt với nhiều yêu cầu và đòi hỏi về nhiều mặt. Muốn vậy, người
thầy phải hội đủ các điều kiện sau:
Một là: GV phải có một vốn kiến thức sâu rộng về bộ mơn mình đảm trách,
để có thể “lớn hơn HS một cái đầu” và “để biết mười mà dạy một”.
Hai là: Nắm vững các phương pháp. Ta thường nói “nội dung nào phương
pháp ấy”. Dạy học không thể mô tả chung chung mà phải biết khai thác, mở
rộng. Dạy học phải có giáo cụ trực quan, để các em được quan sát mổ xẻ,…
Ba là: Phân phối thời gian hợp lý. Xác định cho được đâu là nội dung trọng
tâm của bài, để dành thời gian thích đáng. Có như vậy mới tránh được miên man
sa đà vào những phần “râu ria”.
Bốn là: Phải quan tâm đến đối tượng HS mà ta giảng dạy. Đã đành cùng
một lớp là có một trình độ phổ thơng như nhau, nhưng lại khác biệt về mặt tâm
sinh lý. Có em hay lơ đãng, thiếu tập trung, có em tiếp thu chậm, có em “ngồi
nhầm lớp”… Vì vậy, với một người thầy, ta vẫn phải có trách nhiệm quan tâm
đến tất cả các em, dù chỉ dạy một tiết, dù khơng phải GV chủ nhiệm. Có thể
bằng nhiều cách, bất chợt hỏi một câu để “đánh thức” một em đang lơ đãng, hay
đặt một câu hỏi để kiểm tra em tiếp thu chậm, hoặc hỏi cả lớp xem có nội dung
nào chưa hiểu để giảng lại kỹ hơn…

Page1

Năm là: Cần chuẩn bị kỹ, để có thể sẵn sàng giải đáp được các câu hỏi của
HS đặt ra. Có thể có những câu hỏi thật thơng minh, cũng có thể có những câu
hỏi “cắc cớ, ngớ ngẩn” mà ta chưa lường hết được. Nếu hết thời gian hoặc “bí
quá giáo viên có thể khất lại tiết sau để tra cứu thêm. Điều đó, chẳng có gì đáng
sĩ diện cả, chỉ có dạy sai kiến thức mới đáng “mắc cỡ” thơi.
Tóm lại: Để dạy tốt, GV cần phải học, và tiếp tục học hồi để tích lũy kiến thức.

GV phải có một quá trình chuẩn bị đầy đủ, chu đáo cho một tiết dạy, không được
hời hợt chủ quan. Tất nhiên là phải bám vào nội dung chính của sách giáo khoa.
Vì đó là “pháp lệnh”. Song khơng q câu nệ và lệ thuộc vào sách mà phải tìm
tịi chuẩn bị thêm một số kiến thức, một vài ví dụ để mở rộng, để minh họa, làm
phong phú thêm cho bài giảng.
Cần sự hợp tác tích cực của thầy và trị. Trên lớp, người thầy phải linh hoạt
trong phương pháp giảng dạy để HS hiểu và tích cực tham gia vào các hoạt động
học tập. GV phải làm thế nào để thể hiện được sự năng động và sáng tạo trong
từng tiết dạy của mình. Hay nói đúng hơn phải có những “chiêu thức” khác nhau
22


để tạo niềm hứng khởi đối với HS ở môn học mình phụ trách. Ví dụ, bắt đầu một
tiết dạy, thay vì nêu câu hỏi trả bài thơng thường, GV có thể thay thế bằng một
tình huống cụ thể trong đời sống hàng ngày để dẫn dắt các em vào bài học. Việc
ứng dụng CNTT trong giảng dạy hiện nay cũng góp phần vào sự thành cơng của
tiết dạy nếu GV biết vận dụng hợp lí và khơng gây nhàm chán với HS. Không
phải lúc nào cũng “chiếu và chiếu” mà chúng ta phải ứng dụng thế nào cho “cần
và đủ”. Một điều quan trọng nữa, đó là GV phải làm sao cho HS thể hiện được
mình trong từng tiết dạy. Trong một lớp học có nhiều HS với trình độ khác nhau,
vì thế chúng ta phải có một sự phân cơng hợp lí trong những hoạt động học tập.
Hay nói đúng hơn là người thầy phải hiểu được học trị mình để giúp các em có
được niềm hứng thú trong học tập cho dù các em là HS giỏi hay trung bình, yếu,
kém. Bằng những thủ thuật khác nhau trong các hoạt động giảng dạy, người thầy
sẽ tạo cho học trị mình một mơi trường học tập thuận lợi để từ đó các em có
được
một
động

tốt

hơn
qua
từng
tiết
học.
Sự hợp tác tích cực giữa thầy và trò sẽ là một yếu tố quan trọng trong tiết dạy.
Chúng ta đừng quan niệm rằng HS chỉ là một người học mà phải xem các em là
một “đối tác” trong các hoạt động giáo dục. Cũng như trong kinh doanh, trong
giáo dục cũng thế, người thầy phải làm thế nào để cho “đối tác” thấy được lợi
ích của mình thì sẽ thành cơng.
Đồn Đạc ngày tháng năm 2016
Người viết

Page1

Nông Văn Phương

23


TÀI LIỆU THAM KHẢO

Page1

1. Sách giáo khoa, sách giáo viên Tiếng Việt Lớp 4, Lớp 5 hiện hành.
2. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ 3.
3. Học tốt Tiếng Việt 5 (Tập 1, Tập 2)- Tác giả: Phạm Thị Hồng Hoa.
4. Luyện tập cảm thụ văn học ở Tiểu học- Tác giả: Trần Mạnh Hưởng.
5. Tạp chí thế giới trong ta.
6. Dạy học lấy học sinh làm trung tâm.

7. Phương pháp luyện từ và câu Tiểu học (Lớp 4)- Tác giả: Trần Đức Niềm, Lê
Thị Nguyên, Ngô Lê Hương Giang.

24


×