Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Đánh giá sự phát triển kinh tế - xã hội thành phố Nam Định trong vai trò trung tâm nam đồng bằng sông Hồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (710.92 KB, 8 trang )

HNUE JOURNAL OF SCIENCE
Educational Sciences, 2018, Volume 63, Issue 5, pp. 187-194
This paper is available online at

DOI: 10.18173/2354-1075.2018-0076

ĐÁNH GIÁ SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH
TRONG VAI TRỊ TRUNG TÂM NAM ĐỒNG BẰNG SƠNG HỒNG

Vũ Đại An
Sở Khoa học và Cơng nghệ Nam Định
Tóm tắt. Năm 2006, thành phố Nam Định được Thủ tướng chính phủ phê duyệt đề án Quy
hoạch tổng thể phát triển trở thành trung tâm kinh tế, văn hoá, xã hội của vùng nam đồng
bằng sông Hồng. Bên cạnh việc tổng quát những thành tựu phát triển của thành phố Nam
Định trên các lĩnh vực kinh tế, bài viết đã phân tích những lợi thế, hạn chế, cơ hội và thách
thức trong vai trị là đơ thị trung tâm nam đồng bằng sơng Hồng. Trên cơ sở đó đề xuất một
số giải pháp cụ thể nhằm đẩy mạnh sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Nam Định để
phát huy vai trị trung tâm của mình.
Từ khóa: Đánh giá, phát triển kinh tế - xã hội, Nam Định.

1. Mở đầu
Thành phố Nam Định là một đô thị loại I tỉnh Nam Định. Vị trí địa lí nằm tại phía bắc của tỉnh,
phía đơng bắc giáp tỉnh Thái Bình, phía tây bắc giáp huyện Mỹ Lộc, phía tây nam giáp huyện Vụ
Bản, phía đơng nam giáp huyện Nam Trực.
Là một trong những vùng đất cổ của tỉnh Nam Định, đất đai lại tương đối bằng phẳng,
thuận lợi cho phát triển nông nghiệp nên từ sớm nơi đây đã là một trung tâm văn hóa - tơn giáo.
Khơng chỉ có vậy, thành phố Nam Định có một vị trí địa lí khá thuận lợi khi nằm giữa hai con
sơng lớn của đồng bằng Bắc Bộ là sông Hồng và sơng Đáy. Nằm giữa hai con sơng đó là hàng
loạt các con sông nhỏ đan xen với nhau, thuận tiện cho việc giao thông trong vùng và liên vùng.
Ngày 19/5/2006, Thủ tướng chính phủ ra quyết định số 109/2006/QĐ-TTg về việc phê duyệt
đề án quy hoạch tổng thể phát triển thành phố Nam Định trở thành trung tâm kinh tế, văn hóa, xã


hội của vùng nam đồng bằng sơng Hồng. Có thể nói đây cũng là căn cứ pháp lí để đề cao truyền
thống văn hóa và tiềm năng phát triển của thành phố Nam Định.
Kể từ khi Thủ tướng Chính phủ ra quyết định phê duyệt đề án cơng nhận thành phố Nam
Định là trung tâm kinh tế, chính trị văn hóa nam đồng bằng sơng Hồng thì cùng với đó là hàng
loạt các quy hoạch, đề án thuộc các sở ngành trong tỉnh được xây dựng với nhiều luận cứ, luận
chứng khác nhau và đều với mục tiêu xây dựng thành phố Nam Định theo như quyết định của thủ
tướng phê duyệt. Có thể nhận thấy mặc dù các quy hoạch ngành đều được UBND tỉnh phê duyệt
nhưng chưa được xây dựng thành một tổng thể thống nhất, vẫn cịn tình trạng “trăm hoa đua nở”,
tự phát thậm chí là các số liệu trích dẫn cịn lệch nhau... Ngoài ra, sự thiếu cơ chế giám sát, chế tài
thực hiện các đề án, quy hoạch đã gây nên sự chồng chéo, giàn trải và ảnh hưởng đến tính hiệu
quả thực thi trong thực tế.
Ngày nhận bài: 5/3/2018. Ngày sửa bài: 19/4/2018. Ngày nhận đăng: 26/4/2018.
Tác giả liên hệ: Vũ Đại An. Địa chỉ e-mail:

187


Vũ Đại An

Bên cạnh đó cũng cần kể đến các cơng trình nghiên cứu cấp tỉnh được thực hiện trong giai
đoạn qua như sau: Nghiên cứu đánh giá thực trạng đầu tư nước ngoài và giải pháp nâng cao hiệu
quả xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài tồng chiếm tỉ trọng nhỏ
so với tồn vùng đồng bằng sơng Hồng và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.
Bảng 2. GDP và thu ngân sách địa phương các địa phương
của vùng nam đồng bằng sông Hồng năm 2014 (Giá thực tế)
Stt

Địa phương

GDP


Thu ngân sách
địa phương

1

Nam Định

55349,7

9716,8

2

Ninh Bình

32489,5

11848,2

3

Hà Nam

76424,6

3212,1

4


Thái Bình

47521,0

12712,7

(Đơn vị: tỉ đồng )
(Nguồn: Tư liệu vùng đồng bằng sông Hồng năm 2014)
Đặc điểm của đô thị trung tâm đồng thời cũng là một trung tâm kinh tế có quy mơ lớn, cơ cấu
ngành đa dạng, đặc biệt là trong sản xuất công nghiệp, dịch vụ. Bảng số liệu trên cho thấy so với
các tỉnh xung quanh thì Nam Định chưa có một bước phát triển vượt bậc mang tính chất đầu tàu,
có chức năng lan toả cả về khoa học và kinh tế so với các đô thị xung quanh.
Trong vai trị cơng nghiệp, Hà Nam đang là một tỉnh đứng đầu khu vực nam đồng bằng sông
Hồng. Với tỉ trọng công nghiệp chiếm tới 72,5%, đạt 55.399, 3 tỉ đồng so với Nam Định là 22.415
tỉ đồng vào năm 2014 thì đây là một cách biệt rất lớn. Nằm sát cạnh Thủ đô Hà Nội, Hà Nam cũng
là một tỉnh biết cách phát huy tối đa lợi thế về vị trí địa lí của mình khi đầu tư xây dựng một loạt
các dự án là vệ tinh của các bệnh viện như Việt - Đức, Bạch Mai với các trang thiết bị hiện đại,
quy mô rộng lớn đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh cho tồn vùng.
Ninh Bình cũng là một tỉnh biết cách phát huy tối đa những lợi thế về tài nguyên thiên nhiên
trong việc phát triển dịch vụ du lịch. Chính từ nguồn lợi lớn từ du lịch và dịch vụ nên Hà Nam đã
là tỉnh có tổng thu ngân sách địa phương lớn nhất trong bốn tỉnh. Khơng chỉ có vậy, với lợi thế
nằm trên trục đường Bắc - Nam cùng sự chú trọng đầu tư vào cơ sở hạ tầng kết hợp với cải cách,
giảm nhẹ thủ tục hành chính nên Ninh Bình cũng là một tỉnh có sự thu hút đầu tư rất lớn. Chỉ số
năng lực cạnh tranh (PCI) năm 2016 của Ninh Bình đứng thứ 19 tồn quốc, dẫn đầu trong bốn tỉnh.
Riêng đối với nông nghiệp, theo thống kê vào năm 2014 thì diện tích đất nơng nghiệp của cả
Nam Định và Thái Bình có khoảng 93.000 ha, tuy nhiên tổng sản phẩm nông nghiệp của Nam
Định chỉ đạt 13.560,3 tỉ đồng cịn Thái Bình đạt 16.971,0 tỉ đồng. Thái Bình cũng là tỉnh đang đi
đầu trong công tác nghiên cứu phát triển các giống lúa năng suất chất lượng để cung cấp cho tồn vùng.
Có thể nói, từ thời Pháp thuộc, với sự phát triển của công nghiệp nên một số đơ thị đã hình
thành và dần phát triển, trong đó nổi bật là Hà Nội, Hải Phịng và Nam Định. Tuy nhiên cho đến nay,

trong khi Hải Phòng và Hà Nội vẫn giữ được vai trò hết sức quan trọng nhờ vào sự phát triển
khơng ngừng thì Nam Định sau một thời gian sa sút đã dần mất đi vị thế một đô thị hàng đầu
trong vùng. Mặc dù ở những lần chia tách, sáp nhập trước đây (Hà Nam Ninh, Nam Hà) thì thành
phố Nam Định ln được lựa chọn là tỉnh lị nên vai trò trung tâm vẫn được xác lập, tuy nhiên cho
đến nay mối giao thương của Nam Định đang giới hạn trong vai trò tiểu vùng với mức độ ảnh
190


Đánh giá sự phát triển kinh tế - xã hội thành phố Nam Định trong vai trò trung tâm nam đồng bằng sơng Hồng

hưởng chưa thật rõ rệt. Để có thể tiếp tục phát huy vai trị của mình, Nam Định cần phải đánh giá
lại những tiềm lực và lợi thế của mình, trên cơ sở đó đổi mới nhận thức, tư duy và phương thức
phát triển cho phù hợp với tình hình mới.

2.3. Những khó khăn, hạn chế, cơ hội, thách thức đối với việc phát triển của thành
phố Nam Định
* Những lợi thế và cơ hội
Thành phố Nam Định là đô thị nằm trung tâm khu vực nam đồng bằng sông Hồng, được bao
quanh bởi các tỉnh lị khác như Thái Bình (19 km), Ninh Bình (28 km), Phủ Lý (30 km). Thành
phố có mạng lưới giao thơng đối ngoại tương đối thuận lợi bao gồm cả đường bộ, đường thuỷ,
đường sắt nối liền với các đô thị lớn như Hà Nội, Hải Phịng và các đơ thị trong vùng nam đồng
bằng sông Hồng.
Thành phố Nam Định nằm trong vùng đồng bằng châu thổ sơng Hồng, địa hình bằng phẳng
với độ cao thay đổi giữa 0,5 và 4 m trên mực nước biển. Thành phố có một hệ thống đê và tuyến
đường đã được tôn cao để ngăn lũ, bảo vệ thành phố. Ngoài ra tại các khu vực lân cận bao gồm
các xã của huyện Mỹ Lộc, Vụ Bản, Nam Trực chủ yếu là đất nông nghiệp có địa hình và địa chất
cơng trình thuận lợi để mở rộng không gian và phát triển đô thị [6].
Thành phố Nam Định được hình thành tương đối sớm so với các đô thị lân cận. Truyền thống
cùng dân số, diện tích cũng như quy mơ của nền kinh tế của thành phố Nam Định đều vượt trội so
với các đô thị khác trong vùng đồng bằng sông Hồng.

Người dân Nam Định có truyền thống hiếu học. Hiện nay, giáo dục Nam Định vẫn không
ngừng phát triển và luôn là tỉnh dẫn đầu trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo. Số sinh viên nhập học
đại học, cao đẳng chiếm tỉ lệ cao so với tỉ lệ dân số trong cả nước. Trên địa bàn thành phố hiện
vẫn tập trung một bộ phận nguồn nhân lực chất lượng cao bao gồm cả đội ngũ trí thức, cán bộ
quản lí.
* Hạn chế và thách thức
Thành phố không nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của cả nước do đó hạn chế trong thu
hút đầu tư. Quy mô kinh tế cũng như thu nhập bình qn đầu người của thành phố cịn thấp so với
các đô thị khác là một trong những ngun nhân chính để Nam Định có tỉ lệ xuất cư lớn, không
chỉ đánh mất lợi thế về nguồn nhân lực chất lượng cao mà cả nguồn lao động phổ thông.
Cơ sở vật chất kĩ thuật ngành thương mại, dịch vụ chưa đáp ứng yêu cầu giao dịch thương
mại; mức thu nhập bình qn đầu người của dân cư cịn thấp cũng là trở ngại lớn cho phát triển
thương mại, dịch vụ. Bên cạnh đó thương mại thành phố cịn có nhiều yếu tố bất lợi so với các
tỉnh lân cận như: Tốc độ gia tăng nhu cầu mua thấp hơn so với các tỉnh có tỉ trọng cơng nghiệp
cao do tính tự cấp, tự túc trong các vùng sản xuất nơng nghiệp thường cao, thu nhập bình qn từ
sản xuất nông nghiệp thấp hơn so với sản xuất công nghiệp dẫn đến triển vọng tăng trưởng, quy
mô lưu chuyển hàng hố bán lẻ sẽ khơng cao. Sản phẩm du lịch nghèo nàn, đơn điệu; chất lượng
dịch vụ thấp (chưa có khách sạn quốc tế 4-5 sao để đón khách quốc tế). Thiếu dịch vụ vui chơi
giải trí, trung tâm thương mại, mua sắm cao cấp. Nguồn nhân lực làm du lịch còn nhiều hạn chế,
yếu về nghiệp vụ và tính chuyên nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu của ngành kinh tế. Dịng khách du
lịch văn hóa tâm linh đến với khu vực Thành phố Nam Định có xu hướng bão hòa trong khi chưa
đầu tư phát triển sản phẩm du lịch mới có sức hấp dẫn thu hút đối với du khách [4].
Trong cơ cấu ngành công nghiệp, ngành dệt may chiếm tỉ trọng quá lớn (chiếm tỉ trọng 44%
và đóng góp 80% vào kim ngạch xuất khẩu). Các doanh nghiệp dệt may trong tỉnh cịn nhiều khó
khăn như: chưa chủ động được nguồn nguyên liệu; công nghệ sản xuất ở mức trung bình và lạc
hậu, sản phẩm ngành dệt chưa đáp ứng được yêu cầu của ngành may xuất khẩu; chưa xây dựng
được đội ngũ thiết kế đủ lực sáng tạo được mẫu mã mới; chưa thật quan tâm thương hiệu hàng hoá,
chủ yếu thực hiện ở khâu gia cơng đơn thuần là khâu ít lợi nhuận nhất (chỉ chiếm 5-7% giá trị sản phẩm)
191



Vũ Đại An

nên hiệu quả giá trị sản xuất và giá trị gia tăng thấp. Ngồi dệt may thì thành phố chưa có ngành
cơng nghiệp nào là trung tâm cơng nghiệp của vùng. Mặc dù có một số dự án đầu tư vào các
ngành như sản xuất phụ tùng và lắp ráp ô tô, máy nông nghiệp, vật liệu xây dựng… nhưng quy
mô và sản lượng đều chưa xứng tầm [5].
Mặc dù ngành nông nghiệp vẫn là chủ đạo song Nam Định chưa xây dựng được một trung
tâm nghiên cứu về giống cây trồng, vật nuôi mang tầm khu vực. Ngành nông nghiệp chưa xây
dựng được sản phẩm chủ lực, công tác chế biến và bảo quản sản phẩm sau thu hoạch chưa được
quan tâm.

2.4. Một số giải pháp phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Nam Định nhằm phát
huy vai trị của đơ thị trung tâm nam đồng bằng sông Hồng
Với dân số và tiềm lực như hiện nay, Nam Định cần trở thành một mũi nhọn của một công
nghệ chủ lực nhất định mà không nên đầu tư phát triển dàn trải. Công nghệ chủ lực đó cần phục
vụ chung cho vùng nam đồng bằng sơng Hồng vì xét về quy mơ phục vụ, một số trung tâm của Hà
Nội đang bị quá tải, chính vì vậy vị trí địa lí tự nhiên ở trung tâm của Nam Định là hợp lí, tuy
nhiên cần đảm bảo chất lượng dịch vụ để có thể thu hút được cả tiềm lực về con người sử dụng
dịch vụ này.
Trong suốt chiều dài lịch sử, nền kinh tế của Nam Định chủ yếu dựa vào nông nghiệp và lợi
thế về giao thơng thuỷ lợi đường sơng. Địa hình bằng phẳng cùng vị trí giáp với các huyện phía
nam phì nhiêu, năng xuất nông nghiệp cao như Hải Hậu, Giao Thuỷ, Nghĩa Hưng nên trong tương
lai thì nơng nghiệp vẫn đóng một vai trị quan trọng trong nền kinh tế của tỉnh. Tuy nhiên nếu chỉ
vì an ninh lương thực mà vẫn giữ năng suất và phương thức canh tác như hiện nay thì khơng hiệu
quả. Vì thế nhất thiết phải áp dụng công nghệ cao trong nông nghiệp với những tiêu chuẩn về chất
lượng khắt khe đáp ứng nhu cầu của thị trường. Việc sản xuất nông nghiệp cũng khơng chỉ trong
khâu canh tác mà cần có tính đa dạng theo chuỗi sản phẩm, tạo được thương hiệu bản sắc địa
phương. Để đạt được điều đó Nam Định cần phải xây dựng được những trung tâm nghiên cứu,
đào tạo, thử nghiệm mang tính đầu tàu khơng chỉ đáp ứng nhu cầu trong tỉnh mà cả vùng nam

đồng bằng sông Hồng.
Thời Pháp thuộc Nam Định từng có chiến lược phát triển vượt bậc, không những trở thành
trung tâm kỹ nghệ của Bắc Bộ mà cịn là cả xứ Đơng Dương. Thành phố khi đó phát triển hai
ngành chính là bơng vải và sản xuất rượu. Hai ngành này đều tận dụng tốt cả về nguyên liệu cũng
như nhân công của tỉnh. Cho đến nay ngành dệt may vẫn giữ vai trò chủ đạo trong sự phát triển
kinh tế của thành phố. Tuy nhiên nếu vẫn giữ phương thức sản xuất như hiện nay thì nền dệt may
sẽ khơng thể giữ được vị thế của Nam Định trong tương lai nhất là khi cuộc cách mạng 4.0 đã bắt
đầu trỗi dậy mạnh mẽ. Việc phát triển ngành công nghiệp dệt, tuy có thể giữ được tốc độ tăng
trưởng chung cho thành phố song không thể tạo cho Nam Định một bước đột phá, khẳng định vị
thế trong khu vực. Muốn phát triển về công nghiệp, Nam Định nên hạn chế những ngành mang
tính khai thác tài ngun sẵn có mà tập trung cho những ngành công nghiệp công nghệ cao, công
nghiệp phụ trợ như điện tử, lắp ráp… không chỉ đáp ứng cho cả vùng nam sơng Hồng mà cịn tận
dụng được nguồn nhân lực chất lượng cao của chính mình.
Trong thời đại ngày nay, du lịch dịch vụ, văn hoá nghệ thuật mới là những lĩnh vực kinh tế
bền vững. Nam Định cần tiếp tục khai thác các giá trị về văn hoá và du lịch tâm linh nhằm giới
thiệu cho mọi tầng lớp nhân dân. Bên cạnh đó, các di tích cần được quy hoạch tổng thể, có kế
hoạch bảo quản, trùng tu và tôn tạo quy mô, trở thành một địa điểm tham quan du lịch, thu hút
khách trong và ngồi nước. Điều quan trọng là khơng làm lu mờ ý nghĩa và những giá trị gốc của
di tích và hoạt động văn hố. Khơng chỉ có thế, việc kêu gọi đầu tư để xây dựng cơ sở hạ tầng du
lịch, thương mại và nghỉ dưỡng cũng cần được quan tâm nhằm giữ chân khách du lịch.
Mặc dù với điều kiện kinh tế - xã hội còn chưa phát triển cao như Nam Định thì khơng thể
192


Đánh giá sự phát triển kinh tế - xã hội thành phố Nam Định trong vai trò trung tâm nam đồng bằng sơng Hồng

rập khn máy móc mơ hình thu hút đội ngũ chất xám của các tỉnh lớn hay các nước phát triển đã
thực hiện. Tuy nhiên, cũng cần phải thừa nhận rằng, trong bối cảnh hiện nay, nếu khơng xây dựng
cho mình một đội ngũ những chun gia, nhà khoa học có trình độ cao thì rất khó có thể đạt được
mục tiêu đề ra trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Do vậy, Nam Định cần có cách sử

dụng và phát huy tối đa những lợi thế tri thức sẵn có của quê hương. Nghiên cứu và kế thừa có
chọn lọc những kinh nghiệm đào tạo, thu hút và sử dụng đội ngũ trí thức của các nước trên thế
giới và vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của tỉnh hiện nay.

3. Kết luận
Giai đoạn 2006 - 2016 là thời kì đánh dấu 10 năm thành phố Nam Định được Thủ tướng
chính phủ phê duyệt đề án Quy hoạch tổng thể phát triển trở thành trung tâm kinh tế, văn hoá, xã
hội của vùng nam đồng bằng sông Hồng. Trong giai đoạn này, thành phố Nam Định đã đạt được
nhiều thành tựu trên tất cả các ngành, lĩnh vực. Các nguồn lực cho phát triển, nhất là các nguồn
nội lực đã được phát huy và khai thác có hiệu quả, tiếp tục khắc phục những yếu kém trong nền
kinh tế xã hội, đẩy nhanh sự nghiệp cơng nghiệp hố - hiện đại hố.
Những kết quả đạt được đã bước đầu khẳng định đường lối phát triển kinh tế - xã hội đúng
đắn của đất nước nói chung và của Nam Định nói riêng. Bên cạnh đó trong q trình phát triển
vẫn cịn tồn tại những khó khăn, vướng mắc địi hỏi chính quyền và nhân dân Nam Định phải nỗ
lực giải quyết đồng bộ và kịp thời để đạt được các mục tiêu đã đề ra cho giai đoạn phát triển tiếp
theo. Trong đó, huy động, sử dụng và quản lí có hiệu quả các tiềm lực là một trong những vấn đề
cần được quan tâm hàng đầu.
Tuy nhiên, triển vọng và xu hướng tiếp theo đặt ra yêu cầu cấp thiết phát triển đô thị hiện đại
với phương châm hiện đại, hiệu quả và bền vững. Trong đó, điều cốt yếu là việc phát triển đô thị
trung tâm là phải dựa vào yêu cầu phát triển của vùng và khu vực chứ khơng phải dựa vào các
quyết định mang tính hành chính là có thể tự thành trung tâm. Muốn khẳng định vị thế vai trị
trung tâm của mình, Nam Định cần thể hiện vai trò đầu tàu, dẫn dắt sự phát triển của mạng lưới đô
thị cũng như thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng đồng bằng nam sông Hồng. Để phát
triển và phát huy hiệu quả của đô thị trung tâm nam đồng bằng sông Hồng thì Nam Định cần đổi
mới về nhận thức, tư duy về hiệu lực, hiệu quả quản lí nhà nước, cần phải biết cách tận dụng và
phát huy tối đa tiềm lực và lợi thế của mình và liên kết có hiệu quả với hệ thống vệ tinh và lãnh
thổ ảnh hưởng xung quanh [7].
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
[2]

[3]
[4]
[5]

Bộ Khoa học và Công nghệ, Viện Nghiên cứu và phát triển vùng, 2014. Tư liệu kinh tế - xã
hội vùng đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2001 - 2010.
Cục Thống kê tỉnh Nam Định, Niên giám thống kê thành phố Nam Định giai đoạn các năm
2009 - 2016.
Phạm Hồng Hà, 2005. Xây dựng thành phố Nam Định trở thành trung tâm vùng nam đồng
bằng sơng Hồng, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 7, Tr 44-47.
Nguyễn Hương, 2018. Phát triển thương mại thành phố Nam Định và vùng phụ cận, Báo
Nam Định, số ra 18/01/2018.
Nguyễn Công Thành, 2013. Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao năng lực
cạnh tranh (FDI) tại tỉnh Nam Định giai đoạn 2008 - 2013, Đề tài khoa học cấp tỉnh
nghiệm thu năm 2013.

193


Vũ Đại An

[6]

[7]
[8]

Nguyễn Thanh Trà, 2017. Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp tạo quỹ đất xây dựng
cơ sở hạ tầng và chỉnh trang đô thị trên địa bàn thành phố Nam Định. Đề tài khoa học cấp
tỉnh nghiệm thu năm 2017.
Phạm Ngọc Trụ, 2015. Đô thị trung tâm với việc phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng

sơng Hồng. Luận án tiến sĩ Địa lí Viện chiến lược phát triển.
Uỷ ban nhân dân tỉnh Nam Định, 2005. Báo cáo tổng hợp Quy hoạch tổng thể phát triển
thành phố Nam Định trở thành trung tâm Kinh tế, Văn hố, Xã hội của vùng nam đồng
bằng sơng Hồng.
ABSTRACT
Evaluation of socio-economic development in Nam Dinh province with the role
of being a center in the south of the red river delta

Vu Dai An
Nam Dinh Department of Science and Technology
The general project of programming which enables help NamDinh province to become a
center of cultural and socio-economic in the south of Red river delta was approved Prime
Minister of the Socialist Republic of Viet Nam. Apart from summarizing the development
achivement on the economic areas in NamDinh province, this thesis has also analysed the
advantages, disadvantages and shortcomings as well as challenges which the province encounters
when being a central city in the south of the Red river delta. Basing on this point of view, some
solutions are suggested to enhance the socio-economic development with the aim of promoting
the role of the province as a central city.
Keywords: Evaluation, socio-economic development, Nam Dinh.

194



×