Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Thực trạng năng lực giáo dục hướng nghiệp theo hướng gắn kết nghề nghiệp với phát triển cộng đồng của sinh viên sư phạm trường Đại học Hải Phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.34 KB, 9 trang )

JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Social Science, 2018, Vol. 63, Iss. 2A, pp. 250-258
This paper is available online at

DOI: 10.18173/2354-1075.2018-0050

THỰC TRẠNG NĂNG LỰC GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP
THEO HƯỚNG GẮN KẾT NGHỀ NGHIỆP VỚI PHÁT TRIỂN
CỘNG ĐỒNG CỦA SINH VIÊN SƯ PHẠM TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
1
1 Khoa
2 Trường

Trương Thị Hoa và 2 Nguyễn Thị Xuân

Tâm lí - Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Trung cấp Văn hoá Nghệ thuật và Du lịch Hải Phịng

Tóm tắt. Năng lực giáo dục hướng nghiệp theo hướng gắn kết nghề với phát triển cộng đồng
là khả năng thực hiện có trách nhiệm và hiệu quả các hành động, giải quyết các nhiệm vụ,
vấn đề trong hoạt động giáo dục hướng nghiệp trên cơ sở hiểu biết, kĩ năng, kĩ xảo và kinh
nghiệm cũng như sẵn sàng hành động nhằm giúp cho học sinh lựa chọn được ngành nghề,
trường thi phù hợp với năng lực, sở thích, tính cách và nhu cầu của địa phương, cộng đồng
nơi mình sinh sống. Ở mỗi địa phương, mỗi vùng miền đều có những thế mạnh về ngành
nghề. Nhiệm vụ của giáo dục hướng nghiệp là định hướng cho học sinh chọn nghề phù hợp
với năng lực, sở thích và phù hợp với nhu cầu ngành nghề của địa phương. Muốn làm được
điều này đòi hỏi giáo viên phải có năng lực giáo dục hướng nghiệp theo hướng gắn kết
nghề với phát triển cộng đồng. Nghiên cứu này tìm hiểu thực trạng về năng lực giáo dục
hướng nghiệp theo hướng gắn kết nghề với phát triển cộng đồng ở 200 sinh viên sư phạm,
60 giảng viên và 20 cán bộ quản lí Trường Đại học Hải Phịng. Kết quả cho thấy, đa phần
sinh viên sư phạm trường Đại học Hải phịng chưa có năng lực giáo dục hướng nghiệp theo


hướng gắn kết nghề với cộng đồng.
Từ khóa: Đại học Hải Phòng, sinh viên đại học sư phạm, năng lực, năng lực giáo dục
hướng nghiệp, gắn kết nghề nghiệp với phát triển cộng đồng.

1.

Mở đầu

Công cuộc đổi mới giáo dục đòi hỏi cấp thiết phải đổi mới đào tạo giáo viên, đáp ứng yêu
cầu của giáo dục trong giai đoạn tới. Đặc trưng của đổi mới đào tạo giáo viên là chuyển từ tiếp cận
nội dung sang tiếp cận năng lực nghề. Để mang lại hiệu quả trong đào tạo giáo viên theo tiếp cận
mới, chúng ta cần triển khai hàng loạt giải pháp. Từ quan niệm về năng lực nghề chúng ta phải xác
định mục tiêu đào tạo, xây dựng chương trình và tổ chức đào tạo với nguyên tắc mọi hoạt động đào
tạo đều hướng đến hình thành và phát triển năng lực nghề cho sinh viên và phương thức đào tạo là
sự gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo tại trường sư phạm với đào tạo và phát triển tại trường phổ thông
phát triển nghề [4]. Vấn đề về hình thành và phát triển năng lực sư phạm, năng lực dạy học cho
sinh viên sư phạm đã được rất nhiều tác giả nghiên cứu. Các nghiên cứu này đề cập đến các con
đường, các biện pháp hình thành và phát triển năng lực sư phạm cho sinh viên trong quá trình đào
Ngày nhận bài: 15/12/2017. Ngày sửa bài: 20/2/2018. Ngày nhận đăng: 25/2/2018
Liên hệ: Trương Thị Hoa, e-mail:

250


Thực trạng năng lực giáo dục hướng nghiệp theo hướng gắn kết nghề nghiệp với phát triển...

tạo ở trường sư phạm [1, 2, 5]. Mặc dù có nhiều nghiên cứu về năng lực sư phạm của người giáo
viên nhưng chưa có một nghiên cứu nào nghiên cứu về năng lực giáo dục hướng nghiệp (GDHN)
theo hướng gắn kết nghề với phát triển cộng đồng.
Năng lực GDHN theo hướng gắn kết nghề với phát triển cộng đồng là khả năng thực hiện

có trách nhiệm và hiệu quả các hành động, giải quyết các nhiệm vụ, vấn đề trong hoạt động giáo
dục hướng nghiệp trên cơ sở hiểu biết, kĩ năng, kĩ xảo và kinh nghiệm cũng như sẵn sàng hành
động nhằm giúp cho học sinh lựa chọn được ngành nghề, trường thi phù hợp với năng lực, sở thích,
tính cách và nhu cầu của địa phương, cộng đồng nơi mình sinh sống.
Việc hình thành và phát triển năng lực giáo dục hướng nghiệp nói chung và năng lực giáo
dục hướng nghiệp theo hướng gắn kết nghề với phát triển cộng đồng cho sinh viên góp phần phát
triển tồn diện năng lực sư phạm của người giáo viên. Với năng lực giáo dục hướng nghiệp, giáo
viên tương lai sẽ thực hiện tốt việc định hướng nghề nghiệp cho học sinh, góp phần vào việc phân
luồng và mang lại hiệu quả cao cho công tác giáo dục hướng nghiệp ở trường phổ thông. Tuy
nhiên, thực tế hiện nay là công tác giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông chưa hiệu
quả [3]. Nguyên nhân là do giáo viên chưa có năng lực giáo dục hướng nghiệp và năng lực giáo
dục hướng nghiệp theo hướng gắn kết nghề với phát triển cộng đồng, hai năng lực này cũng chưa
được các trường sư phạm chú trọng và phát triển cho sinh viên trong quá trình đào tạo ở trường sư
phạm nói chung và Trường Đại học Hải Phịng nói riêng cũng như được tổ chức bồi dưỡng hàng
năm ở trường phổ thông. Việc nghiên cứu thực trạng về năng lực giáo dục hướng nghiệp của sinh
viên theo hướng gắn kết nghề với phát triển cộng đồng ở Trường Đại học Hải Phịng có ý nghĩa
thực tiễn trong đào tạo năng lực này ở nhà trường.

2.

Nội dung nghiên cứu

Để thấy được thực trạng của năng lực giáo dục hướng nghiệp gắn kết nghề nghiệp với phát
triển cộng đồng, chúng tôi tiến hành nghiên cứu thực tiễn ở trường Đại học Hải Phòng. Tổng số
đối tượng nghiên cứu là 200 sinh viên sư phạm, 60 giảng viên và 20 cán bộ quản lí. Nghiên cứu
của chúng tôi dựa trên một số phương pháp: điều tra bằng bảng hỏi, phỏng vấn và qua nghiên cứu
sản phẩm.

2.1.


Thực trạng nhận thức về tầm quan trọng của hoạt động hình thành năng
lực giáo dục hướng nghiệp cho sinh viên sư phạm Trường Đại học Hải
Phịng

Để tìm hiểu vấn đề này, chúng tìm hiểu về tầm quan trọng của cơng tác hình thành năng lực
giáo dục hướng nghiệp cho sinh viên theo hướng gắn kết nghề với cộng đồng, kết quả thu được
như sau:
Bảng 1. Nhận thức của cán bộ quản lí, giảng viên và sinh viên về tầm quan trọng
của cơng tác hình thành năng lực giáo dục hướng nghiệp
theo hướng gắn kết nghề với phát triển cộng đồng cho sinh viên

STT
1
2
3

Các mức độ

Rất quan trọng
Quan trọng
Không quan trọng
Cộng

Cán bộ quản lí, giảng viên
Tỉ lệ (%)
Số lượng
10
12,5
57
71,25

13
16
80
100

Sinh viên
Tỉ lệ (%)
Số lượng
20
10
90
45
90
45
200
100

251


Trương Thị Hoa và Nguyễn Thị Xuân

2.1.1. Đối với cán bộ quản lí, giảng viên
Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy có tới 84 % cán bộ, giảng viên nhận thức được tầm quan
trọng của cơng tác hình thành năng lực giáo dục hướng nghiệp theo hướng gắn kết nghề với phát
triển cộng đồng cho sinh viên sư phạm. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác này, tức là
họ đã nhận thức rõ ràng về vai trò và nhiệm vụ của người giáo viên ở trường phổ thơng. Cơng tác
này giúp các giáo sinh có kiến thức và kĩ năng cần thiết trước khi ra trường để trở thành một giáo
viên ngoài việc giảng dạy kiến thức chun mơn cho học sinh cịn có thể giúp học sinh định hướng
nghề nghiệp, lựa chọn được ngành nghề phù hợp nhất đối với bản thân và phù hợp với nhu cầu của

xã hội, đặc biệt là nhu cầu về nhân lực của địa phương.
Tuy nhiên, có 16% cán bộ quản lí, giảng viên cho rằng cơng tác này khơng không quan
trọng. Qua trao đổi với các giảng viên, giảng viên Nguyễn Thị H chia sẻ: “Sinh viên cần phải được
hình thành tốt năng lực chun mơn, cịn năng lực giáo dục hướng nghiệp đối với các em thì khơng
cần thiết lắm vì đã có đội ngũ chun làm việc này rồi”.
Như vậy, nhận thức về tầm quan trọng của công tác nâng cao năng lực giáo dục hướng
nghiệp cho sinh viên sư phạm của trường Đại học Hải Phòng là chưa đồng đều, nhiều cán bộ quản
lí, giảng viên giảng dạy cịn coi nhẹ cơng tác này. Chỉ quan tâm chú ý đến dạy theo chuyên môn
mà các em theo học.

2.1.2. Đối với sinh viên
Qua kết quả khảo sát có thể thấy hơn một nửa số sinh viên được điều tra (55%) khẳng định
được tầm quan trọng của năng lực giáo dục hướng nghiệp theo hướng gắn kết nghề với phát triển
cộng đồng. Qua trao đổi, sinh viên Nguyễn Thuỳ Tr cho rằng: “Chúng em sau này ra trường có thể
tham gia làm cơng tác giáo dục hướng nghiệp cho học sinh, nên em nghĩ việc hình thành năng lực
này cho chúng em là rất quan trọng ạ”.
Nhưng có đến 45% các sinh viên được điều tra cho rằng không quan trọng, sinh viên Trần
Trọng Ngh cho rằng: “Em nghĩ công việc giáo dục hướng nghiệp cho học sinh cần phải có chun
gia cơ ạ”. Với kết quả như vậy cho thấy, nhà trường cần thực hiện công tác tuyên truyền về vấn đề
này để nâng cao nhận thức của sinh viên trong trường.

2.2.

Thực trạng mức độ năng lực giáo dục hướng nghiệp theo hướng gắn kết
nghề với cộng đồng của sinh viên Trường Đại học Hải Phòng

Ở nội dung này, chúng tôi khảo sát sinh viên, giảng viên và cán bộ quản lí, kết quả được thể
hiện ở bảng sau:

TT


1
2
3
4

252

Bảng 2. Mức độ năng lực giáo dục hướng nghiệp
theo hướng gắn kết nghề với phát triển cộng đồng của sinh viên

Các năng lực giáo dục hướng nghiệp
theo hướng gắn kết nghề với phát triển cộng đồng

Năng lực tìm hiểu về ngành, nghề ở địa phương cộng đồng
Năng lực tìm hiểu về các trường đào tạo ngành nghề ở địa phương
Năng lực lồng ghép các kiến thức giáo dục hướng nghiệp vào
trong các môn học
Năng lực tổ chức các hoạt động giáo dục hướng nghiệp gắn kết
nghề với phát triển cộng đồng cho học sinh

Mức độ đạt được (ĐTB)
SV
1,49
1,42

GV
1,6
1,64


1,39

1,56

1,54

1,53


Thực trạng năng lực giáo dục hướng nghiệp theo hướng gắn kết nghề nghiệp với phát triển...

5

Năng lực tư vấn, tham vấn hướng nghiệp cho học sinh
1,04
1,3
Năng lực phối hợp và khai thác các lực lượng trong giáo dục
6
1
1,78
hướng nghiệp
Năng lực chẩn đốn đặc điểm tâm sinh lí của học sinh trong giáo
7
1,3
1,34
dục hướng nghiệp,
Năng lực xây dựng, quản lí và khai thác hồ sơ giáo dục hướng
8
1,16
1,18

nghiệp
(ĐTB: Từ 1,00 – 1,66: Chưa có năng lực; từ 1,67 – 2,34: Có nhưng chưa tốt; Từ 2,35 – 3,0: Tốt)

Qua kết quả ở bảng trên cho thấy, đánh giá của sinh viên và của giảng viên về năng lực giáo
dục hướng nghiệp theo hướng gắn kết nghề với phát triển cộng đồng của sinh viên là chưa có. Ở
bảng trên cho thấy, đánh giá của giảng viên thường cao hơn so với đánh giá của sinh viên. Cụ thể:
- Năng lực tìm hiểu về ngành, nghề ở địa phương cộng đồng, đánh giá của sinh viên với
điểm trung bình 1,49, ở giảng viên với điểm trung bình 1,6. Năng lực này thể hiện ở việc sinh viên
tìm hiểu được các ngành nghề ở địa phương, đặc điểm của từng ngành nghề, các yêu cầu về năng
lực, phẩm chất đối với người lao động về ngành nghề và những chống chỉ định của ngành nghề ở
từng địa phương. Tuy nhiên, thực tế sinh viên mới chỉ kể tên một vài ngành nghề ở địa phương và
một vài yêu cầu của ngành nghề mà chưa có kiến thức đầy đủ về các ngành nghề đó.
- Năng lực tìm hiểu về các trường đào tạo ngành nghề ở địa phương, đánh giá của sinh viên
là với điểm trung bình là 1,42 và của giảng viên với điểm trung bình là là 1,62. Năng lực này của
sinh viên thể hiện ở việc sinh viên liệt kê được các trường đào tạo ở địa phương, điều kiện, môi
trường học tập, cơ hội việc làm sau khi ra trường, điều kiện tuyển sinh,.. Tuy nhiên, đa phần sinh
viên chỉ kể tên được một số trường đào tạo nghề mà chưa tìm hiểu kĩ về tất cả những đặc điểm kể
trên. Có một số rất ít sinh viên hiểu rõ điều này như em Trần Ngọc Tr chia sẻ: “Em biết những
thông tin về ngành nghề ở địa phương và các trường đào tạo nghề ở địa phương là bởi vì khi cịn là
học sinh em có tìm hiểu rồi nên cũng có biết một chút thơng tin đó”.
- Năng lực lồng ghép các kiến thức giáo dục hướng nghiệp vào trong các môn học, ở năng
lực này sinh viên đánh giá mình đạt điểm trung bình là 1,39; giảng viên đánh giá với điểm trung
bình là 1,56. Ở năng lực này, thể hiện sinh viên phải lựa chọn được các nội dung có thể lồng ghép
kiến thức giáo dục hướng nghiệp; phương pháp và cách thức lồng ghép kiến thức giáo dục hướng
nghiệp vào bài giảng. Tuy nhiên năng lực này, đa phần sinh viên dường như chưa thực hiện được,
sinh viên chỉ chú tâm vào nội dung mơn học của mình.
- Năng lực tổ chức các hoạt động giáo dục hướng nghiệp gắn kết nghề với phát triển cộng
đồng cho học sinh, ở năng lực này đánh giá của sinh viên và giảng viên tương đương như nhau với
điểm trung bình là 1,54 và 1,53. Ở năng lực này, đòi hỏi sinh viên phải lập được kế hoạch hoạt
động bằng việc xác định mục tiêu cho hoạt động, xác định được các nội dung hoạt động, phương

pháp, phương tiện thực hiện hoạt động, xác định được các nguồn lực tham gia hoạt động giáo dục
hướng nghiệp gắn kết nghề với phát triển cộng đồng. Tuy nhiên, khi thực hiện các hoạt động, đa
phần các nhóm tổ chức được các hoạt động liên quan đến các chủ đề trong các ngày lễ, chưa gắn
kết được hoạt động giáo dục hướng nghiệp vào trong các hoạt động đó.
- Năng lực tư vấn, tham vấn hướng nghiệp cho học sinh, ở năng lực này tự đánh giá của sinh
viên với điểm trung bình là 1,04 và của giảng viên với điểm trung bình là 1,3. Ở năng lực này, sinh
viên phải vận dụng rất nhiều kĩ năng như đặt câu hỏi, lắng nghe, đồng cảm, chia sẻ và đặc biệt là
đưa ra được những lời khuyên hoặc những gợi ý về ngành nghề cho học sinh. Tuy nhiên, ở năng
lực này sinh viên chưa thực hiện được.
253


Trương Thị Hoa và Nguyễn Thị Xuân

- Năng lực phối hợp và khai thác các lực lượng trong giáo dục hướng nghiệp, năng lực này
sinh viên đánh giá thấp hơn rất nhiều so với giảng viên với điểm trung bình là 1,0 và 1,78. Năng
lực này đòi hỏi sinh viên phải biết liên kết các lực lượng như Đoàn Thanh niên, cha mẹ học sinh và
các đoàn thể ngoài nhà trường cùng tham gia vào giáo dục hướng nghiệp cho học sinh. Tuy nhiên
năng lực này hầu như sinh viên chưa thực hiện được.
- Năng lực chẩn đoán đặc điểm tâm sinh lí của học sinh trong giáo dục hướng nghiệp, ở
năng lực này đánh giá của sinh viên và giảng viên không khác nhau quá lớn với điểm trung bình
1,3 và 1,34. Với năng lực này, sinh viên có thể thực hiện được các bài trắc nghiệm liên quan đến
đặc điểm tâm, sinh lí của học sinh; đánh giá và phân tích được các kết quả trắc nghiệm, đồng thời
phải phỏng vấn học sinh để tìm ra được những đặc điểm cơ bản về tính cách, sở thích, hứng thú của
học sinh. Tuy nhiên, ở năng lực này, sinh viên thực hiện chưa tốt, chưa biết sử dụng trắc nghiệm
và đặc biệt là đánh giá các chỉ số của kết quả trắc nghiệm.
Năng lực xây dựng, quản lí và khai thác hồ sơ giáo dục hướng nghiệp. Năng lực này của
sinh viên cũng chưa có, đánh giá của sinh viên với điểm trung bình là 1,6 cịn của giảng viên là
1,18. Năng lực này đòi hỏi sinh viên biết sắp xếp các tư liệu về từng em học sinh trong sổ hướng
nghiệp. Nhưng đa số sinh viên chưa làm được việc này.

Như vậy, qua sự phân tích ở trên cho thấy thực trạng năng lực giáo dục hướng nghiệp theo
hướng gắn kết nghề với phát triển cộng đồng là chưa có.

2.3.

Thực trạng mức độ thực hiện nội dung hình thành năng lực giáo dục hướng
nghiệp theo hướng gắn kết nghề với phát triển cộnng đồng cho sinh viên

Ở nội dung này, chúng tôi điều tra trên 80 giảng viên và cán bộ quản lí, và 200 sinh viên,
kết quả được thể hiện ở bảng dưới đây:

TT
1
2

Bảng 3. Mức độ thực hiện nội dung hình thành năng lực giáo dục
hướng nghiệp theo hướng gắn kết nghề với phát triển công đồng cho sinh viên
Nội dung năng lực giáo dục hướng nghiệp

Mức độ đạt được (ĐTB)
SV
GV
1.88
2.2
1.79
2.18

Tìm hiểu về ngành, nghề ở địa phương cộng đồng
Tìm hiểu về các trường đào tạo về ngành nghề ở địa phương
Lồng ghép các kiến thức giáo dục hướng nghiệp vào trong các

5
1.96
2.3
môn học
Tổ chức các hoạt động giáo dục hướng nghiệp gắn kết nghề với
1.84
1.91
6
phát triển cộng đồng cho học sinh
Tư vấn, tham vấn hướng nghiệp cho học sinh
1.08
1.51
7
Phối hợp và khai thác các lực lượng trong giáo dục hướng nghiệp
1.53
1.25
Chẩn đoán đặc điểm tâm sinh lí của học sinh trong giáo dục
1.32
1.68
hướng nghiệp
8
Xây dựng, quản lí và khai thác hồ sơ giáo dục hướng nghiệp
1.10
1.61
(ĐTB: Từ 1,00 – 1,66: Chưa thực hiện; từ 1,67 – 2,34: Có thực hiện nhưng chưa tốt; Từ 2,35 – 3,0: Tốt)

Qua bảng trên cho thấy, ý kiến đánh giá của sinh viên và giảng viên cho rằng đa phần
việc thực hiện các nội dung hình thành năng lực giáo dục hướng nghiệp đã được thực hiện nhưng
chưa tốt.
Thực tế các nội dung theo khảo sát còn khá rời rạc và chưa đạt hiệu quả. Nhiều nội dung

chỉ giới thiệu sơ qua chứ không tập trung đi sâu vào thực tế giáo dục hướng nghiệp. Nội dung được
254


Thực trạng năng lực giáo dục hướng nghiệp theo hướng gắn kết nghề nghiệp với phát triển...

thực hiện ở mức độ cao nhất đó là Lồng ghép các kiến thức giáo dục hướng nghiệp vào trong các
môn học, đánh giá của giảng viên với điểm trung bình là 2,3 và đánh giá của sinh viên với điểm
trung bình là 1,96. Qua trao đổi với cô Đào Thị M – giảng viên khoa Tâm lí Giáo dục học chia sẻ:
“đối với sinh viên khoa chúng tôi, chúng tôi thường lồng ghép những kiến thức ngành nghề vào
trong bài học cho các em, để sau này khi ra trường, các em có những kiến thức về hướng nghiệp
để giúp học sinh định hướng nghề nghiệp”.
Tiếp sau đó là Tìm hiểu về ngành, nghề ở địa phương cộng đồng với đánh giá của giảng
viên điểm trung bình là 2,2 và đánh giá của sinh viên với điểm trung bình là 1,88; Tiếp sau đó là
nội dung Tìm hiểu về ngành, nghề ở địa phương với đánh giá của giảng viên điểm trung bình là
2,18 và đánh giá của sinh viên với điểm trung bình là 1,79.
Nội dung Tổ chức các hoạt động giáo dục hướng nghiệp gắn kết nghề với phát triển cộng
đồng cho học sinh đánh giá của giảng viên với điểm trung bình là 1,91 và của sinh viên với điểm
trung bình là 1,84. Trong thực tế tại các trường phổ thông, các giáo viên và của các giáo sinh mới
chỉ tổ chức các buổi học cuối khóa để trao đổi và hướng dẫn các em trong quá trình chọn trường,
chọn ngành nghề theo học phù hợp với năng lực và sở thích của các học sinh mà chưa định hướng
cho các em tìm hiểu về ngành nghề đang thực sự cần phát triển ở địa phương để phục vụ cộng đồng
nơi mình đang sinh sống. Qua trao đổi, thì em Nguyễn Hồng M cho rằng: “Chúng em biết những
thông tin này phần lớn là do tự tìm hiểu hoặc có trong những hoạt động ngoại khoá như tham quan
dã ngoại”.
Nội dung Chẩn đốn đặc điểm tâm sinh lí của học sinh trong giáo dục hướng nghiệp theo
đánh giá của giảng viên thì đã có thực hiện những chưa tốt với điểm trung bình là 1,68; đánh giá
của sinh viên thì cho rằng chưa thực hiện.
Còn lại các nội dung Tư vấn, tham vấn hướng nghiệp cho học sinh; Phối hợp và khai thác
các lực lượng trong giáo dục hướng nghiệp và Xây dựng, quản lí và khai thác hồ sơ giáo dục hướng

nghiệp thì cả giảng viên và sinh viên đều cho rằng chưa được thực hiện.
Như vậy, có thể thấy việc thực hiện các nội dung giáo dục hướng nghiệp theo hướng gắn kết
nghề với phát triển cộng đồng đã được thực hiện nhưng chưa tốt hoặc chưa được thực hiện dẫn đến
mức độ năng lực của sinh viên về các năng lực này cũng chưa có, hầu hết các sinh viên sư phạm
Trường Đại học Hải Phòng chỉ có kiến thức và kĩ năng ở một vài nội dung nhất định. Điều này dẫn
đến, nhà trường chưa trang bị đủ vốn kiến thức và sự vận dụng tốt các kĩ năng và giáo dục hướng
nghiệp cho sinh viên sư phạm khi ra trường để iếp nhận công việc thực tế ở nhà trường phổ thông.

2.4.

Thực trạng mức độ thực hiện các hình thức đào tạo hình thành năng lực
giáo dục hướng nghiệp theo hướng gắn kết nghề với phát triển cộng đồng
cho sinh viên sư phạm Trường Đại học Hải Phòng

Với kết quả khảo sát sinh viên và giáo viên, cán bộ quản lí về vấn đề này được thể hiện ở
bảng sau:

TT

Bảng 4. Mức độ thực hiện các hình thức đào tạo năng lực giáo dục hướng nghiệp
cho sinh viên sư phạm theo hướng gắn kết nghề với phát triển cộng đồng
Các hình thức đào tạo năng lực giáo dục hướng nghiệp

Mức độ đạt được (ĐTB)
SV
GV
1
Giáo dục thơng qua các hoạt động ngoại khố
1,65
2,03

2
Thơng qua tình huống sư phạm
1,84
2,09
3
Thực tập tại các trường phổ thông
1,95
1,61
(ĐTB: Từ 1,00 – 1,66: Chưa thực hiện; từ 1,67 – 2,34: Có thực hiện nhưng chưa tốt; Từ 2,35 – 3,0: Tốt)

255


Trương Thị Hoa và Nguyễn Thị Xuân

Nhìn vào kết quả Bảng 4 ta thấy mức độ thực hiện công tác đào tạo năng lực giáo dục hướng
nghiệp cho sinh viên sư phạm tại Trường Đại học Hải Phòng được thực hiện qua 3 hình thức. Ở
mỗi hình thức có mức độ đánh giá khác nhau, nhưng đều ở mức độ là có thực hiện nhưng chưa tốt,
cụ thể như sau:
Đối với hình thức hướng nghiệp thơng qua các hoạt động ngoại khoá như: như hoạt động
tham quan, dã ngoại, các hoạt động của Đoàn trường tổ chức cũng đã thực hiện những chưa tốt
mặc dù nội dung tương đối phong phú như thông qua các bài tham luận, sinh hoạt ngoại khóa, sinh
hoạt đồn. . . với chủ đề tìm hiểu về địa phương, khai thác các nguồn lực và lợi thế của địa phương
trong bối cảnh hội nhập. Thông qua đó sinh viên mới chỉ tìm hiểu được thế mạnh điển hình của
địa phương cũng như ngành nghề mà địa phương đang có nhu cầu cần tới đưa ra chỉ ra được các
yêu cầu cụ thể của nguồn nhân lực trong tương lai để đáp ứng nhu cầu phát triển của địa phương,
phát triển ngành nghề mà địa phương đang cần.
Đồi với hình thức hướng nghiệp thơng qua Thơng qua tình huống sư phạm cũng đã được
thực hiện nhưng chưa tốt, các giáo viên có thể đưa ra những tình huống liên quan đến lựa chọn
ngành nghề của học sinh để sinh viên giải quyết. Thơng qua đó sinh viên sẽ có kiến thức về hướng

nghiệp tuy nhiên hình thức này các em rất ít khi được thực hành thơng qua các giờ học ở trên lớp.
Đối với hình thức hướng nghiệp thông qua Thực tập tại các trường phổ thơng ngồi việc
lồng ghép những kiến thức hướng nghiệp trong bài giảng, các sinh viên tổ chức cho học sinh các
hoạt động trải nghiệm sáng tạo, trong đó có hoạt động hướng nghiệp vì vậy sinh viên cũng bổ sung
được các kiến thức về ngành nghề đặc biệt là các ngành nghề ở địa phương nơi trường đóng góp
nâng cao năng lực giáo dục hướng nghiệp cho các sinh viên sư phạm khi ra trường.
Như vậy, với mỗi hình thức khác nhau sẽ cung cấp những kiến thức và kĩ năng về giáo dục
hướng nghiệp qua đó dần hình thành các năng lực giáo dục hướng nghiệp và đặc biệt là gắn kết
được nghề nghiệp với phát triển cộng đồng dân cư. Do vậy muốn có năng lực tốt, sinh viên phải
được thực hành nhiều thơng qua các hình thức này.

2.5.

Các yếu tố ảnh hưởng đến đào tạo năng lực giáo dục hướng nghiệp cho sinh
viên sư phạm theo hướng gắn kết nghề nghiệp với phát triển cộng đồng
Với nội dung này, kết quả chúng tôi thu được thể thể hiện ở Bảng 5 dưới đây:

TT

Bảng 5. Các yếu tố ảnh hưởng đến đào tạo năng lực giáo dục hướng nghiệp
cho sinh viên sư phạm theo hướng gắn kết nghề nghiệp với phát triển cộng đồng
Các yếu tố ảnh hưởng

Mức độ đạt được (ĐTB)
SV
GV

Tổ chức triển khai đào tạo năng lực giáo dục hướng nghiệp của
2,63
2,58

nhà trường
Lồng ghép kiến thức hướng nghiệp của giảng viên trong quá
2
2,8
2,49
trình giảng dạy các mơn học
Nhận thức của sinh viên về việc hình thành năng lực giáo dục
3
2,64
2,41
hướng nghiệp theo hướng gắn kết nghề với phát triển cộng đồng.
Tính tích cực của sinh viên trong việc hình thành năng lực giáo
4
dục hướng nghiệp theo hướng gắn kết nghề với phát triển cộng
2,77
2,48
đồng.
(ĐTB: Từ 1,00 – 1,66: Không ảnh hưởng; từ 1,67 – 2,34: ít ảnh hưởng; Từ 2,35 – 3,0: ảnh hưởng nhiều)
1

256


Thực trạng năng lực giáo dục hướng nghiệp theo hướng gắn kết nghề nghiệp với phát triển...

Kết quả ở Bảng 5 cho thấy:
Thứ nhất, về Tổ chức triển khai đào tạo năng lực giáo dục hướng nghiệp của nhà trường,
yếu tố này ảnh hưởng khơng nhỏ đến việc hình thành năng lực giáo dục hướng nghiệp của sinh
viên. Điều này thể hiện khá rõ nét trên cả hai phương diện: cấu trúc chương trình đào tạo (thiết kế
các học phần liên quan đến đào tạo năng lực tư vấn hướng nghiệp) và phương thức triển khai (quá

trình tổ chức các hoạt động cho sinh viên sư phạm). Ở trường, công tác hình thành năng lực giáo
dục hướng nghiệp cho sinh viên sư phạm chưa được chú trọng, còn đơn điệu về nội dung và hình
thức nên khơng thu hút sự tham gia của sinh viên. Sự phối hợp giữa nhà trường và các đơn vị thực
tập, các doanh nghiệp địa phương như tổ chức các buổi tọa đàm, hội thảo về ngành nghề trong xu
hướng phát triển kinh tế địa phương chưa được chặt chẽ nên công tác giáo dục năng lực giáo dục
hướng nghiệp cho sinh viên chưa đạt hiệu quả.
Thứ hai, việc lồng ghép kiến thức hướng nghiệp của giảng viên trong q trình giảng dạy
các mơn học cũng ảnh hưởng rất lớn. Hầu như các giảng viên chỉ quan tâm đến việc giảng dạy
những nội dung trong chun ngành của mình, rất ít giáo viên thực sự hiểu được sự cần thiết là phải
lồng ghép những kiến thức về năng lực giáo dục hướng nghiệp trong từng bài học trong những giờ
lên lớp. Đây cũng là yếu tố ảnh hướng lớn đến sự hình thành, phát triển năng lực giáo dục hướng
nghiệp của sinh viên.
Thứ ba, nhận thức của sinh viên về vấn vấn đề này có ảnh hưởng nhiều đến việc hình thành
năng lực giáo dục hướng nghiệp ở họ. Một bộ phận không nhỏ sinh viên đã hiểu được tầm quan
trọng của hoạt động này, điều này sẽ thuận lợi trong quá trình học tập trang bị kiến thức, kĩ năng
và dần hình thành năng lực giáo dục hướng nghiệp ở họ đây là điều kiện để giúp sinh viên có được
tính tích cực sự say mê trong học tập và rèn luyện.
Thứ tư, tính tích cực của sinh viên trong việc hình thành năng lực giáo dục hướng nghiệp
theo hướng gắn kết nghề với phát triển cộng đồng cũng ảnh hưởng nhiều. Bởi lẽ có nhận thức
đúng, sinh viên sẽ tích cực và chủ động trong quá trình rèn luyện để hình thành năng lực của một
người giáo viên tương lai nói chung và năng lực giáo dục hướng nghiệp và năng lực giáo dục theo
hướng gắn kết nghề với phát triển cộng đồng. Tính tích cực sẽ giúp sinh viên chủ động tìm hiểu và
khám phá những kiến thức liên quan đến vấn đề này.
Như vậy có thể thấy có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành năng lực giáo dục
hướng nghiệp nói chung và năng lực giáo dục hướng nghiệp theo hướng gắn kết nghề với phát triển
cộng đồng nói riêng. Trong đó yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất đó là Tổ chức triển khai đào tạo năng
lực giáo dục hướng nghiệp của nhà trường.

3.


Kết luận

Từ nghiên cứu thực trạng trên, chúng tôi nhận thấy công tác đào tạo năng lực giáo dục hướng
nghiệp theo hướng gắn kết nghề với phát triển cộng đồng cho sinh viên sư phạm ở Trường Đại học
Hải Phòng đã được thực hiện nhưng chưa đạt được kết quả mong muốn. Vẫn còn gần một nửa sinh
viên chưa nhận thức đúng tầm quan trọng của năng lực này. Đồng thời một số nội dung đào tạo
năng lực giáo dục hướng nghiệp chưa được thực hiện. Do đó kết quả hình thành năng lực giáo dục
hướng nghiệp cho các sinh viên sư phạm trong nhà trường chưa cao, quá trình đào tạo chưa đồng
đều điều này dẫn đến năng lực giáo dục hướng nghiệp theo hướng gắn kết nghề với phát triển cộng
đồng của các sinh siên sư phạm Trường Đại học Hải Phòng chưa có. Với kết quả như trên, địi
hỏi nhà trường cần có những biện pháp cụ thể để hình thành năng lực giáo dục hướng nghiệp theo
hướng gắn kết nghề với phát triển cộng đồng cho sinh viên trường mình để khi ra trường họ có
năng lực tốt, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông.
257


Trương Thị Hoa và Nguyễn Thị Xuân

Lời cảm ơn: Bài viết sử dụng kết quả nghiên cứu của đề tài “Đào tạo năng lực giáo dục
hướng nghiệp cho sinh viên đại học sư phạm” mã số B2016 – SHP – 05, do Bộ Giáo dục và Đào
tạo tài trợ, TS. Trương Thị Hoa làm chủ nhiệm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Trịnh Thanh Hải và Trần Việt Cường, 2015. Phát triển năng lực sư phạm cho sinh vi ên trong
đào tạo ở trường sư phạm. Tạp chí Khoa học - Trường đại học Sư phạm Hà Nội, số 8A (2015),
tr. 161-168.
[2] Trịnh Thanh Hải, Trần Trung Tình, 2015. Hình thành, bồi dưỡng năng lực dạy học cho SV sư
phạm ngành Toán học. Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Số 60, tập 1, tr.
30-37.
[3] Trương Thị Hoa, 2014. Giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông khu vực Hà
Nội qua tham vấn nghề. Luận án tiến sĩ Giáo dục học.

[4] Phan Trọng Ngọ, 2015. Giải pháp đào tạo giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ
thơng. Tạp chí Khoa học - Trường đại học Sư phạm Hà Nội, số 8B, tr. 32-40.
[5] Trần Thị Tuyết Oanh, 2015. Năng lực dạy học của giảng viên trong các trường đại học sư
phạm trước yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo. Tạp chí Khoa học - Trường
đại học Sư phạm Hà Nội, số 8B, tr. 10-17.
ABSTRACT
The current status of career education competency towards connecting occupations
with community development of educational students in Hai Phong University
1 Truong Thi Hoa and 2 Nguyen Thi Xuan
1 Faculty of Psychology and Pedagogy, Hanoi National University of Education
2 Hai Phong Culture, Art and Tourism College
Career education competency in the direction of linking occupations with community
development is the possibility to perform actions responsibly and effectively, solve tasks and issues
in career education on the basis of knowledge, skills and experiences as well as the willingness
to take action to help students choose their careers and universities in accordance with their
capacities, interests, characteristics and the needs of the area where they live. Different provinces
have their own strengths in distinctive careers. The mission of career education is to orient the
students to choose occupations which are relevant with their capicity, interests, characteristics and
the needs of local localities. In order to do this, teachers are required to be competent in career
education in the way to connect occupations with community development. This research is to find
out the current status of career education in the direction of linking occupations with community
development among 200 students in education universities, 60 lecturers and 20 managers of Hai
Phong University. The result indicates that the majority of educational students of Hai Phong
University has limit competencies of career education in a way to connect occupations with
community development.
Keywords: Hai Phong University, educational students, competency, career education
competency, career in connection with community development.

258




×