Ung thư tế bào gan - Nguyên Nhân và Triệu chứng
Ung thư tế bào gan
Carcinom tế bào gan (Hepatocellular carcinoma=HCC) là ung thư của gan.
Carcinom tế bào gan (HCC) là một trong những ung thư thường gặp nhất ở người lớn,
đàn ông nhiều hơn phụ nữ với tỉ lệ từ 2-4/1. Trên thế giới, mỗi năm có trên 1 triệu
trường hợp tử vong do HCC (khoảng 10% của tất cả các trường hợp tử vong ở người
lớn).
Độ xuất hiện của HCC thay đổi nhiều tuỳ vị trí địa lý. Ở các nước Phương Tây
tỉ lệ này là < 2/100.000 đàn ông, trong khi ở Châu Phi và một số vùng ở Đông Á, tỉ lệ
này là 40-60/100.000. Tại Mỹ, HCC thường gặp ở người gốc Đông Á.
Trong tương lai, HCC có thể sẽ tăng nhiều ở Mỹ và Châu Âu do tỉ lệ viêm gan
C tăng cao. Đồng thời, nhiều chuyên gia hy vọng rằng tỉ lệ HCC sẽ giảm ở vùng Đông
Á do đang có những chiến dịch tiêm phòng viêm gan B đại trà ở trẻ em.
Tổng Quan về Ung Thư Tế Bào Gan (HCC)
1. Ung thư tế bào gan là gì?
Đa số các ung thư nguyên phát ở gan được phân loại là ung thư tế bào gan
(HCC). Ung thư tế bào gan là một u ác tính gồm những tế bào giống tế bào gan. Tuy
nhiên sự tương đồng còn thay đổi tuỳ theo độ biệt hoá. HCC thường đi kèm với xơ
gan.
Ung thư tế bào gan
Loại ung thư này có thể cắt bỏ bằng phẫu thuật. Tuy nhiên chỉ mổ ở những
trường hợp tổn thương còn khu trú ở gan. Tiên lượng tuỳ thuộc vào những rối loạn về
chức năng gan và sự lan toả của khối u.
2. Triệu Chứng
- Đa số các trường hợp HCC đều được phát hiện qua theo dõi và điều trị các
bệnh gan sẵn có. Bệnh nhân thường đến khám với các triệu chứng của bệnh gan. Theo
một báo cáo ở Hong Kong, 76% bệnh nhân HCC có triệu chứng trướng bụng và khó
chịu.
- Các triệu chứng ít gặp hơn bao gồm sụt cân (4,4%), xuất huyết tiêu hoá
(4,4%), và vàng da (2,6%). Chỉ 2% là không có triệu chứng.
Hiếm khi HCC biểu hiện bằng tình trạng đau bụng cấp do vỡ tự phát khối u gan
vào khoang phúc mạc. HCC cần được đưa vào chẩn đoán phân biệt khi dịch cổ trướng
có máu.
3. Ung thư tế bào gan - Giải phẫu học
Giải Phẫu
- Gan là bộ phận lớn nhất và cũng phức tạp nhất trong ổ bụng.
- Gan hình thành từ rất nhiều đơn vị chức năng nhỏ gọi là tiểu thuỳ (lobules).
- Gan thực hiện nhiều chức năng đa dạng bao gồm: thanh lọc các chất nội sinh
và ngoại sinh ra khỏi máu, các quy trình chuyển hoá phức tạp như sản xuất ra mật,
điều hoà lượng carbohydrate, chuyển hoá lipid, sản sinh ra urê và các chức năng miễn
dịch.
- Gan hình thành từ phần bụng của màng treo dạ dày (ventral mesogastrium) và
chỉ có mặt sau-trên của gan là nằm ngoài cấu trúc này mà thôi. Dây chằng tròn và dây
chằng hình liềm nối gan với thành bụng trước.
- Mạc nối nhỏ nối gan với dạ dày, dây chằng hình vành và dây chằng tam giác
nối gan với cơ hoành. Mặt hoành của gan mịn và đều đặn trong khi mặt tạng có nhiều
chỗ lõm ở những vị trí tiếp xúc với thận phải, tuyến thượng thận, tĩnh mạch chủ dưới,
dây chằng gan-tá tràng và dạ dày.
Gan nhận máu nuôi từ tĩnh mạch cửa và động mạch gan, trong đó tĩnh mạch
cửa cung cấp 75% của tổng lưu lượng 1500 ml máu/phút.
Nhiều nhánh mạch máu nhỏ từ tĩnh mạch và động mạch giao nhau tại nang
tuyến gan (acinus) ở bộ ba cửa (portal triad). Sau đó máu sẽ chảy về các xoang nhỏ
(sinusoids) giữa các đĩa (plates) và tế bào gan để trao đổi dưỡng chất. Tĩnh mạch gan
mang máu “đi” đến tĩnh mạch chủ dưới và một hệ thống bạch mạch dẫn bạch dịch ra
khỏi gan.
Tế bào chủ mô hoặc tế bào gan bao gồm phần lớn nhất của tạng và thực hiện
nhiều chức năng chuyển hoá phức tạp.
Tế bào gan chịu trách nhiệm chính về chức năng chuyển hoá của gan. Các tế
bào này tạo ra mật và bài tiết mật; điều hoà hằng định nội mô (homeostasis) của chất
carbohydrat; chuyển hoá mỡ và bài tiết lipoproteins huyết thanh; kiểm soát chuyển hoá
cholesterol; tạo ra urea, albumin huyết thanh, các yếu tố đông máu, các enzymes, và
rất nhiều loại protein.
Gan cũng hỗ trợ trong việc chuyển hoá và giải độc đối với thuốc và các chất
ngoại lai.
Các tế bào Kupffer lót mặt trong của các xoang gan (hepatic sinusoids) và là
một phần của hệ thống lưới nội mô (reticuloendothelial system), chúng thanh lọc từng
chất độc ngoại lai, các vi khuẩn, và những độc tố từ ruột. Chúng cũng góp phần trong
chức năng miễn dịch của gan.
Đường mật khởi đầu từ những kênh nhỏ (canaliculi) do các tế bào gan tạo
thành. Những cấu trúc có lót nhung mao này tiến triển thành những ống nhỏ
(ductules), rồi những ống mật liên phân thuỳ, và thành những ống gan lớn hơn. Khi ra
khỏi khoảng cửa, ống gan chính hợp với ống túi mật để hình thành ống mật chủ, đổ
vào tá tràng.
4. Ung thư tế bào gan- Nguyên Nhân
a. Viêm gan B và C
- Hai nguyên nhân quan trọng nhất gây HCC là viêm gan B và viêm gan C. Tại
nhiều nơi ở Trung Quốc và Đài Loan, có đến 80% trường hợp HCC là do viêm gan B.
Ở Mỹ và Châu Âu, viêm gan C và viêm gan B là những nguyên nhân gây HCC với tỉ
lệ tương đương. Ở Nhật, nơi có tỉ lệ viêm gan B và viêm gan C bằng nhau, tần xuất
HCC cao hơn ở bịnh nhân viêm gan C so với viêm gan B (10,4% so với 3,9%).
- Bệnh sinh của HCC khi có sự hiện diện của virus viêm gan B có thể do xáo
trộn hoạt động tế bào do viêm gan mãn tính, hoặc sự kết hợp những quy trình chuyên
biệt của virus HBV. Có thể do sự tích hợp của genome DNA của HBV vào genome
của ký chủ từ đó gây gián đoạn những yếu tố điều hoà chu kỳ tế bào, hoặc do hoạt hoá
chéo (transactivation) những chất sinh ung thư của ký chủ do protein HBx hoặc một
protein cắt cụt (truncated protein) dẫn xuất từ vùng pre-S2/S của genome HBV.
- Bệnh sinh HCC trong viêm gan C ít được biết rõ hơn. Có thể là do một số
trong những bệnh nhân này đã có phơi nhiễm trước đây với virus viêm gan B.
b. Xơ gan
Xơ gan do bất cứ nguyên nhân nào cũng là một yếu tố nguy cơ gây HCC. Nguy
cơ cao hơn gấp 3 đến 4 lần ở bệnh nhân xơ gan so với những bệnh nhân viêm gan
mãn. Sự tăng sinh sản của tế bào gan có thể dẫn đến việc hoạt hoá các chất sinh ung
thư và đột biến của các gene trừ khử khối u (tumor suppressor genes). Các thay đổi
này sẽ khởi đầu cho việc sinh ung thư gan (hepatocarcinogeneses ).
HCC trên nền xơ gan
Ở những vùng có xuất độ thấp, hơn 90% bệnh nhân HCC có xơ gan là bệnh
nền. Tuy nhiên, ở những vùng có xuất độ cao, sự hiện diện của xơ gan ít hơn (khoảng