Tải bản đầy đủ (.pdf) (214 trang)

(Luận án tiến sĩ) văn hóa xứ đoài qua địa danh hai huyện thạch thất và ba vì, hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.45 MB, 214 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
VIỆN VIỆT NAM HỌC VÀ KHOA HỌC PHÁT TRIỂN

Nguyễn Phượng Anh

VĂN HĨA XỨ ĐỒI
(QUA ĐỊA DANH HAI HUYỆN THẠCH THẤT VÀ BA VÌ, HÀ NỘI)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VIỆT NAM HỌC

Hà Nội -2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
VIỆN VIỆT NAM HỌC VÀ KHOA HỌC PHÁT TRIỂN

Nguyễn Phượng Anh

VĂN HĨA XỨ ĐỒI
(QUA ĐỊA DANH HAI HUYỆN THẠCH THẤT VÀ BA VÌ, HÀ NỘI)
Chuyên ngành: Việt Nam học
Mã số: 62.22.01.13

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VIỆT NAM HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. GS.TS Trần Nho Thìn
2. PGS.TS Trịnh Cẩm Lan

Hà Nội - 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn khoa học của GS.TS Trần Nho Thìn và PGS.TS Trịnh Cẩm Lan. Các nội dung
nghiên cứu, kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ hình
thức nào trước đây. Những số liệu trong các bảng biểu phục vụ cho việc phân tích,
nhận xét, đánh giá được thu thập từ các nguồn khác nhau, có ghi rõ trong phần tài
liệu tham khảo.
Nếu phát hiện bất cứ sự gian lận nào tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm.
Tác giả

Nguyễn Phượng Anh


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin được bày t lới cảm n chân thành tới:
Ban Lãnh đạo Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển, Ph ng Khoa học
công nghệ và đào tạo, Ph ng Nghiên cứu Khu vực học đã tạo mọi điều kiện thuận
lợi gi p đ tôi trong suốt quá trình học tập.
GS.TS Trần Nho Thìn và PGS.TS Trịnh Cẩm Lan đã định hướng nghiên cứu và
tận tình hướng dẫn; các thầy cô giáo tại Viện Việt Nam học và khoa học phát triển đã
động viên tinh thần, dành th i gian trao đ i, cố vấn chuyên mơn cho tơi trong q trình
hồn thành luận án.
UBND các xã thuộc hai huyện Thạch Thất và Ba Vì, Hà Nội đã nhiệt tình hợp tác
và cung cấp tài liệu địa phư ng cho tơi trong q trình điền dã và khảo sát thực địa.
Tác giả

Nguyễn Phượng Anh



MỤC LỤC
TRANG

Danh mục các kí hiệu và chữ viết tắt

5

Danh mục bảng biểu

5

Danh mục hình vẽ

7

Danh mục sơ đồ

8

MỞ ĐẦU

9

1. Lí do chọn đề tài

9

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

10


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

10

4. Phương pháp nghiên cứu

11

5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án

13

6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án

13

7.

Bố cục của luận án

13

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, ĐỊA BÀN

14

NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT

1.1.Tổng quan tình hình nghiên cứu


14

1.1.1. Các ghi chép, khảo cứu liên quan đến Xứ Đoài trước năm 1888

14

1.1.2. Các ghi chép, khảo cứu liên quan đến Xứ Đoài sau năm 1888 đến 1945

18

1.1.3. Các nghiên cứu về địa danh và văn hóa Xứ Đồi sau năm 1945

20

1.2. Vài nét về địa bàn nghiên cứu

23

1.2.1. Xứ Đoài trong tâm thức chung của người Việt

23

1.2.2 Xứ Đoài theo quan điểm của các nhà nghiên cứu

24

1.2.3. Vị trí của huyện Thạch Thất và huyện Ba Vì trong khơng gian Xứ Đồi

28


1.2.3.1. Địa bàn huyện Thạch Thất – điều kiện tự nhiên và xã hội

29

1.2.3.2. Địa bàn huyện Ba Vì – điều kiện tự nhiên và xã hội

30

1.3. Cơ sở lí thuyết

31

1.3.1. Một số vấn đề về văn hóa

31

1.3.1.1. Khái niệm văn hóa

31

1.3.1.2. Chủ thể và khách thể của văn hóa

32

1


1.3.1.3. Khơng gian văn hóa


34

1.3.2. Một số vấn đề về địa danh

41

1.3.2.1. Khái niệm địa danh

41

1.3.2.2. Chức năng của địa danh

44

1.3.2.3. Địa danh trong mối quan hệ với văn hoá khu vực

45

1.3.2.4. Cấu tạo phức thể địa danh

46

1.3.2.5. Phân loại địa danh

47

1.4. Tiểu kết chương 1

53


Chương 2: KHÔNG GIAN LỊCH SỬ CỦA XỨ ĐOÀI (QUA ĐỊA DANH

55

HAI HUYỆN THẠCH THẤT VÀ BA VÌ, HÀ NỘI)
2.1. Xứ Đồi - vùng đất bản bộ của người Việt

55

2.1.1. Đặc điểm cư trú trên đất Xứ Đồi giai đoạn trước văn hố Đơng Sơn

55

2.1.1.1. Địa bàn tụ cư nguyên thuỷ và lớp cư dân khai phá Xứ Đoài

55

2.1.1.2. Sự mở rộng địa bàn tụ cư trên vùng đất Xứ Đoài

56

2.1.2. Đặc điểm cư trú trên đất Xứ Đồi trong giai đoạn văn hố Đơng Sơn

58

2.1.2.1. Những nhóm làng đầu tiên trên đất Xứ Đồi

58

2.1.2.2. Những sự giao thoa tiếp với người Tày Thái và Nam Đảo


62

2.1.2.3. Những sự giao thoa tiếp xúc với người phương Bắc

67

2.2. Địa danh và tổ chức hành chính ở Xứ Đoài trước cách mạng tháng Tám

71

2.2.1. Địa danh và tổ chức hành chính ở Xứ Đồi thời Bắc thuộc

71

2.2.1.1. Địa danh và tổ chức hành chính trước giai đoạn An nam đô hộ phủ

71

2.2.1.2. Địa danh và tổ chức hành chính trong giai đoạn An nam đơ hộ phủ

73

2.2.2. Địa danh và tổ chức hành chính ở Sơn Tây - Xứ Đoài thời Quốc gia Đại Việt

77

2.2.2.1. Địa danh và tổ chức hành chính trên đất Xứ Đồi thời Lí - Trần

77


2.2.2.2 Sự ra đời của địa danh Sơn Tây và tổ chức hành chính của Sơn

80

Tây thời Lê Trịnh
2.2.2.3. Địa danh và tổ chức hành chính ở Trấn/Tỉnh Sơn Tây thời Nguyễn

84

2.2.2.4. Các đơn vị hành chính ở tỉnh Sơn Tây thời thuộc Pháp

88

2.3. Biến đổi địa danh hành chính ở Xứ Đồi sau Cách mạng Tháng

91

Tám đến năm 2008
2


2.3.1. Biến đổi địa danh ở Xứ Đoài sau Cách mạng Tháng Tám (Qua

91

địa danh hai huyện Thạch Thất và Ba Vì)
2.3.2. Cảnh quan địa danh ở Xứ Đồi sau trước khi nhập vào Hà Nội

95


(Qua địa danh hai huyện Thạch Thất và Ba Vì)
2.4. Tiểu kết chương 2

99

Chương 3: KHƠNG GIAN ĐỊA LÍ CỦA XỨ ĐỒI (QUA ĐỊA DANH HAI

101

HUYỆN THẠCH THẤT VÀ BA VÌ, HÀ NỘI)

3.1.Vị trí của Xứ Đoài (Qua địa danh hai huyện Thạch Thất và Ba Vì,

101

Hà Nội)
3.1.1. Vị trí của Xứ Đồi qua lớp địa danh có yếu tố chỉ phương hướng

101

3.1.2. Vị trí của Xứ Đoài qua lớp địa danh mượn tên riêng của thực thể

102

tự nhiên
3.1.3. Vị trí của Xứ Đồi qua đặc trưng lớp địa danh tiêu chuẩn hố có

103


tính lịch sử
3.2. Địa hình và mơi trường tự nhiên của Xứ Đồi (Qua địa danh hai

110

huyện Thạch Thất và Ba Vì, Hà Nội)
3.2.1. Địa hình và mơi trường tự nhiên của Xứ Đồi

110

3.2.2. Đặc điểm địa hình và mơi trường tự nhiên của Xứ Đoài qua cảnh

112

quan địa danh hai huyện Thạch Thất và Ba Vì, Hà Nội
3.2.2.1 Cảnh quan địa danh phía tây bắc

112

3.2.2.2 Cảnh quan địa danh phía đơng nam

119

3.3. Tiểu kết chương 3

128

Chương 4: KHÔNG GIAN XÃ HỘI CỦA XỨ ĐOÀI (QUA ĐỊA

130


DANH HAI HUYỆN THẠCH THẤT VÀ BA VÌ, HÀ NỘI)
4.1.Khơng gian sản xuất ở Xứ Đồi (Qua địa danh hai huyện Thạch

130

Thất và Ba Vì, Hà Nội)
4.1.1.Không gian thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp

131

4.1.1.1 Đặc điểm canh tác của người Xứ Đồi nhìn từ địa danh chỉ nơi

131

sản xuất
4.1.1.2. Đặc điểm canh tác của người Xứ Đồi nhìn từ địa danh chỉ nơi
3

134


cư trú
4.1.2. Không gian không thuận lợi cho sản xuất nơng nghiệp

137

4.1.2.1. Khu vực đồi núi phía tây

138


4.1.2.2. Khu vực gị đồi trung tâm

140

4.2. Diện mạo làng xã Xứ Đồi truyền thống (Qua địa danh hai huyện

141

Thạch Thất và Ba Vì, Hà Nội)
4.2.1. Khơng gian làng qua lớp địa danh chuyển hố từ cơng trình cơng cộng

141

4.2.2. Khơng gian làng qua lớp địa danh có yếu tố chỉ phương hướng

144

4.2.2.1. Các yếu tố chỉ phương hướng trong không gian liên làng

144

4.2.2.2. Các yếu tố chỉ phương hướng trong không gian nội làng

146

4.3. Kết cấu xã hội ở Xứ Đoài

148


4.3.1. Tên làng Xứ Đồi và các dịng họ

148

4.3.2. Những dấu vết của sự di dân

151

4.4. Quan điểm chính trị nguyện vọng của cư dân trong địa danh ở Xứ Đoài

153

4.4.1.Quan điểm chính trị trong q trình Hán tự hố địa danh ở Xứ Đồi

153

4.4.2. Quan điểm chính trị trong q trình đặt địa danh ở Xứ Đoài

159

4.4.3. Nguyện vọng về cuộc sống tốt đẹp trong việc đặt địa danh Xứ Đoài

163

4.5 Tiểu kết chương 4

165

KẾT LUẬN


167

DANH MỤC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN

172

QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

173

PHỤ LỤC

4


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Kí hiệu tắt
1.

Việt sử lược

VSL

2.

Đại Việt sử kí tồn thư

ĐVSKTT


3.

An Nam chí lược

ANCL

4.

Kiến văn tiểu lục

KVTL

5.

Lịch triều hiến chương loại chí

LTHCLC

6.

Khâm định Việt sử thơng giám cương mục

KĐVSTGCM

7.

Đại Nam nhất thống chí

ĐNNTC


8.

Đồng Khánh dư địa chí

ĐKDĐC

9.

Đơn vị hành chính

ĐVHC

10.

Đơn vị cư trú

ĐVCT

11.

Địa danh hành chính

ĐDHC

12.

Địa danh dân cư

ĐDDC


13.

Khu vực tự nhiên

KVTN

14.

Khu vực nhân văn

KVNV

15.

Cơ sở dữ liệu

CSDL

16.

Hán Việt Việt hoá

HVVH

17.

Proto Việt Mường

PVM


18.

Proto Mon-Khơme

PMK

19.

Thứ tự

TT

20.

Như trên

-nt-

5


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 1.1: Tài liệu liên quan đến văn hố Xứ Đồi (tỉnh Sơn Tây đầu thế

19

kỉ XX) thuộc kho sách của Viện nghiên cứu Hán Nôm
Bảng 1.2: Bảng phân loại địa danh theo tiêu chí lưỡng phân


48

Bảng 2.1: Địa bàn cư trú của cư dân xứ Đoài thời tiền Đơng Sơn

57

Bảng 2.2: Tên làng có dấu vết của ngôn ngữ Môn-Khơme và Proto Việt

59

Mường
Bảng 2.3: Tên làng có dấu vết tiếp xúc với ngơn ngữ Tày Thái và Nam Đảo

63

Bảng 2.4: Tên làng có yếu tố Hán Việt cổ

67

Bảng 2.5: Tên làng có yếu tố Hán Việt đơn tiết

68

Bảng 2.6: Tên làng có yếu tố Hán Việt Việt hoá

69

Bảng 2.7: Biến đổi địa danh trên đất Xứ Đồi và các vùng lân cận (giai


72

đoạn Hán - Ngơ - Tấn - Tống - Tề)
Bảng 2.8: Biến đổi địa danh trên đất Xứ Đoài và các vùng lân cận (giai

75

đoạn Tuỳ - Đường)
Bảng 2.9: Địa danh hành chính ở Sơn Tây (thế kỉ XV - XVII)

82

Bảng 2.10: Tình hình biến đổi địa danh ở Sơn Tây (thế kỉ XVIII - XIX)

85

Bảng 2.11: Tên huyện và tên tổng ở Xứ Đoài – Sơn Tây (thế kỉ XVIII - XIX)

86

Bảng 2.12: Các xã thơn thuộc Xứ Đồi bị đổi tên giai đoạn 1945 - 1955

92

Bảng 3.1: Lớp địa danh mượn tên thực thể tự nhiên ở Xứ Đoài

103

Bảng 3.2: Số lượng vi địa danh chỉ nơi cư trú (thôn) từng là tên của các


108

xã hoặc tên của thôn tương đương với xã
Bảng 3.3: Lớp địa danh tự nhiên chỉ địa hình núi thấp – khối tảng

113

Bảng 3.4: Địa danh chỉ địa hình gị - đồi quanh chân núi (Lớp địa danh

115

chỉ khu vực tự nhiên)
Bảng 3.5: Địa danh chỉ địa hình đồi và đồng bằng đồi quanh chân núi

117

(Lớp địa danh chỉ khu vực nhân văn)
Bảng 3.6: Địa danh chỉ địa hình trong đới sụt – Phần hữu Tích (Lớp địa

6

121


danh chỉ khu vực tự nhiên)
Bảng 3.7: Địa danh chỉ địa hình trong đới sụt – Phần hữu Tích (Lớp địa

122

danh chỉ khu vực nhân văn)

Bảng 3.8: Địa danh chỉ địa hình đồng bằng ngồi sơng – Phần tả Tích

123

(Lớp địa danh chỉ khu vực nhân văn)
Bảng 3.9: Lớp địa danh chỉ địa hình bãi bồi – Cù lao ven sông (Lớp địa

124

danh chỉ khu vực nhân văn)
Bảng 4.1: Tên Nôm miêu tả đặc trưng canh tác và các sản phẩm nơng

134

nghiệp ở Xứ Đồi
Bảng 4.2: Địa danh trong các phức thể chỉ sản phẩm nông nghiệp

136

Bảng 4.3: Địa danh chỉ các khu du lịch mới

139

Bảng 4.4: Các cơng trình công cộng xuất hiện trong địa danh

142

Bảng 4.5: Địa danh thể hiện quan điểm chính trị, đạo đức, ý thức hệ Nho Giáo

155


Bảng 4.6: Địa danh thể hiện quan điểm thẩm mĩ

155

Bảng 4.7: Chữ kiêng huý xuất hiện trong địa danh (từ triều Gia Long

157

đến triều Minh Mạng)
Bảng 4.8: Các chữ kiêng húy xuất hiện trong địa danh (triều Thiệu Trị)

157

Bảng 4.9: Các chữ kiêng húy xuất hiện trong địa danh (triều Tự Đức)

158

Bảng 4.10: Địa danh hành chính cấp huyện ở Xứ Đồi thể hiện ý niệm

160

chính trị thời kì Bắc thuộc
Bảng 4.11: Tần suất của các yếu tố thể hiện lí tưởng "Trường trị cửu an"

161

trong địa danh hành chính cấp xã huyện (Trường hợp địa
danh các xã thộc đất huyện Ba Vì và Thạch Thất hiện nay)
Bảng 4.12: Tần sất của các yếu tố thê hiện lý tưởng "Quyền lực chuyên chế"


162

trong địa danh hành chính cấp xã huyện (Trường hợp địa
danh các xã thộc đất huyện Ba Vì và Thạch Thất hiện nay)
Bảng 4.13: Tần suất của các yếu tố thể hiện nguyện vọng của chủ thể văn
hố trong địa danh hành chính cấp xã huyện (Trường hợp địa
danh các xã thộc đất huyện Ba Vì và Thạch Thất hiện nay)

7

164


DANH MỤC BẢN ĐỒ - LƯỢC ĐỒ
Trang
Ảnh 2.1: Phân bố vị trí các làng cổ Xứ Đồi theo tên Nơm (phía tây bắc)

70

Ảnh 2.2: Phân bố vị trí các làng cổ Xứ Đồi theo tên Nơm (phía đơng nam)

70

Ảnh 2.3: Các đơn vị hành chính thuộc Xứ Đồi - Sơn Tây thời Trần Hồ

80

Ảnh 2.4: Các đơn vị hành chính thuộc Thừa tuyên Sơn Tây thời Lê sơ


84

Ảnh 2.5: Bản đồ huyện Bất Bạt tỉnh Sơn Tây (Trước thế kỉ XX)

89

Ảnh 3.1: Phân bố địa danh hành chính cấp xã (trường hợp huyện Thạch Thất)

107

Ảnh 3.2: Phân bố địa danh hành chính cấp xã (trường hợp huyện Ba Vì)

108

Ảnh 3.3: Địa hình xã Vân Hồ

119

Ảnh 3.4: Địa hình xã Tản Lĩnh

119

Ảnh 3.5: Địa hình ven sơng Hồng và các điểm địa danh ở huyện Ba Vì

127

Ảnh 3.6: Địa hình vùng nội đồng và các điểm địa danh các xã Tiên

128


Phong, xã Thụy An, xã Cam Thượng, huyện Ba Vì

DANH MỤC SƠ ĐỒ
Trang
Sơ đồ 1.1: Cấu tạo địa danh

46

Sơ đồ 1.2: Sơ đồ phân loại địa danh theo đối tượng

48

Sơ đồ 1.3: Sơ đồ phân loại địa danh theo nguồn gốc

48

Sơ đồ 1.4: Sơ đồ phân loại địa danh theo hệ thống

50

8


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Xứ Đồi là tên gọi dân gian của vùng đất nằm ở phía tây kinh đô Thăng Long
xưa. Khu vực này vốn là đất bản bộ của người Việt, sau đó lại được coi là một trong
tứ trấn bảo vệ Thăng Long. Xứ Đoài hiện đang lưu giữ nhiều giá trị văn hóa cả về
vật chất lẫn tinh thần và được nhắc tới như một khơng gian văn hóa đặc trưng của
châu thổ Sơng Hồng.

Ngày 29/5/2008, Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã
thông qua Nghị quyết số 15/2008/NQ-QH12 Về việc điều chỉnh địa giới hành chính
thành phố Hà Nội và một số tỉnh có liên quan. Theo Nghị quyết này, Thủ đô Hà Nội
được mở rộng bằng cách hợp nhất tồn bộ diện tích tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh
(tỉnh Vĩnh Phúc) và 4 xã của huyện Lương Sơn (tỉnh Hịa Bình). Tiếp theo, Chính
phủ cũng cơng bố dự án Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030
và tầm nhìn đến năm 2050. Sau khi nghị quyết trên được ban hành, vấn đề đặt ra
hiện nay là gìn giữ các giá trị văn hóa cổ truyền của Xứ Đoài, đáp ứng được các
chiến lược tổng thể về bảo tồn và phát triển bền vững không gian văn hóa Thăng
Long – Hà Nội mới.
Văn hóa Xứ Đồi có thể được nghiên cứu từ nhiều góc độ như dân tộc học,
văn hóa dân gian, xây dựng kiến trúc… Mỗi cách tiếp cận có tính đặc thù và có
phương pháp riêng, có giá trị riêng, bổ sung cho nhau. Khu vực học tiếp cận Xứ
Đồi như một khơng gian văn hố đặc thù, tìm cách lý giải các tác nhân tạo nên khu
vực văn hố đó.
Địa danh là một loại sáng tạo hữu thức dựa trên mối quan hệ quy chiếu giữa kí
hiệu ngơn ngữ với khu vực địa lí và dựa trên sự cần thiết cho hoạt động xã hội.
Trước hết, chúng được đặt ra để đánh dấu khơng gian. Sau đó, chúng gián tiếp thể
hiện những tri nhận về sự thích nghi với điều kiện tự nhiên, môi trường, sự biến
động của cư dân, đặc trưng nguồn gốc chủng tộc, những yếu tố lịch sử tác động đến
sự phát triển của cộng đồng, cũng như những quan điểm về chính trị - xã hội mà
cộng đồng cư đã cùng nhau gây dựng và trải qua.
9


`

Tuy nhiên, Xứ Đồi khơng phải địa danh hành chính, khơng phải tên gọi chính
thống, biên độ khơng gian mà địa danh Xứ Đoài quy chiếu tới khác nhau qua từng
giai đoạn lịch sử. Vì vậy, để định vị và làm sáng tỏ đặc trưng khơng gian văn hóa

Xứ Đồi nhất định phải dựa vào phương pháp nghiên cứu và cách tiếp cận liên
ngành của Khu vực học. Trong phạm vi luận án, hệ thống địa danh hai huyện Thạch
Thất và Ba Vì (Hà Nội) được coi là những trường hợp cụ thể để tiếp cận miêu tả,
làm rõ đặc trưng văn hóa Xứ Đồi. Trên đây là những lí do căn bản để chúng tôi
chọn đề tài nghiên cứu cho luận án là Văn hóa Xứ Đồi (Qua địa danh hai huyện
Thạch Thất và Ba Vì, Hà Nội).
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục đích nghiên cứu
Bằng các cứ liệu địa danh của huyện Thạch Thất và huyện Ba Vì (Hà Nội),

thơng qua phương pháp nghiên cứu liên ngành để mơ tả, định vị Xứ Đồi như
một khơng gian văn hố đặc thù.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác định phạm vi của khơng gian văn hóa Xứ Đồi;
- Phân tích, lí giải sự hình thành, q trình phát triển của khơng gian văn hóa
Xứ Đồi, cũng như những yếu tố chính trị - xã hội mà nó chịu tác động;
- Miêu tả, phân tích làm sáng tỏ những đặc trưng tiêu biểu của Xứ Đồi về vị
trí địa lý, môi trường tự nhiên, đặc điểm cư trú đời sống sản xuất, phong tục tập
quán của cư dân Xứ Đoài;
- Đánh giá nguồn lực tiềm năng và cơ hội phát triển của khơng gian Xứ Đồi,

đề xuất một số giải pháp lưu giữ, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của hệ
thống địa danh xứ Đoài.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận án là văn hóa xứ Đồi qua hệ thống địa danh
huyện Thạch Thất và huyện Ba Vì (Hà Nội).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi vấn đề nghiên cứu: lịch sử hình thành vùng Xứ Đồi về, cách thức
chủ thể văn hóa tri nhận về môi trường tự nhiên, không gian xã hội của Xứ Đoài và

10


`

ghi dấu lại trong địa danh.
- Phạm vi địa bàn nghiên cứu: huyện Thạch Thất và huyện Ba Vì (Hà Nội).
- Phạm vi thời gian: từ thời điểm 1/8/2008 trở về trước.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Nghiên cứu định hướng Khu vực học (Area Study)
Từ định hướng Khu vực học, Xứ Đồi được xem như một khơng gian văn hóa
tạo nên bởi tổng thể của những mối quan hệ đặc thù về vị trí (phía tây Hà Nội), về
mơi trường tự nhiên (vùng chuyển tiếp bán sơn địa), phong tục tập qn, thiết chế
chính trị, kinh tế, xã hội, tơn giáo... do chủ thể văn hoá (là các cộng đồng cộng cư
lâu đời ở đây) sáng tạo ra và đồng thời chịu tác động.
Trong khơng gian văn hố đó, hệ thống địa danh đóng vai trị là sản phẩm văn
hóa do chủ thể tạo ra trong quá trình định cư, sinh hoạt, phát triển. Chúng phản ánh
tri nhận của chủ thể, ghi lại những sự biến đổi trong quá trình vận động của lịch sử.
Nhìn vào cách thức cấu tạo của địa danh, cách chúng ra đời, tồn tại, mất đi, hợp
nhất, phân khai, cách thức chúng phân bố giữa những mối tương quan về khơng
gian có thể cho phép ta định hình được bức tranh khơng gian văn hố khu vực.
4.2. Phương pháp liên ngành trong nghiên cứu văn hóa (Interdisciplinaire)
Từ ba chiều cạnh ngơn ngữ - địa lí – lịch sử, luận án xem xét, mô tả đặc trưng,
đánh giá khả năng tương tác giữa các lớp địa danh, cụ thể là địa danh hai huyện
Thạch Thất và Ba Vì để tạo nên khơng gian văn hóa Xứ Đồi.
- Phương pháp phân tích thành tố trực tiếp của ngôn ngữ học – địa danh học
được sử dụng trong việc phân tích phức thể địa danh Xứ Đồi như một đơn vị ngơn
ngữ có cấu trúc ngữ pháp và cấu trúc ngữ nghĩa đặc trưng.
- Phương pháp so sánh lịch sử được sử dụng để tìm ra mối liên hệ lịch đại của
lớp địa danh hiện đang được sử dụng. Nhờ các mối liên hệ với các sự kiện, hiện

tượng lịch sử, có thể lí giải được nguồn gốc ra đời, các quy luật bản chất của sự tồn
tại và diễn tiến của các lớp địa danh.
- Phương pháp phân tích và phê khảo sử liệu cho phép kiểm chứng các cách
thức lí giải dân gian về nội dung ý nghĩa của địa danh thông qua nguồn sử liệu, phát
hiện các thơng tin đáng tin cậy. Từ đó có thể biết được các cách thức lí giải này là
11


`

chính xác khách quan hay được phản ánh sai lệch do nhầm lẫn hoặc do những hoàn
cảnh lịch sử nhất định, đồng thời có thể phục dựng lại hiện thực lịch sử trên cơ sở
các dữ liệu, thông tin thu nhận được.
- Phương pháp miêu tả và phân tích cảnh quan của địa lí học dùng để phân
loại địa lí tự nhiên của một khu vực thành các vùng và tiểu vùng dựa trên đặc trưng
của một thực thể hay một khu vực địa lí. Các đặc điểm địa lí thường là cơ sở ban
đầu của việc đặt địa danh. Trong một vài trường hợp, chúng trở thành căn cứ để
phân loại địa danh, là cơ sở nguồn gốc lí do để tìm hiểu địa danh. Xa hơn một bước
nữa, thốt khỏi vỏ bọc của địa lí, địa danh của một khu vực không phải là bảng từ
rời rạc với mối liên hệ đơn nhất giữa vỏ âm thanh và ý nghĩa mà là một mạng lưới
phức hợp của những mối quan hệ nội tại – ngoại tại. Nhờ phân tích cảnh quan, khi
một nhân tố lịch sử - xã hội nào đó cùng xuất hiện đồng loạt trong một loại địa danh
của khu vực sẽ tạo thành cảnh quan địa danh. Tổng hợp các cảnh quan địa danh cụ
thể, đặc trưng của khơng gian văn hóa sẽ được làm sáng tỏ.
Bản đồ dùng để khảo sát là các bản đồ địa hình, bản đồ hành chính, bản đồ,
lược đồ cổ. Thông tin trên bản đồ cho phép xác định được lí do, nguồn gốc và ý
nghĩa của một số nhóm địa danh. Bên cạnh đó, việc khảo sát, đối chiếu các bản đồ ở
nhiều giai đoạn khác nhau sẽ cho biết sự hình thành, tồn tại, mất đi của địa danh,
quá trình thay đổi về ngữ âm, chữ viết, hay các biến thể tên gọi khác nhau của cùng
một đối tượng, Từ đó, phát hiện nguyên nhân và mục đích của sự thay đổi.

4.3. Phương pháp nghiên cứu trường hợp (Case Study)
Xứ Đồi là một khơng gian văn hố dân gian với những đường biên mờ, ranh
giới rộng hẹp khác nhau theo từng quan niệm. Tuy nhiên, huyện Ba Vì và huyện
Thạch Thất là những khu vực hành chính ln thuộc về Xứ Đồi trong bất kì hồn
cảnh nào, bất kì thời điểm lịch sử nào. Hai trường hợp địa danh của huyện Ba Vì và
địa danh của huyện Thạch Thất có đầy đủ các cảnh quan địa hình đặc trưng cho Xứ
Đoài, lưu giữ hầu hết những sản phẩm văn hố điển hình Xứ Đồi. Đồng thời, đây
cũng là những địa điểm chịu nhiều tác động từ quá trình phát triển kinh tế kể cả tích
cực và tiêu cực. Vì vậy, sử dụng cứ liệu địa danh của hai khu vực này để mơ tả
chung cho tồn bộ khơng gian văn hố Xứ Đồi là khả thi.
12


`

4.4. Phương pháp điền dã (Field research method)
Phương pháp điền dã được thực hiện qua các bước sơ thám (làm quen với khu
vực), khảo sát theo các lộ trình chi tiết và ghi lại trong nhật kí hành trình (bao gồm:
thu thập các vi địa danh, sơ đồ hoá vị trí phân bố của các vi địa danh, tìm hiểu các
nguyên nhân đặt địa danh, cách lí giải dân gian của các trí thức địa phương, các
phong tục tập quán có quan hệ với địa danh...).
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
- Định vị và mô tả đặc trưng văn hóa Xứ Đồi từ góc độ khơng gian, với ba
chiều cạnh là lịch sử, địa lí môi trường và không gian xã hội.
- Chọn hệ thống địa danh hai huyện Thạch Thất và Ba Vì (Hà Nội) như là một
trường hợp điển hình lưu giữ những giá trị văn hóa Xứ Đồi, sử dụng các cứ liệu
địa danh này để để tiếp cận văn hóa Xứ Đồi dưới góc độ khu vực học và bằng
phương pháp nghiên cứu liên ngành.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án
- Ý nghĩa lí luận: mơ tả, phân tích, chỉ ra những đặc trưng của một khơng

gian văn hoá từ cứ liệu địa danh
- Ý nghĩa thực tiễn: nhận diện các giá trị cổ truyền trong các lớp địa danh của
Xứ Đồi. Từ đó, luận án đề xuất các phương pháp bảo tồn, tận dụng các giá trị đó
trong q trình hội nhập và phát triển.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận án gồm các chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí thuyết.
Chương 2: Khơng gian lịch sử của Xứ Đồi (Qua địa danh hai huyện Thạch
Thất và Ba Vì, Hà Nội).
Chương 3: Khơng gian địa lí của Xứ Đồi (Qua hệ danh hai huyện Thạch Thất
và Ba Vì, Hà Nội).
Chương 4: Khơng gian xã hội của Xứ Đoài (Qua địa danh hai huyện Thạch
Thất và Ba Vì, Hà Nội).

13


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, ĐỊA BÀN
NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT
Xứ Đồi được coi là một dạng thức khơng gian có tính đặc thù cao, tồn tại như
một biểu tượng văn hoá trong tâm thức người Việt. Tuy nhiên, trong hầu hết các ghi
chép, nghiên cứu về Xứ Đoài thường bắt đầu bằng việc giải thích “Xứ Đồi là tên
gọi khác của Trấn Sơn Tây/Sơn Tây”. Sơn Tây thường được coi là trung tâm tiếp
nhận và lan tỏa khơng gian văn hóa xứ Đồi. Người Sơn Tây được coi là chủ thể
của văn hóa của Xứ Đoài. Phải đến những năm cuối thế kỉ XX thì Xứ Đồi mới
chính thức được gọi tên như một đối tượng nghiên cứu của các ngành khoa học xã
hội. Đó là lí do vì sao, tổng quan nghiên cứu về Xứ Đồi có thể chấp nhận cả những
tài liệu viết về Sơn Tây và liên quan tới Sơn Tây.
Trong phạm vi của luận án, Xứ Đoài được tiếp cận dựa trên các lí thuyết văn
hố mà trọng tâm là nghiên cứu khơng gian văn hố. Đồng thời, bằng sự kết hợp sử

dụng phương pháp phân tích ngơn ngữ với các phương pháp phân tích cảnh quan,
phương pháp so sánh lịch sử, phân tích và phê khảo sử liệu, khơng gian văn hố Xứ
Đồi sẽ được mơ tả, làm sáng tỏ từ địa danh của hai huyện Thạch Thất và Ba Vì
(Hà Nội).
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Các ghi chép, khảo cứu liên quan đến Xứ Đoài trước năm 1888
Những ghi chép đầu tiên liên quan đến lịch sử, địa lí, địa danh vùng đất mà
sau thế kỉ XVII được gọi là Xứ Đoài là của các tác giả Trung Quốc. Có thể kể đến
Hán thư - Địa lí chí (Ban Cố - đời Hán), Thủy kinh chú (Lịch Đạo Nguyên, Dương
Thủ Kính – đời Bắc Ngụy), Nguyên Hịa quận huyện chí (Lý Cát Phủ - đời Đường),
Thái Bình hồn vũ kí (Nhạc Sử - đời Bắc Tống), Quận huyện thích danh (Quách Tử
Chương - đời Nguyên), Đại Minh nhất thống chí (đời Nguyên), Gia Khánh trùng tu
nhất thống chí (đời Thanh). Trong đó, phần quận quốc thuộc Hán thư Địa lí chí
(quyển 28 hạ) đã ghi lại địa danh Mê Linh và Chu Diên trong những nội dung viết
về quận Giao Chỉ [142, tr.73]. Đây là hai địa danh lịch sử liên quan mật thiết đến sự
14


hình thành Xứ Đồi. Thủy kinh chú miêu tả về sơng Diệp Du (sơng Hồng) có nhánh
thứ tư và thứ năm “qua huyện Mê Linh của quận Giao Chỉ chảy ra biển” [55, tr.408]
“huyện Mi Linh mở ra vào năm Nguyên Đỉnh thứ 6 thời Hán Vũ Đế, là lị sở của Đơ
” [55, tr.421]. Giao Châu ngoại vực kí nhắc tới một con sông “đối với huyện Chu
Diên” rồi “chảy về phía đơng qua huyện Câu Lậu” - con sông mà Đào Duy Anh xác
định là sông Đáy [1, tr.53]. Cựu Đường Thư – Địa lí chí cho biết địa danh Châu
Phong/Phong Châu được đặt vào đời nhà Tuỳ, giữ nguyên cho đến đời Đường, vốn
là đất huyện là huyện Gia Ninh đời Hán, thuộc Tượng Quận ở đời Tần, quận Tân
Hưng ở đời Ngô, quận Tân Xương đời Tấn, Hưng Châu đời Tống, đời Tề. Ngoài
huyện Gia Ninh, thuộc Phong Châu cịn có 5 huyện trực thuộc khác là Tân Xương,
An Nhân, Trúc Lạc, Thạch Đê [144, tr.1381]. Phong Châu quy chiếu đến một vùng
đất rộng lớn, gắn với nhiều huyền tích của châu thổ Bắc Bộ, nằm ở phía đơng bắc

của khối núi Ba Vì hiện nay và giữa hai bờ sông Thao, sông Hồng. Sau này, Đại
Thanh nhất thống chí chép “Phủ Quảng Oai lãnh hai huyện Ma Lung và Mĩ Lương”,
Thiện hạ quận quốc lợi bệnh thư viết năm Vĩnh Lạc 1407 “đặt phủ Giao Châu.
Châu Từ Liêm lãnh hai huyện Đan Sơn và Thạch Thất. Châu Tam Đới lãnh sáu
huyện… Phủ Tuyên Hóa lãnh ba huyện… Phủ Tam Giang có Châu Thao Giang
lãnh bốn huyện…Châu Tuyên Giang lãnh ba huyện… Châu Đà Giang lãnh hai
huyện….” [Dẫn theo Đại Nam Nhất thống chí, tập 2, tr.74; tr.1424-1425].
Đối với các cơng trình trong nước, có thể phân thành bốn loại sau:
Các bộ thông sử nhắc đến địa danh vùng Sơn Tây – Xứ Đoài qua các sự kiện
lịch sử. Việt sử lược (khuyết danh) nhắc chuyện “đời Trang Vương nhà Chu (696682 TCN) ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc khác,
tự xưng là Hùng Vương” [39, tr.18]; “đời Quang Vũ nhà hậu Hán, năm thứ 16 hiệu
Kiến Vũ người huyện Mê Linh là Trưng Trắc, con gái Lạc tướng, lấy chồng người
huyện Chu Diên là Thi Sách” [39, tr.24]… Đại Việt sử kí (Lê Văn Hưu) và Đại Việt
sử kí tồn thư (Ngơ Sĩ Liên) nhắc việc chia nước thành 15 bộ, trong đó có bộ Giao
Chỉ, Chu Diên, nhắc đến việc Sơn Tinh “đón vợ về núi Tản Viên” [44, tr.18], “Thủy
Tinh tấn công vào chân núi Quảng Oai rồi theo dọc bờ lên cửa Hát” [44, tr.24];

15


nhắc sự kiện Kiều Công Hãn chiếm cứ Phong Châu, Nguyễn Khoan chiếm Tam Đái
khi loạn 12 sứ quân, nhắc việc nhà Lý đổi 10 đạo thành 24 lộ vào năm Canh Tuất,
Thuận Thiên năm 1; nhà Trần đổi 24 lộ thành 12 lộ vào nhăm Nhâm Dần thứ 11
(1242)… Khâm định Việt sử thông giám cương mục nhắc đến sự kiện tháng 4 năm
1668, “Trịnh Tạc tự gia phong là đại nguyên soái thượng sư thái phụ Tây vương”
[73, tr.320]. Cũng chính bởi tước phong này mới có sự việc đổi một loạt các địa
danh có chữ Tây thành Đoài, mà Sơn Tây là một trong những trường hợp đó.
Sách địa chí chia thành hai tiểu loại là quốc chí và phương chí, ghi chép tổng
hợp, cụ thể về cương vực, hình thế, phong tục, cổ tích… của một khu vực hay một
địa danh. Trong các sách quốc chí viết trước thời Nguyễn như An Nam chí lược (Lê

Tắc – đời Trần), Dư địa chí (Nguyễn Trãi – đời Lê), Kiến văn tiểu lục (Lê Quý Đôn
– đời Lê Trung Hưng), Sơn Tây – Xứ Đoài được nhắc tới như một bộ phận không
thể thiếu của lãnh thổ quốc gia. An Nam chí lược (Lê Tắc - 1333) ghi lại các địa
danh hành chính được sử dụng đến cuối đời Trần và trong giai đoạn Minh thuộc
như Quốc Oai Châu, Phong Châu, huyện Mi Linh [87, tr.55-57]; các địa danh chỉ
khu vực tự nhiên như núi Tản Viên với chú thích “hình núi như cái tán”, núi Phật
Tích với chú thích “trên đá có dấu chân”; núi Lập Thạch là “hịn đá đứng sững” [87,
tr.60-61]; Lơ Giang là “sơng Tam Đái”, “Đại Ác giang” [87, tr.61]. Nếu như các
thông tin về trấn Quốc Oai trong ANCL còn hết sức sơ lược, thì đến Dư địa chí
(Nguyễn Trãi), diên cách, địa hình, tên sơng núi, đặc sản của Sơn Tây Thừa tuyên
đã hiện lên rõ ràng hơn rất nhiều. Danh mục địa danh hành chính được kê khai đến
tên huyện cùng với tổng số các xã và nhân khẩu [101, tr.219]. Đến giai đoạn Lê
Trung Hưng (1533 - 1788) căn cứ theo Kiến văn tiểu lục (Lê Quý Đôn), thông tin về
trấn Sơn Tây khơng có nhiều khác biệt so với thời kì trước ngoại trừ một vài thay
đổi về định giới, tên gọi của các phủ, huyện và tổng số xã trong mỗi huyện. Đến
cuối thế kỉ XIX, Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, Đại Nam nhất
thống chí và Đồng Khánh địa dư chí của Quốc sử quán triều Nguyễn đã cung cấp
một danh mục đầy đủ các đơn vị hành chính và hệ thống bản đồ toàn tỉnh, bản đồ
cho từng phủ, huyện cho từng tỉnh thành thuộc nước Đại Nam, bên cạnh những

16


thơng tin có tính chất “địa chí” truyền thống.
Cùng với ĐKDĐC và ĐNNTC, Bắc thành địa dư chí lục của Lê Chất cũng ghi
lại danh sách địa danh hành chính 12 trấn phía Bắc vào thời điểm trước 1888, trong
đó có tên gọi của 5 phủ, 24 huyện 1264 thơn ấp thuộc trấn Sơn Tây. Cùng với tài
liệu nói trên, Sơn Tây dư đồ, Sơn Tây quận huyện bị khảo, Sơn Tây tỉnh chí là
những tài liệu có tính chất phương chí của Sơn Tây.
Bên cạnh thể loại sử kí và địa chí, cuối thế kỉ XIX cịn xuất hiện cơng trình

Các tổng trấn xã danh bị lãm chun viết về địa danh. Trong đó, riêng trấn Sơn Tây,
sách đã thống kê tên gọi của 5 phủ, 24 huyện, 195 tổng, 1269 xã, thôn, trang, trại,
phố, giáp, phường vạn, sách sở châu.
Bản đồ cũng là một nguồn tư liệu quan trọng trong việc nghiên cứu về Sơn
Tây – Xứ Đoài. Trong tập Thiên hạ bản đồ (Hồng Đức 21 -1490), vị trí phía tây
nam Trung đơ được ghi là Sơn Tây. Ở tờ bản đồ Sơn Tây thừa tuyên sáu phủ hai
mươi tư huyện, Đà Giang (Sông Đà) được vẽ giao với Nhĩ Hà (Sông Hồng), Đà
Dương phủ (7) vẽ hình ba ngọn núi (Tản Viên), Bạch Hạc Tam Kì, Đại Giang,
Quảng Oai phủ, Lâm Thao phủ, Đà Dương phủ. Vào năm 1838, Quốc sử quán
Triều Nguyễn cho in Đại Nam nhất thống toàn đồ gồm 76 bản đồ của 31 tỉnh và 45
phủ, trong đó có phần bản đồ của tỉnh Sơn Tây. Cuối thế kỉ XIX, trong tập Đồng
Khánh địa dư chí, ngồi phần giới thiệu chung, phần ghi chép cụ thể về từng phủ
huyện trong tỉnh Sơn Tây cịn có bản đồ tồn tỉnh và bản đồ các phủ huyện. Nhờ
các bản đồ này, chúng ta có thể biết được vị trí của các điểm địa danh và mối quan
hệ lẫn nhau của các địa danh trên bề mặt không gian trong thế kỉ XIX.
Nguồn tài liệu cổ trung đại cho thấy, dù địa danh Sơn Tây mới được công
nhận ở thể kỉ XV, tên gọi Xứ Đoài bắt đầu được sử dụng ở thế kỉ XVII nhưng trước
đó, vùng đất phía tây Thăng Long – Hà Nội đã liên tục được nhắc tới như một phần
của khơng gian văn hóa Bắc Bộ. Trong các sách lịch sử, địa danh ở vùng Xứ Đồi
như một phần khơng thể thiếu của các sự kiện. Trong các sách địa chí, các vấn đề
liên quan đến diên cách, mơi trường tự nhiên, văn hóa, phong tục của Xứ Đồi được

17


giới thiệu một cách tổng hợp. Một vài sách chú thích cả tên Nơm của các thơn, xã
bên cạnh tên chữ nhưng vẫn đơn thuần là sự liệt kê địa danh hành chính phục vụ
cho việc quản lí của triều đình. Rất nhiều địa danh trong tài liệu ghi chép khơng cịn
được sử dụng hoặc sử dụng với một sự quy chiếu cho không gian khác. Mặc dù vậy,
các công trình này này đóng vai trị là nguồn tư liệu thành văn phục vụ việc đối

chiếu quá trình biến đổi địa danh, tìm ra nguồn gốc, nguyên nhân quá trình đặt tên,
đổi tên, hợp tên và mất tên trong các địa danh Xứ Đoài hiện nay.
1.1.2. Các ghi chép, khảo cứu liên quan đến Xứ Đoài từ 1888 đến 1945
Sau năm 1887, Bắc Kì trở thành một xứ bảo hộ nằm trong Liên bang Đông
Dương. Bối cảnh lịch sử khá đặc biệt này dẫn đến sự tồn tại của 3 nguồn tài liệu
liên quan đến văn hóa và địa danh Xứ Đồi: văn bản Hán Nơm, văn bản tiếng Pháp
và văn bản bằng chữ Quốc ngữ.
Nguồn sách viết bằng chữ Hán vẫn kế thừa tư tưởng, văn phong và bút pháp
của các thể loại thơng sử, địa chí của giai đoạn trước. Về lịch sử, bộ Khâm định Việt
sử thông giám cương mục và bộ Đại Nam nhất thống chí mà Quốc sử quán triều
Nguyễn làm thời Tự Đức vẫn được tiếp tục sửa chữa và hoàn chỉnh. Thêm vào đó
các sách chuyên về địa danh như Sơn Tây quận huyện bị khảo, Sơn Tây tỉnh toàn
hạt phủ huyện châu tổng xã thôn trại phường trang trại được biên soạn và sao chép.
Trong đó Sơn Tây tỉnh tồn hạt phủ huyện châu tổng xã thôn trại phường trang trại
là một bản kê các đơn vị hành chính của tỉnh Sơn Tây từ cấp phủ đến cấp nhỏ nhất
là xóm, điếm của tỉnh Sơn Tây vào khoảng cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.
Đầu thế kỉ XX, để phục vụ cho mục đích cai trị, thực dân Pháp và triều đình
phong kiến cho tiến hành thu thập số liệu thơng tin về điền địa, phong tục, thần,
Phật ở nhiều địa phương trong cả nước. Vì vậy, một loạt các tài liệu địa bạ, thần
tích thần sắc, tục lệ được viết hoặc sao bằng chữ Hán, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ
(chủ yếu vẫn là văn bản chữ Hán) được các trí thức và quan viên làng xã thực thiện.
Xét riêng trong các các làng xã thuộc tỉnh Sơn Tây, số tài liệu dạng này hiện lưu trữ
tại Viện Hán Nôm là 152 đầu tài liệu (Xem bảng 1.1):

18


Bảng 1.1: TÀI LIỆU LIÊN QUAN ĐẾN VĂN HOÁ XỨ ĐOÀI (TỈNH SƠN
TÂY ĐẦU THẾ KỈ XX) THUỘC KHO SÁCH CỦA VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NƠM


TT Lĩnh vực
1 Thần tích

Số lượng
29

2 Thần sắc

31

3 Cổ chỉ
4 Tục lệ

1
34

5 Xã chí
6 Địa bạ

9
48

TỔNG

Kí hiệu
Địa bàn thu thập
AEa10 Bất Bạt, Phúc Thọ, Tiên Phong, Tùng
Thiện, Thạch Thất, Yên Sơn.
ADa10 Bất Bạt, Phúc Thọ, Quảng Oai, Tiên
Phong, Tùng Thiện, Thạch Thất, Yên

Sơn.
AHa Bất Bạt, Tiên Phong.
AFa Bất Bạt, Phúc Thọ, Tiên Phong, Tùng
Thiện, Thạch Thất, Yên Sơn.
AJa Bất Bạt, Thạch Thất, Phúc Thọ.
AGa3 Bất Bạt, Phúc Thọ, Thạch Thất, Tiên
Phong, Tòng Thiện, Yên Sơn.

152
(Nguồn: Phịng tư liệu Viện nghiên cứu Hán Nơm, 2017)

Vào thời điểm này, các văn bản bằng tiếng Pháp để phục vụ cho công cuộc
khai thác thuộc địa của Pháp cũng xuất hiện. Về tiếng Pháp có thể kể đến Notice sur
la province de Son-Tay (Địa chí tỉnh Sơn Tây) của Bùi Định Thịnh viết năm 1932
về lịch sử, thủy văn, tài nguyên mỏ và rừng, công nghiệp, đường giao thông, thương
mại, phong tục tập quán; các chùa nổi tiếng và các danh nhân của tỉnh...
Từ thế kỉ XX trở đi, cùng với sự tiếp xúc của văn hóa phương Tây, sự ra đời
của chữ Quốc ngữ, một loạt sách viết về địa dư, phong thổ Bắc Kì đã được viết theo
hướng hiện đại hơn. Năm 1926, dựa trên những bản báo cáo do Tịa Cơng sứ các
tỉnh gửi cho phủ thống sứ Bắc Kì, Viện Viễn đơng bác cổ đã xuất bản cơng trình
Địa danh và tài liệu lưu trữ về làng xã Bắc Kì viết bằng chữ Pháp. Hiện nay, chúng
ta có thể sử dụng tài liệu này để tìm hiểu về địa danh hoặc tổ chức hành chính đầu
thế kỉ XX của Bắc Kì nói chung và Sơn Tây nói riêng. Năm 1930, Đỗ Đình Nghiêm,
Ngơ Vi Liễn và Phạm Văn Thư đã biên soạn Địa dư các tỉnh Bắc Kì để dạy cho các
trường Pháp Việt. Phần Tỉnh Sơn Tây giống như các tỉnh khác được nói rõ diện tích,
địa hình, sơn xun dân cư, khí hậu, các phủ huyện xã thôn, đường giao thông đi lại,
canh nơng thổ sản, kĩ nghệ thương mại, cổ tích, thắng cảnh. Địa đồ được vẽ theo

19



phương pháp hiện đại, phân rõ địa giới của tỉnh, địa giới các phủ huyện, một số xã
thôn trực thuộc, tên và vị trí của các thực thể địa lí (núi sơng) chính cũng được vẽ
tương đối cụ thể trên bản đồ. Sách Sơn Tây tỉnh địa chí do Phạm Xuân Độ viết năm
1941, được coi là cuốn sách đầu tiên viết về địa chí Sơn Tây bằng chữ quốc ngữ.
Trong phần tiểu dẫn, tác giả đã không dưới một lần gọi Sơn Tây là tỉnh Đoài:
Vả chăng, tỉnh Đoài thành lập đã lâu, từ xưa đến nay vẫn được coi
là một trọng trấn nên có nhiều danh lam cổ tích, lại chịu ảnh hưởng sâu
sắc của văn hóa Âu–Tây. Tôi nhận xét thấy lắm việc đáng cho ta ghi nhớ
mà hiện thời chưa có tác phẩm nào bằng chữ quốc văn nói tới. [23, tr.9].
Nhờ tiếp xúc với phương Tây, đề tài về văn hóa, địa danh của Sơn Tây – Xứ
Đoài đã được chuyển hướng theo con đường cận đại hoá. Các văn bản bằng chữ
Pháp và chữ Quốc ngữ xuất hiện ngày một nhiều. Nghiên cứu về văn hóa đã từng
bước thốt ra khỏi cách ghi chép biên niên kiểu sử kí hay ghi chép tổng hợp kiểu địa
chí ở giai đoạn trước, hàng loạt ngành khoa học mang tính cận đại của phương Tây
như Khảo cổ học, Dân tộc học, Ngôn ngữ học, Văn bản học, Bảo tàng học, Bảo tồn
học… cũng như sự hoàn thiện hệ thống chữ Quốc ngữ đã mang đến những phương
pháp nghiên cứu khoa học mới.
1.1.3. Các nghiên cứu về địa danh và văn hóa Xứ Đồi sau năm 1945
Sau cách mạng Tháng Tám, do hoàn cảnh lịch sử và cách thức tổ chức hành
chính, các vấn đề liên quan đến văn hố Xứ Đồi khơng chỉ nằm trong các ghi chép,
nghiên cứu liên quan đến Sơn Tây mà còn nằm trong các nghiên cứu thuộc Hà Tây,
Hà Sơn Bình và Hà Nội.
Trong những năm thuộc thập niên sáu mươi, để phục vụ mục đích tuyên huấn,
các tài liệu về Sơn Tây chủ yếu hướng tới việc tổng kết về lịch sử, đặc biệt là lịch sử
đấu tranh, truyền thống cách mạng của địa phương, tiêu biểu như Những ngày tháng
cách mạng tháng Tám ở Sơn Tây (1960), Sơn Tây anh dũng chiến đấu (1962), Sơ
thảo tổng kết du kích chiến tranh tỉnh Sơn Tây (1965), Sơ thảo lịch sử cách mạng
tháng Tám Hà Đông - Sơn Tây (1967)... Phải đến năm 1972, khi khoa Sử trường
Đại học tổng hợp Hà Nội tiến hành điều tra và phát hiện các dấu tích của văn hóa


20


Sơn Vi trên đất Ba Vì thì những nghiên cứu về khu vực này mới bắt đầu tách dần
khỏi những đề tài về vận động tuyên truyền [64, tr.25-41]. Từ năm 1973 đến năm
1980, Đinh Văn Nhật công bố một loạt các kết quả nghiên cứu về vị trí của huyện
Mê Linh trong các số 148 [57], 149 [58], 156 [59], 177 [60], 190 [61], 191 [62] của
tạp chí Nghiên cứu lịch sử. Mặc dù không trực tiếp đề cập đến Xứ Đồi, nhưng qua
cách thức xác định vị trí của các địa danh cổ có liên quan đến bộ lạc Mê Linh và địa
bàn hoạt động của Hai Bà Trưng, chúng ta có thể phục dựng được một khơng gian
Xứ Đoài cổ theo quan điểm của nhà nghiên cứu này. Đến năm 1985, trong khoảng
thời gian mà Sơn Tây nhập vào Hà Nội lần thứ nhất, Nhà xuất bản Hà Nội đã xuất
bản cuốn Làng xã ngoại thành Hà Nội của Bùi Thiết. Trong cuốn sách mang hình
thức từ điển bách khoa về địa danh này, tên gọi, vị trí, lịch sử sơ lược của các xã,
thơn thuộc khơng gian Xứ Đoài cũng được thu thập và giới thiệu.
Giai đoạn 1991 - 2008, các nghiên cứu về Xứ Đoài bắt đầu tăng nhanh hơn và
đa dạng hơn. Dưới sự chỉ đạo của Sở văn hố thơng tin tỉnh Hà Tây, nhiều cơng
trình nghiên cứu có tính chất tổng kết về văn hoá - văn hiến Hà Tây được in ấn và
xuất bản như Hà Tây – làng nghề làng văn (1994), Sơn Tinh và vùng văn hóa cổ Ba
Vì (1997), Di tích Hà Tây (1999), Sơn Tây một vùng đất cổ (Nhiều tác giả, 2002),
Di sản văn hóa Hà Tây và việc bảo tồn di sản văn hóa của tỉnh trong thời gian tới
(Đặng Văn Tu, tạp chí Di Sản, số 4, 2005). Trước thời điểm Hà Tây sáp nhập vào
Hà Nội, Sở văn hố thơng tin tỉnh Hà Tây, trung tâm bảo tồn và phát huy nghệ thuật
dân tộc tổ chức cuộc hội thảo khoa học về Một số vấn đề văn hiến Hà Tây truyền
thống và hiện đại (2004), Đặng Văn Tu, Nguyễn Tá Nhí đã cho chỉnh lí, biên soạn
bổ sung cuốn Địa chí Hà Tây và được NXB Hà Nội cho in vào năm 2011. Cho đến
nay, Địa chí Hà Tây vẫn được coi là cuốn địa chí miêu tả đầy đủ nhất về đất và
người Hà Tây nói chung và Sơn Tây nói riêng trong thời kì hiện đại.
Với bối cảnh của thời kì Đổi mới và hội nhập, các giá trị văn hoá lưu giữ trong

một số làng cổ của Xứ Đoài đã bắt đầu được các nhà khoa học nước ngồi, các
nhóm nghiên cứu liên quốc gia và các tổ chức nước ngoài phát hiện và quan tâm tới.
Từ những nghiên cứu trường hợp này, đặc trưng không gian sinh hoạt của người Xứ

21


×