Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

(Luận văn thạc sĩ) tư tưởng thân dân của nguyễn trãi và ý nghĩa của nó đối với công cuộc đổi mới ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (736.63 KB, 90 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
………&……….

BÙI THỊ NGỌC LAN

TƢ TƢỞNG THÂN DÂN CỦA NGUYỄN TRÃI VÀ
Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI CƠNG CUỘC ĐỔI MỚI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

TĨM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Hà Nội – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
………&……….

BÙI THỊ NGỌC LAN

TƢ TƢỞNG THÂN DÂN CỦA NGUYỄN TRÃI VÀ
Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn : PGS.TS.Trần Đăng Sinh



Hà Nội – 2015


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................................ 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn ....................................... 5
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ........................................ 5
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn ........................... 6
6. Đóng góp của luận văn .............................................................................. 6
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn .................................................. 6
8. Kết cấu của luận văn .................................................................................. 6
Chƣơng 1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƢ TƢỞNG THÂN
DÂN CỦA NGUYỄN TRÃI ............................................................................ 7
1.1.Điều kiện kinh tế - xã hội cho sự tồn tại và phát triển tƣ tƣởng thân dân
của Nguyễn Trãi ............................................................................................. 7
1.2.Tiền đề lý luận cho sự ra đời và phát triển tƣ tƣởng thân dân của
Nguyễn Trãi ................................................................................................. 18
1.2.1. Khái niệm “dân” và “tư tưởng thân dân” ...................................... 18
1.2.2. Tư tưởng thân dân trong Nho giáo và Phật giáo trước thế kỷ XV ở
Việt Nam..................................................................................................... 21
1.3. Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi .............................................. 33
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1.................................................................................. 42
Chƣơng 2. NỘI DUNG CƠ BẢN TƢ TƢỞNG THÂN DÂN CỦA NGUYỄN
TRÃI................................................................................................................ 43
2.1. Quan niệm về “dân” của Nguyễn Trãi .................................................. 43
2.2. Tƣ tƣởng trọng dân của Nguyễn Trãi ................................................... 47
2.3. Tƣ tƣởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi ................................................. 54

2.4. Ý nghĩa tƣ tƣởng thân dân của Nguyễn Trãi đối với công cuộc đổi
mới ở Việt Nam hiện nay .................................................................... 62


2.4.1.Tư tưởng trọng dân của Nguyễn Trãi đối với sự nghiệp cách mạng
là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân trong thời kỳ Đảng lãnh đạo
cơng cuộc đổi mới toàn diện đất nước....................................................... 63
2.4.2.Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi với quan điểm nhân nghĩa,
đoàn kết toàn dân để làm nên những thắng lợi lịch sử. ............................ 67
2.4.3. Phát huy mạnh mẽ vai trò của quần chúng nhân dân trong công
cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay. ............................................................ 72
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2.................................................................................. 78
KẾT LUẬN .................................................................................................... 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 82


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nền độc lập tự chủ của dân tộc Việt Nam bắt đầu từ những năm đầu của
thế kỷ X, tiếp theo đó đã trụ vững trƣớc sự tấn công của ngoại xâm chủ yếu là
nhờ vào sức mạnh của toàn thể nhân dân. Dựa vào dân, đoàn kết toàn dân và
cả đoàn kết trong nội bộ giai cấp thống trị để có sức mạnh trong chiến tranh
vệ quốc đã trở thành vấn đề trung tâm của tƣ tƣởng thời đại.
Tƣ tƣởng lấy dân làm gốc là một dịng chảy liên tục trong q trình dựng
nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc Việt Nam. Truyền thống quý báu ấy của ông
cha ta đã đƣợc thể hiện trong các triều đại phong kiến tiến bộ mà đặc biệt là
sự nhận thức của những tri thức Nho học, của quan lại triều đình với tƣ tƣởng
đầy nhân nghĩa, yêu thƣơng, quan tâm, chăm lo đời sống nhân dân mà
Nguyễn Trãi là một nhà tƣ tƣởng tiêu biểu nhất của xã hội phong kiến khi nó
đạt tới tầm cao của thế kỷ XV. Truyền thống ấy chứa đựng những tƣ tƣởng

nhân văn sâu sắc và còn nhiều giá trị đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
đất nƣớc hiện nay.
Nguyễn Trãi có tình u q hƣơng, đất nƣớc nồng nàn. Tên tuổi của
ơng sáng chói trên cuốn sử vàng của dân tộc. Dƣới ách đô hộ của phong kiến
nhà Minh, ông đã khảng khái đi vào con đƣờng đánh giặc cứu nƣớc. Cùng với
Lê Lợi, ông đã lãnh đạo cuộc kháng chiến trƣờng kỳ và gian khổ chống qn
Minh. Khi hịa bình, ơng đề ra đƣờng lối xây dựng đất nƣớc nhằm làm cho
dân giàu nƣớc mạnh, ông luôn quan tâm đến đời sống của nhân dân coi đó là
mục đích của đời mình.
Để bảo vệ và phát triển đất nƣớc cần phải có tƣ tƣởng thân dân của
những ngƣời đứng đầu, những thủ lĩnh của đất nƣớc, những ngƣời “làm quan
của trăm họ”. Một khi những “quan phụ mẫu” hết lịng vì nƣớc vì dân thì sức
mạnh của dân tộc càng đƣợc phát huy hơn bao giờ hết, nó có thể nhấn trìm bè
1


lũ xâm lƣợc và xây dựng đất nƣớc có tầm vóc và uy tín. Đây cũng là vấn đề
đặt ra với thời đại ngày nay cần xây dựng và phát triển đất nƣớc Việt Nam
mang tầm vóc quốc tế.
Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “nƣớc lấy dân làm gốc; gốc có
vững cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”. Cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng nhân dân. Chính sự nghiệp ấy có thắng lợi khơng là
nhờ vào vai trị và sức mạnh của nhân dân. Vì vậy phát huy sức mạnh của
nhân dân là điều không thể thiếu trong thời đại ngày nay.
Sự nghiệp đổi mới đất nƣớc dƣới sự lãnh đạo của Đảng ta hiện nay là
công việc lâu dài và đầy khó khăn nhằm xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã
hội. Sự nghiệp ấy có thành cơng hay khơng thì một trong những yếu tố quan
trọng là phát huy sức mạnh vật chất tinh thần của quần chúng nhân dân.
V.I.Lênin đã chỉ rõ một trong những nguy cơ lớn nhất, đáng sợ nhất đối
với một đảng cầm quyền là đảng đó quan liêu, xa rời, tự cắt đứt mối quan hệ

với quần chúng. Chính vì vậy cơng cuộc đổi mới của Việt Nam hiện nay cần
phát huy hơn nữa mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. Mối quan hệ gắn bó
máu thịt giữa Đảng và nhân dân là vấn đề sống còn đƣợc đặt ra trong bối cảnh
ngày nay để đi tới con đƣờng chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Nhân dân ta đã
lựa chọn từ những năm 20 của thế kỷ XX
Chính vì những lý do trên, tơi lựa chọn vấn đề: “Tƣ tƣởng thân dân của
Nguyễn Trãi và ý nghĩa của nó đối với cơng cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện
nay” là đề tài nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ triết học của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Suốt nhiều trăm năm qua, ở nƣớc ta đã có nhiều cơng trình nghiên cứu
về tƣ tƣởng Nguyễn Trãi trên nhiều phƣơng diện chính trị, văn hóa, văn học,
nghệ thuật và triết học. Tuy nhiên, việc nghiên cứu tƣ tƣởng triết học của
Nguyễn Trãi vẫn còn nhiều khoảng trống nhƣ trong Nguyễn Trãi một nhân
vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam tác giả Trần Huy Liệu viết: “Sự nghiệp của
2


Nguyễn Trãi là một kho tàng rất giàu, rất lớn, chắc chúng ta khai thác chƣa
hết; huống chi, nhắc nhở sự nghiệp và tƣ tƣởng của vĩ nhân cũng giống nhƣ
lấy bút tơ đậm những cảm hồi đã đậm mà mỗi cháu con đều vinh dự mang
trong quả tim khối óc của mình”[ 57, 164].
Nghiên cứu về dân và tƣ tƣởng thân dân nói chung cũng nhƣ tƣ tƣởng
thân dân của Nguyễn Trãi nói riêng là một vấn đề lớn đƣợc nhiều ngƣời quan
tâm và nghiên cứu. Liên quan đến đề tài luận văn có thể khái qt một số
cơng trình tiêu biểu nhƣ sau:
Trong cuốn “lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam”, tập 1, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội, 1993 do Nguyễn Tài Thƣ chủ biên. Tác giả dành hẳn một chƣơng để
khảo cứu Nguyễn Trãi – nhà tƣ tƣởng vĩ đại của thế kỷ XV và của lịch sử tƣ
tƣởng dân tộc” và khẳng định tƣ tƣởng của Nguyễn Trãi đạt đến tầm cao của
thời đại, đã khái qt lên đƣợc nhiều vấn đề có tính quy luật của công cuộc

cứu nƣớc và dựng nƣớc, chỉ ra đƣợc tầm quan trọng của nhận thức lý luận
trong hoạt động thực tiễn, từ đó nâng tƣ duy dân tộc lên một trình độ mới.
Những lý luận của ơng vừa có ý nghĩa đƣơng thời, vừa có tác dụng sâu xa về
sau. Nói cách khác những tƣ tƣởng của ơng khơng chỉ có ý nghĩa đối với lịch
sử mà cịn vƣợt qua giới hạn không gian, thời gian để chỉ rõ sức mạnh định
hƣớng, chỉ đạo của lý luận với thực tiễn.
Cuốn “Tƣ tƣởng Nguyễn Trãi trong tiến trình lịch sử Việt Nam” của
tác giả Võ Xuân Đàn, Nxb Văn Hóa – Thơng tin, Hà Nội, 1996.Từ góc tiếp
cận lịch sử tác giả đã phân tích, trình bày có hệ thống tƣ tƣởng của Nguyễn
Trãi về chính trị, quân sự, đạo đức, giáo dục và mỹ học. Đặc biệt trong tƣ
tƣởng về chính trị tác giả đã phân tích và làm nổi bật tƣ tƣởng nhân nghĩa
động lực mạnh mẽ thúc đẩy tiến trình phát triển lịch sử ở thời đại Nguyễn
Trãi. Đồng thời khẳng định vị trí, giá trị lịch sử và những đóng góp của
Nguyễn Trãi trong lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam.

3


“Nguyễn Trãi một nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam” tác giả
Trần Huy Liệu, Nxb Sử học, Hà Nội, 1962, tác giả đã chỉ rõ nguồn gốc gia
đình, quê hƣơng và con đƣờng cứu nƣớc với vai trò mƣu thần chiến lƣợc của
khởi nghĩa Lam Sơn và nhà thiết kế cho sự nghiệp xây dựng đất nƣớc sau khi
giành đƣợc độc lập của nhà Lê Sơ. Trong đó lý giải về nguồn gốc tƣ tƣởng
nhân nghĩa, lòng tự hào dân tộc của Nguyễn Trãi đƣợc tác giả phân tích từ
nhiều khía cạnh rất sâu sắc.
Một số cơng trình nghiên cứu nhƣ: “Một số quan niệm về dân thời Lý
– Trần” của tác giả Vũ Văn Vinh đăng trên tạp chí triết học, (số 1 – 1998),
tr26 – 28; “Tƣ tƣởng yêu nƣớc thƣơng dân của Nguyễn Trãi” của tác giả
Nguyễn Thu Nghĩa đăng trên tạp chí triêt học, (số 2 -1999), tr29 -30; (2005),
“Về mối quan hệ tam giáo trong tƣ tƣởng Nguyễn Trãi”, “Về quyết định của

Nguyễn Trãi trong mối quan hệ với thiền phật giáo” của tác giả Trần Nguyên
Việt đăng trên tạp chí triết học, (số 7 – 2005), tr 23 – 29 và tạp chí triết học,
(số 8 – 2007), tr35 – 40. “Tƣ tƣởng nhân văn của Nho giáo và ảnh hƣởng của
nó trong tƣ tƣởng Nguyễn Trãi”, Luận án Tiến sĩ triết học của Triệu Quang
Minh (2014), Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Học viện Khoa học
xã hội đã tiếp cận nghiên cứu tƣ tƣởng yêu nƣớc thƣơng dân của Nguyễn Trãi
dƣới những lát cắt khác nhau: Tƣ tƣởng nhân nghĩa – trọng tâm của tƣ tƣởng
yêu nƣớc, Phật giáo, Nho giáo với tƣ tƣởng yêu nƣớc của Nguyễn Trãi.
Ngồi ra liên quan đến luận văn cịn có: Trong các văn kiện của
Đảng ta nhƣ Nghị quyết Trung Ƣơng 8 (khóa VI) ra nghị quyết 8B (ngày
27/3/1990) quán triệt tƣ tƣởng “lấy dân làm gốc”, đổi mới công tác quần
chúng của Đảng, tăng cƣờng mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, nhấn
mạnh quan điểm: cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân, “Nghị
quyết Trung Ƣơng 3 (khóa 7), Đại hội VIII (1996), Đại hội IX (2001), Đại
X (2006) của Đảng, đại hội XI (2011) nhiều bài nói và viết của các đồng
chí lãnh đạo Đảng, Nhà nƣớc và các đoàn thể nhân dân (Nguyễn Văn Linh,
4


Đỗ Mƣời, ...) nói về vai trị của dân, về mối quan hệ giữa Đảng và dân, và
về bài học “lấy dân làm gốc” trong sự nghiệp cách mạng và trong cơng
cuộc đổi mới ngày nay.
Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu trên đã nhìn nhận đầy đủ và khách
quan về tƣ tƣởng thân dân của Việt Nam trong lịch sử. Tuy nhiên, mỗi cơng
trình nghiên cứu có cách tiếp cận khác nhau, phạm vi khác nhau. Nội dung
mà đề tài luận văn đề cập đến cho đến nay chƣa có cơng trình nào trình bày và
phân tích có hệ thống tƣ tƣởng thân dân của Nguyễn Trãi và ý nghĩa của nó
đối với cơng cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
Trên cơ sở kế thừa những thành tựu khoa học từ những cơng trình đã
nghiên cứu, từ góc tiếp cận triết học, luận văn cố gắng phân tích một cách có

hệ thống tƣ tƣởng thân dân của Nguyễn Trãi và ý nghĩa của nó đối với cơng
cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích của luận văn: Làm rõ nội dung tƣ tƣởng thân dân của nguyễn
Trãi và ý nghĩa của nó đối với cơng cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
- Nhiệm vụ của luận văn:
+ Phân tích tiền đề hình thành và phát triển tƣ tƣởng thân dân trong lịch
sử Việt Nam trƣớc thế kỷ XV
+ Phân tích và làm rõ nội dung tƣ tƣởng thân dân của Nguyễn Trãi
+ Từ những nội dung tƣ tƣởng thân dân của Nguyễn Trãi thấy đƣợc ý
nghĩa của nó đối với cơng cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Tƣ tƣởng thân dân
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung khai thác tƣ tƣởng thân dân
của Nguyễn Trãi và ý nghĩa của nó đối với cơng cuộc đổi mới ở Việt Nam
hiện nay.

5


5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận: Quan điểm duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin,
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò
của quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử
- Phương pháp nghiên cứu: sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu nhƣ:
lịch sử - logic, phân tích, tổng hợp, so sánh...
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn khái qt, phân tích có hệ thống tƣ tƣởng thân dân của Nguyễn
Trãi; thấy đƣợc ý nghĩa của nó đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện
nay; đồng thời nhìn nhận, đánh giá những tƣ tƣởng đó dƣới góc độ của chủ

nghĩa duy vật lịch sử.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Những phân tích, luận giải của luận văn nhằm sáng tỏ
giá trị tƣ tƣởng thân dân trong lịch sử dân tộc nói chung và tƣ tƣởng thân dân
của Nguyễn Trãi nói riêng nhằm phát huy những giá trị của nó trong sự
nghiệp lãnh đạo của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
- Ý nghĩa thực tiễn của luận văn: Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham
khảo cho những ai quan tâm đến tƣ tƣởng thân dân của Nguyễn Trãi. Bên
cạnh đó luận văn cịn giúp cho đội ngũ cán bộ Đảng viên thấm nhuần tƣ tƣởng
thân dân để từ đó phát huy vai trị của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp
đổi mới.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 2 chƣơng với 6 tiết

6


Chƣơng 1.
CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƢ TƢỞNG
THÂN DÂN CỦA NGUYỄN TRÃI
1.1.Điều kiện kinh tế - xã hội cho sự tồn tại và phát triển tƣ tƣởng thân
dân của Nguyễn Trãi
Nhà nƣớc Phong kiến Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV có những
phát triển đạt tới trình độ khá cao và có những bƣớc tiến dài trong công cuộc
xây dựng đất nƣớc và thịnh vƣợng trên nhiều mặt.
Về kinh tế, Nhà nƣớc phong kiến lúc này đặc biệt quan tâm đến sản
xuất nông nghiệp. Sức lao động của nông dân trên đồng ruộng, sức kéo trong
nơng nghiệp là trâu bị đã đƣợc nhà nƣớc phong kiến bảo vệ. Chủ trƣơng khẩn
hoang, xây dựng và quản lý các cơng trình thủy lợi để ngăn chặn lũ lụt của
nhà nƣớc phong kiến đã đƣợc tầng lớp nhân dân hƣởng ứng. Nhiều đoạn đê

quan trọng ở lƣu vực sông Hồng và lƣu vực sông lớn ở Bắc Bộ và Bắc trung
Bộ đã đƣợc đắp và thƣờng xuyên tu bổ trong thời kỳ Lý – Trần.
Nông nghiệp phát triển đã tạo điều kiện cho việc đẩy mạnh sản xuất thủ
công nghiệp. Cho nên ngành thủ công nghiệp dù không đƣợc nhà nƣớc Phong
kiến coi trọng bằng nông nghiệp, nhƣng cũng có bƣớc tiến bộ lớn trong thời
Lý – Trần. Lúc này ở nƣớc ta, các nghề dệt lụa, nung gạch ngói, làm đồ gốm,
luyện kim, đúc chng và mỹ nghệ đều phát đạt. Hàng thủ công thời kỳ ấy đạt
chất lƣợng cao. Gấm vóc có thể dùng để may lễ phục cho vua quan. Đồ gốm
vừa phong phú về loại hình, vừa đẹp, vừa tinh xảo. Sự xuất hiện một số làng
thủ cơng và sự phân chia thành khóm phƣờng của thị dân ở Thăng Long càng
chứng tỏ trình độ phát triển của thủ cơng ta hồi đó. Trên cơ sở những sản
phẩm nông nghiệp và thủ công nghiệp dồi dào nhƣ vậy, việc trao đổi hàng
hóa ở trong nƣớc và việc bn bán với nƣớc ngồi cũng đƣợc đẩy mạnh.
7


Quang cảnh buôn bán nhôn nhịp ở Thăng Long, ở các thị trấn và ở cảnh Vân
Đồn bấy giờ cho ta thấy điều đó.
Tƣơng ứng với sự phát triển của sản xuất và trao đổi, các đƣờng giao
thống thủy bộ, các hệ thống trạm dịch trong thời Lý – Trần cũng đƣợc mở
mang thêm. Từ Thăng Long tỏa đi các nơi có cả một hệ thống đƣờng thủy bộ
nhất là trên các đƣờng sơng và ven biển đã có nhiều thuyền lớn đi lại tấp nập.
Có thể nói nền kinh tế của nƣớc Đại Việt đã phát triển với một sinh lực
dồi dào và đạt tới trình độ khá cao trong khuôn khổ một chế độ sở hữu phong
kiến đặc thù lúc bấy giờ.
Từ thời Đinh cho đến giữa thời Trần, chế độ sở hữu nhà nƣớc về
ruộng đất chiếm ƣu thế trong xã hội. Đại bộ phận ruộng đất trong nƣớc lúc ấy
là công điền, công thổ của làng xã. Nhƣng ruộng đất này lại thuộc quyền sở
hữu tối cao của nhà vua. Nhà vua lấy công điền, công thổ của làng xã phong
cấp cho quý tộc quan lại. Bên cạnh ruộng cơng của làng xã cịn có ruộng quốc

khố của triều đình, điền trang, thái ấp của quý tộc và ruộng của nhà chùa.
Ngoài ra lúc này, chế độ tƣ hữu về ruộng đất cũng đã xuất hiện và có xu thế
ngày càng tăng lên vào cuối thời Trần. Đó là ruộng đất của tiểu nơng và địa
chủ. Phần đất phong cấp vĩnh viễn cho quan liêu quý tộc cũng trở thành ruộng
đất tƣ hữu.
Thích hợp với quan hệ kinh tế nói trên, các thời Đinh, Tiền Lê, Lý,
Trần cũng có một kết cấu giai cấp tƣơng ứng.
Giai cấp phong kiến thống trị trƣớc hết là tầng lớp quý tộc và quan liêu
mà đại biểu là nhà vua nắm giữa mọi quyền hành ở triều đình và trong xã hội.
Tiếp đó là giai cấp địa chủ, lúc đầu số lƣợng cịn ít nhƣng về sau tăng lên dần.
Tăng lữ là tầng lớp xã hội đáng kể và có một lực lƣợng đông đảo từ cuối thời
Bắc thuộc đến đầu thời Trần. Nhƣng chỉ có những quý tộc đi tu và tầng lớp
trên trong nhà chùa mới thực sự gia nhập vào hàng ngũ giai cấp phong kiến.
Nhà nƣớc phong kiến đã sử dụng tăng lữ này với tầng lớp nho sĩ mới xuất
8


hiện đẻ duy trì sự ổn định xã hội và củng cố quyền lực của triều đình. Cịn
đơng đảo quần chúng nhân dân bị thống trị thì gồm có ngƣời nông dân ở lành
xã lĩnh canh công điền công thổ hoặc ruộng của địa chủ. Bên cạnh đó là nơng
nơ và nô tỳ trong các điền trang và các gia đình q tộc. Ngồi ra cũng phải
kể đến thợ thủ công và lái buôn nữa.
Tất cả những giai cấp và đẳng cấp ấy đều đứng trƣớc hai nhiệm vụ dựng
nƣớc và giữ nƣớc lúc đƣơng thời. Cả hai nhiệm vụ này trƣớc hết là nhiệm vụ giữ
nƣớc đã động viên tinh thần chiến đấu ngoan cƣờng của các giai cấp và các tầng
lớp nhân dân trong những cuộc chiến tranh giữ nƣớc ở các thế kỷ X, XI, XIII.
Quân và dân ta đã thực hiện nhiệm vụ cứu nƣớc bằng những chiến cơng hiển
hách về mặt qn sự. Chính nhiệm vụ cứu nƣớc đã làm cho các giai cấp đối
kháng trong nƣớc phải xích lại gần nhau để chiến đấu chống kẻ thù chung. Do
đó mà mâu thuẫn giữa giai cấp phong kiến thống trị và nhân dân ta trong thời kỳ

này chƣa diễn ra một cách quyết liệt và sâu sắc bằng các thế kỷ sau. Những mâu
thuẫn đó vẫn âm ỷ và cuối cùng phát triển thành cuộc khởi nghĩa của nông dân
vào cuối thế kỷ XIV mà tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của Ngô Bệ và Trần Tề.
Cùng với những bƣớc phát triển về kinh tế và chính trị, từ thế kỷ X trở
đi trong điều kiện của một quốc gia phong kiến độc lập tự chủ, nền văn hóa
tinh thần của nƣớc Đại Việt cũng phát triển mạnh. Nhất là khi vƣơng triều Lý
đƣợc xác lập thì sự phát triển ấy đã đạt đƣợc những thành tựu rực rỡ. Mấy thế
kỷ sau sự phát triển ấy vẫn tiếp tục, đặc biệt vào thời Trần sau khi nhân dân ta
đã ba lần chiến thắng quân xâm lƣợc Ngun Mơng.
Ngƣời ta có thể dễ dàng nhìn thấy sự phát triển văn hóa ngay từ cơng
việc giáo dục và thi cử. Sự xuất hiện ở thời Lý một nền giáo dục Nho học có
tính chất thế tục do nhà nƣớc phong kiến quản lý khác hẳn với nền giáo dục
của nhà chùa, thì điều đó có một ý nghĩa to lớn đối với sinh hoạt văn hóa và
tƣ tƣởng của Đại Việt. Vì nó khơng những tác động trực tiếp vào sự hình
thành đội ngũ tri thức dân tộc và sự tuyển lựa nhân viên cho bộ máy quan
liêu, mà còn ảnh hƣởng đến thế giới quan và những quy phạm chính trị và đạo
9


đức của con ngƣời. Hơn nữa nó cịn dẫn đến những biến đổi trong phong cách
tƣ duy, trong sáng tác văn học nghệ thuật và sáng tạo khoa học.
Trên lĩnh vực văn học, ở thời Lý nhiều áng thơ văn đã xuất hiện. Bên cạnh
những bài thơ và văn bia xoay quanh các chủ đề của đạo Phật là những áng văn
chính luận nổi tiếng phản ánh cơng cuộc dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc.
trong đó tiêu biểu nhất là bài Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn. Bƣớc sang thời
Trần hoạt động văn học sôi nổi hơn nữa. Lúc này lực lƣợng sáng tác ngoài các
nhà sƣ cịn có q tộc và nho sĩ. Do đó, chủ đề của thơ văn thời Trần không
những xoay quanh những vấn đề của đạo Phật, mà còn xoay quanh những vấn
đề của đạo Nho và nhất là của đời sống hiện thực. Nhƣng nổi bật hơn cả vẫn là
những áng thơ văn thể hiện chủ nghĩa yêu nƣớc và chủ nghĩa anh hùng của nhân

dân ta trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Không những thế văn
học thời Trần cịn có sự phong phú về thể loại. Điều đáng lƣu ý là đến thời Trần
chữ Nôm đƣợc vận dụng rộng rãi trong văn học. Điều đó chứng tỏ nền văn hóa
tƣ tƣởng có tính chất độc lập của dân tộc ta đã phát triển tới mức vận dụng tiếng
nói và ngơn ngữ dân tộc thì mới có thể vƣơn lên một cách mạnh mẽ.
Chế độ phong kiến Việt Nam trong thời Lý – Trần đã tiến đến một thời
kỳ thịnh trị. Nhƣng đến cuối thế kỉ XIV sang đầu thế kỉ XV đã có những biến
động mạnh mẽ tác động rất lớn đến vận mệnh dân tộc. Trong khoảng thời
gian 30 năm, từ năm 1390 đến năm 1428 đã có tới ba triều đại thay thế nhau
đó là nhà Trần - Hồ - Lê Sơ, cùng với đó là những cuộc kháng chiến trƣờng kì
của dân tộc chống lại quân xâm lƣợc và nhiều cuộc khởi nghĩa của nhân dân
chống lại triều đình. Bƣớc vào nửa cuối thế kỉ XIV tình hình kinh tế - xã hội
Đại Việt rơi vào tình trạng khủng hoảng. Chế độ điền trang, thái ấp mang
nặng tính chất khép kín, ngày càng đè nặng lên các tầng lớp lao động trong xã
hội và kìm hãm sự phát triển của sản xuất. Sự mục nát của nhà Trần đã làm
cho mâu thuẫn giữa quý tộc và nơ tì, nơng nơ vốn đã âm ỷ nay càng thêm sâu
sắc. Nhân dân ngày càng bị bần cùng hóa và bị phá sản trên quy mơ lớn. Năm
10


1400 Hồ Quý Ly truất ngôi vua Trần tự xƣng Hoàng đế, đổi quốc hiệu Đại
ngu, lập ra triều Hồ (1400 – 1407).
Tình hình kinh tế - chính trị thế kỷ XV, tức cuối đời Trần chế độ điền
trang và chế độ nô tỳ khủng hoảng dữ dội và cản trở nghiêm trọng sức sản
xuất của xã hội. Trong lúc nền kinh tế đại điền trang của quý tộc lung lay
muốn đổ thì nền kinh tế của địa chủ bình dân với chế độ mua bán ruộng đất
thịnh hành ở thời Lý và thời Trần càng ngày càng phát triển. Nền kinh tế địa
chủ bình dân cũng nằm trong phạm trù nền kinh tế phong kiến nhƣ nền kinh
tế đại điền trang quý tộc. Nhƣng so với nền kinh tế đại điền trang quý tộc thì
nền kinh tế của địa chủ bình dân tiến bộ hơn. Trong khi nơ tỳ - nơng nơ ở các

đại điền trang bị bóc lột vơ hạn độ thì ngƣời nơng dân lĩnh canh ruộng đất của
địa chủ đƣợc tƣơng đối tự do hơn do đó họ có hứng thú sản xuất hơn. Sự phát
triển của nền kinh tế của địa chủ bình dân đe dọa sự tồn tại của chế độ đại
điền trang và chế độ nơ tỳ. Sự tình trên dẫn đến mâu thuẫn giữa địa chủ bình
dân với quý tộc, mâu thuẫn giữa nô tỳ và quý tộc ở một chừng mực nhất định,
lợi ích của nơ tỳ nhất trí với lợi ích của địa chủ bình dân. Tầng lớp địa chủ
bình dân có đại biểu đắc lực của họ ở phƣơng diện chính trị và văn hóa là lớp
nho sĩ xuất thân từ bình dân. Lớp nho sĩ này yêu cầu bãi bỏ các đặc quyền đặc
lợi của quý tộc. Sự khủng hoảng của chế độ đại điền trang và chế độ nô tỳ là
nguyên nhân chủ yếu đẻ ra phong trào khởi nghĩa của nô tỳ rất phổ biến cuối
đời Trần. Tình hình sản xuất cuối đời Trần tỏ ra nền kinh tế địa chủ khơng
những khơng có khả năng làm cho sản xuất nơng nghiệp phát triển mà cịn có
thể tạo điều kiện cho sản xuất nơng nghiệp và thủ công nghiệp cũng không
phát triển nữa. Sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và thủ công nghiệp phát
triển lại là tiền đề cho thƣơng nghiệp phát triển.
Nhƣ vậy, sự thủ tiêu chế độ điền trang và chế độ nô tỳ là điều kiện tiên
quyết để cho xã hội Việt Nam hồi cuối thế kỷ XIV và đầu thế kỷ bƣớc sang
một giai đoạn lịch sử tiến bộ hơn. Nói khác đi, xã hội Việt Nam cuối thế kỷ
11


XIV đầu thế kỷ XV cần có những cuộc cải cách lớn thì mới ổn định và phát
triển đƣợc. Tuy nhiên, cải cách là ảnh hƣởng đến quyền lợi của quý tộc nên
họ sợ cải cách và phản đối cải cách. Với thái độ bảo thủ của quý tộc cuối cùng
cũng đã nổ ra các cuộc khởi nghĩa của nô tỳ và nông dân. Hồ Quý Ly đã nhận
thức đƣợc nguyên nhân sâu xa của tình trạng khủng hoảng của xã hội Đại
Việt cuối thế kỷ XIV nên sau khi nắm quyền, đã mạnh dạn tiến hành một loạt
cải cách nhằm giải quyết tình trạng khủng hoảng cuối thế kỷ XIV và phục hồi,
củng cố quốc gia quân chủ trung ƣơng tập quyền đang lâm nguy.
Trong những cải cách Hồ Q Ly chính sách hạn điền và chính sách hạn

nơ là đáng để ý. Theo chính sách hạn điền thì chỉ có đại vƣơng và trƣởng
cơng chúa thì ruộng đất khơng bị hạn đinh, cịn thứ dân khơng đƣợc có quá
mƣời mẫu ruộng. Ngƣời nào ruộng quá hạn đinh thì phải nộp vào quan, ngƣời
nào phạm tội đƣợc phép đem ruộng chuộc tội. Chính sách hạn điền của Hồ
Quý Ly nhằm đánh vào q tộc, lãnh chúa. Chính sách đó có lợi cho nhà
nƣớc phong kiến, làm cho Nhà nƣớc có thêm nhiều ruộng đất để có thể làm
những việc cơng ích nhƣ việc y tế, giáo dục. Nhƣng chính sách đó vẫn dành
cho bọn đại quý tộc – đại vƣơng và trƣởng công chúa – nhiều đặc quyền, đặc
lợi trong việc chiếm hữu ruộng đất. Mặt khác, chính sách hạn điền lại làm cho
kinh tế địa chủ khó phát triển. Vì vậy, chính sách hạn điền, mặc dù có lợi cho
xã hội, nhƣng không đƣợc tầng lớp địa chủ là lực lƣợng mới hoan nghênh.
Năm 1401 Hồ Quý Ly thi hành chính sách hạn nơ. Những ngƣời đƣợc phép
dùng gia nơ, cứ theo cấp bậc của mình mà dùng nhiều hay ít, số gia nơ thừa phải
đem sung cơng. Những gia nô bị sung công biến thành quan nô, quan nơ có thể
đem dùng vào việc khai khẩn đất hoang cho Nhà nƣớc hay dùng vào việc sản
xuất nông nghiệp. Quan nơ cũng có thể đem dùng vào việc xây thành qch, làm
đƣờng sá... chính sách hạn nơ có lợi cho sản xuất xã hội trong một hạn độ nhất
định, vì nó có tác dụng giảm bớt số ngƣời thốt ly sản xuất, giữ nơng dân ở lại
đồng ruộng để sản xuất. Chính sách hạn nơ chỉ biến tƣ nô thành quan nô mà
12


khơng giải phóng hẳn nơ tỳ. Vì vậy, nơ tỳ cũng khơng hoan nghênh chính sách
hạn nơ. Do đó, các cải cách của ơng khơng có hiệu quả lâu dài
Những cải cách của Hồ Q Ly có mặt tích cực, tiến bộ nhƣng chƣa đáp
ứng đầy đủ nhu cầu phát triển của xã hội. Dƣới triều nhà Hồ, xã hội Đại Việt
có những bƣớc tiến nhất định, nhƣng cuộc khủng hoảng kinh tế điền trang
thái ấp và chế độ nông nô, nô tỳ vẫn chƣa đƣợc giải quyết Nhà Hồ đứng trƣớc
những thử thách cực kỳ nghiêm trọng.
Chính quyền nhà Hồ mới thành lập chƣa đƣợc củng cố, thiếu cơ sở xã

hội vững chắc, mâu thuẫn xã hội từ cuối đời nhà Trần vẫn khơng đƣợc hịa
hỗn. Âm mƣu xâm lƣợc của nhà Minh ngày càng trở thành hiện thực.
Lợi dụng khủng hoảng xã hội và sự chống đối của quý tộc Trần và triều
đại Hồ Quý Ly, cuối năm 1406, nhà Minh tiến hành cuộc chiến tranh xâm
lƣợc Đại Việt. Chỉ trong vòng một thời gian ngắn cuộc kháng chiến của nhà
Hồ chống quân Minh, đã bị thất bại. Nhà Hồ sụp đổ, quân Minh đặt ách thống
trị lên đất nƣớc ta, chúng thi hành nhiều chính sách dã man, tàn độc, chúng
muốn thực hiện dã tâm đồng hóa nƣớc ta, xóa bỏ vĩnh viễn đất nƣớc ta. Sau
bốn thế kỷ độc lập, tự chủ, với thất bại của nhà Hồ, dân tộc ta rơi vào ảnh nô
lệ lầm than. Chúng làm tàn lụi tận gốc rễ tất cả nguồn sống, những giá trị về
vật chất, tinh thần, những giá trị văn hóa, biến nƣớc ta thành quận huyện
thuộc ngoại vi Trung Quốc.
Cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lƣợc của nhà Hồ thất bại không
phải do nhân dân ta khơng có lịng u nƣớc và khơng có tinh thần đánh giặc
mà do nhà Hồ khơng có đủ uy tín, khơng có đủ khả năng thu hút nhân dân
tham gia cuộc kháng chiến đó. Chính Hồ Ngun Trừng – con trai Hồ Quý
Ly, ngƣời lãnh đạo quân đội của nhà Hồ cũng nhận ra rằng thất bại là khó có
thể tránh khỏi nếu nhân dân khơng ủng hộ trong cuộc kháng chiến này và đã
nói với Hồ quý Ly rằng: “Thần khơng sợ đánh giặc, chỉ sợ lịng dân không
theo mà thôi”. Song cũng phải thật khách quan mà nhận định rằng, không thể
13


đổ mọi tội lỗi lên nhà Hồ mà kết quả này là do hậu quả của những năm trƣớc
để lại. Cuộc khủng hoảng cuối đời Trần đã làm suy yếu lực lƣợng tự vệ của
triều đình và nhân dân, đồng thời làm tăng thêm mâu thuẫn vốn đã rất sâu sắc
giữa nhân dân và giai cấp thống trị. Chính cuộc cải cách của nhà Hồ cũng đã
làm cho mâu thuẫn giữa nhân dân và triều đình ngày càng sâu sắc.
Nhà Hồ sụp đổ, nhà Minh tiến hành chính sách cai trị đối với nƣớc ta.
Trong hai mƣơi năm đô hộ nƣớc ta, nhà Minh đã thực hiện những chính sách

hết sức dã man và tàn bạo, âm mƣu đồng hóa nƣớc ta, biến nƣớc ta thành một
bộ phận của Trung Quốc. Nhà Minh thi hành nhiều chính sách nhằm vơ vét
của cải tài nguyên nƣớc ta để đem về làm giàu cho Bắc quốc. Chúng tìm mọi
cách để hủy diệt nền văn hóa của Đại Việt nhƣ: đốt sách, trừ những bản kinh
sách về Phật giáo và Đạo giáo, bắt những thợ thủ công lành nghề, những nghệ
nhân nổi tiếng của ta về Bắc quốc để phục vụ cho triều đình nhà Minh, chúng
đặt ra hàng trăm thứ thuế vơ lý, bắt nhân dân ta đi phu dịch...Tội ác của giặc
Minh đã đƣợc Nguyễn Trãi vạch ra: “Nƣớng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
vùi con đỏ dƣới hầm tai vạ”
Trƣớc những chính sách đơ hộ rất thâm hiểm của nhà Minh, vận mệnh
dân tộc ta đứng trƣớc nguy cơ bị tiêu diệt, quyền lợi của mọi giai cấp, tầng
lớp đều bị tƣớc đoạt. Lịch sử đặt vận mệnh dân tộc ta trƣớc hồn cảnh khơng
có sự lựa chọn nào khác ngoài con đƣờng đứng lên đấu tranh để giành lại độc
lập tự do. Và nhân dân ta với truyền thống yêu nƣớc và tinh thần đánh giặc
ngoại xâm đã đứng lên chống giặc Minh ngay sau khi cuộc kháng chiến của
nhà Hồ thất bại. Hàng loạt các phong trào đấu tranh của nhân dân đã nổ ra ở
khắp nơi trong cả nƣớc:
Giữa năm 1407, nhân dân huyện Đông Lan và Trà Thanh - phủ Diễn
Châu (Nghệ An) nổi dậy phá nhà ngục, giết bọn quan lại.

14


Cuộc khởi nghĩa do Trần Ngỗi và Trần Quý Khoáng lãnh đạo đã thu hút
hàng vạn nhân dân tham gia và đã buộc nhà Minh phải dùng đến quân đội để
đàn áp.
Giữa năm 1410 có cuộc khởi nghĩa Đồng Mặc ở Thanh Hóa, khởi nghĩa
của Lê Nhị ở Thanh Oai, Lê Khang ở Thanh Đàm, Phạm Tn ở Đơng Kết
(Khối Châu, Hƣng Yên)....
Ở miền núi, phong trào đấu tranh chống quân Minh phát triển mạnh. Đó

là phong trào do các thủ lĩnh Ông Lão, Chu Sƣ Nhạn, Bùi Quý Thăng...cầm
đầu ở Thái Nguyên, Nông Văn Lịch ở Lạng Sơn....
Những cuộc đấu tranh của nhân dân ta bị thất bại là do phong trào thiếu
tính tổ chức, mang tính tự phát, phần nhiều là chƣa thu hút đông đảo nhân dân
tham gia. Duy chỉ có cuộc khởi nghĩa của Trần Ngỗi và Trần Q Khống là
đã tập hợp đƣợc khá đơng nhân dân tham gia nhƣng bản thân hai nhà lãnh đạo
mất đồn kết với nhau nên phong trào khơng thế lan rộng ra phạm vi cả nƣớc.
Phong trào này thất bại cũng chứng tỏ một điều là vai trò và vị trí của nhà
Trần đã khơng cịn thích hợp với một thời đại mới của dân tộc. Các cuộc đấu
tranh của nhân dân ta thời kỳ này đều không giành đƣợc thắng lợi nhƣng nó
buộc nhà Minh phải lo lắng tới chính sách cai trị của chúng.
Mặc dù thất bại trong đấu tranh và kẻ thù bị đàn áp dã man nhƣng lịng
u nƣớc và ý chí căm thù giặc của nhân dân ta vẫn ln nóng bỏng trong
lịng mỗi con dân Đại Việt. Chính vì vậy khi Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa kêu
gọi nhân dân nổi dậy giết giặc thì Lam Sơn trở thành nơi tụ nghĩa của anh
hùng hào kiệt bốn phƣơng, của những ngƣời yêu nƣớc từ khắp nơi tìm về
mƣu đồ sự nghiệp cứu nƣớc. Đó là những ngƣời dân của các bản làng xung
quanh Lam Sơn và các châu, huyện vùng Thanh Hóa, bao gồm cả miền xuôi
và miền núi, dân tộc đa số và dân tộc thiểu số. Đó là những ngƣời con ƣu tú
của dân tộc từ nhiều nơi xa xôi, vƣợt mọi trở ngại tìm đến tụ nghĩa...Tất cả
những ngƣời yêu nƣớc ấy khác nhau về thành phần xã hội và dân tộc, về quê
15


quán và cuộc sống, nhƣng cùng mối thù không đội trời chung với quân giặc
và cùng một lý tƣởng quyết tâm đánh giặc cứu nƣớc.
Nghĩa quân Lam Sơn bƣớc vào cuộc chiến đấu với một lực lƣợng hết sức
chênh lệch so với kẻ thù, có 2000 ngƣời trong đó lực lƣợng lịng cốt chỉ có
700 qn lúc đó nhƣ Nguyễn Trãi nói: cơm ăn chẳng no hai bữa, áo mặc
chẳng phân đơng hè, qn khi chỉ độ vài nghìn, khí giới thì thật tay khơng

(Thƣ gửi Vƣơng Thơng). Có những lúc vị minh chủ của nghĩa quân Lam Sơn
phải hy sinh cả con ngựa chiến đấu đã vào sinh ra tử với mình để lấy thịt ni
qn, phải ăn rau, ăn quả rừng, khó khăn khơng biết để đâu cho hết. Nhƣng
với đạo qn chính nghĩa ấy, khơng có hiểm nguy nào có thể làm cho họ lo sợ
bởi bằng đằng sau họ là nhân dân Đại Việt đang ngày đêm mong ngóng và
khao khát độc lập, sẵn sàng hy sinh và hiến dâng cho nghĩa quân. Nghĩa quân
đi đến đâu cũng đƣợc nhân dân khắp nơi hƣởng ứng và chào đón. Chính vì
vậy mà nghĩa qn từ một ngọn lửa nhỏ ở vùng núi Thanh Hóa phong trào đã
phát triển và lan rộng ra khắp nơi; từ chỗ phải cố thủ trên núi để bảo toàn lực
lƣợng mỏng manh của mình, từ chỗ phải nhún mình chịu hịa với quân giặc để
chờ thời cơ, cuộc khởi nghĩa đã giành thế chủ động tấn công vào cuộc khởi
nghĩa từ vùng núi Thanh Hóa đã lan rộng ra cả nƣớc và trở thành cuộc kháng
chiến của toàn dân tộc chống quân xâm lƣợc nhà Minh. Những chiến thắng
vang dội lòng ngƣời, những thành công nối tiếp thành công với đỉnh cao là tốt
Động - Chúc Động, chi Lăng – Xƣơng Giang đã làm cho mộng bá chủ thiên
hạ và tham vọng biến Đại Việt của chúng ta thành quận Giao chỉ của vua
quan nhà Minh tan thành mây khói.
Đất nƣớc của ngƣời Nam lại đƣợc trả về nguyên vẹn cho ngƣời Nam.
Sau 10 năm (1418 – 1428) “nếm mật nằm gai” “trằn trọc” đắn đo, từ cuộc
khởi nghĩa đã trở thành cuộc kháng chiến của toàn dân đem lại cho đất nƣớc
hịa bình và độc lập. Khúc khải hồn ca đánh dấu một trang sử mới của dân

16


tộc và là bằng chứng cho sức mạnh của lòng yêu nƣớc, của chính nghĩa, của
cuộc chiến tranh nhân dân.
Sau bao nhiêu năm dựng nƣớc và giữ nƣớc với những thành tự lẫy lừng
của các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, dân tộc ta lại một lần nữa bị phong kiến
Trung Quốc xâm lƣợc và thống trị. Quan quân nhà Minh đã giày xéo đất nƣớc

ta và gây nên ở đây muôn vàn tội ác. Chúng đã biến nƣớc ta thành quận,
huyện của trung Quốc, đặt quan lại của chúng ở khắp mọi nơi, bắt nhân dân ta
phải lao động vô cùng cực khổ để phục vụ chúng. Chúng vơ vét vàng bạc,
thóc lúa, bị, ngựa cùng mọi tài sản của nhân dân ta. Kể cả sách vở và những
sản vật văn hóa lâu đời. Hàng vạn trí thức và thợ giỏi đã bị bắt và đƣa về nƣớc
chúng. Chúng cƣỡng bức nhân dân ta bỏ hết phong tục cổ truyền, bắt cắt tóc,
mặc quần áo theo kiểu Trung Quốc, ra sức đồng hóa nhân dân ta, hịng xóa
hết mọi dấu vết của dân tộc ta trên mảnh đất này. Trƣớc nguy cơ diệt vong
ghê gớm ấy, dân tộc ta chỉ có một con đƣờng là kiên quyết chiến đấu. Suốt
nhiều năm trời, trên mảnh đất này, khơng có một nơi nào mà nhân dân ta đã
không nổi dậy. Hàng trăm cuộc khởi nghĩa, hàng ngàn cuộc chống trả đã liên
tiếp diễn ra, nơi này bị dập tắt, nơi khác lại bùng lên. Để duy trì sự thống trị
của chúng, giặc đã phải liên tiếp tăng thêm viện binh từ Trung quốc, hết chục
vạn ngƣời này đến chục vạn ngƣời khác. Mặc dù đánh cho địch thiệt hại rất
nhiều, các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta rút cục vẫn khơng thành cơng. Đó
là vì thiếu một phong trào quần chúng có tổ chức, thiếu những sách lƣợc đúng
đắn, thiếu những lãnh tụ tài năng. Trong tình hình bế tắc ấy, phong trào Lam
Sơn do vị anh hùng kiệt xuất là Lê Lợi lãnh đạo, đã tập hợp đƣợc đông đảo
nhân dân từ khắp mọi nơi, vƣợt qua đƣợc khó khăn để đi tới thắng lợi cuối
cùng. Đi với phong trào Lam Sơn, Nguyễn Trãi con ngƣời văn võ song tồn,
có đủ nhân trí dũng đã đem hết tài năng và trí lực dâng hiến cho sự nghiệp
cứu nƣớc, cứu dân.

17


Nhƣ vậy, tình hình xã hội Việt Nam dƣới chế độ chiếm đóng của qn
Minh địi hỏi phải có một lực lƣợng xã hội mới tiến bộ đứng lên lãnh đạo
nhân dân tiến hành cuộc đấu tranh nhằm giải phóng dân tộc và sau khi làm
xong nhiệm vụ giải phóng dân tộc, thủ tiêu chế độ đại điền trang và chế độ nô

tỳ. Chỉ nhƣ thế, xã hội Việt Nam mới có điều kiện để ổn định và phát triển.
Lực lƣợng xã hội mới tiến bộ nói đây là tầng lớp địa chủ bình dân đã xuất
hiện từ cuối thời Bắc thuộc và trở nên đông đảo cuối thời Trần. Lê Lợi là một
nhà địa chủ bình dân, cho nên Lê Lợi có đủ điều kiện tập hợp đƣợc lực lƣợng
dân tộc để đƣa cuộc kháng chiến chống quân Minh đến thắng lợi. Nguyễn
Trãi là nho sĩ đại diện cho bình dân. Ơng đã trải qua cuộc đời nghèo khó, ông
đã cảm thông sâu sắc các nguyện vọng của nhân dân. Do đó ơng đã đề ra
những chủ trƣơng, chính sách hợp với nguyện vọng của nhân dân, lãnh đạo
đƣợc nhân dân và đƣa cuộc khởi nghĩa đến thắng lợi. Lê Lợi và Nguyễn Trãi
là linh hồn của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, nhƣng so với Lê Lợi thì Nguyễn
Trãi tiến bộ hơn, Nguyễn Trãi không xuất thân từ địa chủ bình dân, ơng chỉ là
đại diện của địa chủ bình dân, do đó ơng tiếp thu đƣợc nhiều đức tính ƣu tú
của nhân dân và hiểu rõ nguyện vọng và lực lƣợng của nhân dân. Những đức
tính ƣu tú tiếp thu đƣợc của nhân dân kết hợp với phần tích cực của Nho giáo
mà Nguyễn Trãi lĩnh hội đƣợc, làm cho Nguyễn Trãi có những tƣ tƣởng thân
dân, tƣ tƣởng trọng dân, tƣ tƣởng nhân nghĩa rất độc đáo và phong phú trong
thời đại ông trƣởng thành và hoạt động.
1.2.Tiền đề lý luận cho sự ra đời và phát triển tƣ tƣởng thân dân của
Nguyễn Trãi
1.2.1. Khái niệm “dân” và “tư tưởng thân dân”
Dân là một khái niệm rất cơ bản trong lịch sử tƣ tƣởng chính trị - xã
hội. Khái niệm này đã xuất hiện từ xa xƣa, đƣợc sử dụng rất phổ biến trong
các di sản văn thơ của ông cha ta, trong văn học dân gian qua các thời kỳ lịch
18


sử. Nó cịn đƣợc dùng thƣờng xun trong ngơn ngữ đời thƣờng, trong báo
chí và cả trong các văn kiện chính thức của Đảng, Nhà nƣớc ta hiện nay. Tuy
nhiên để làm rõ đƣợc một khái niệm, nhất là một khái niệm có nội hàm rộng
nhƣ khái niệm “Dân” là không hề đơn giản. Trƣớc tiên tác giả sử dụng cuốn

từ điển Triết học và từ điển Tiếng việt để thống nhất định nghĩa về “dân”.
Trong cuốn từ điển tiếng Việt (do Lê Văn Tân chủ biên. Nxb. Khoa học xã
hội, 1967) có trình bày cả hai khái niệm “Dân” và “nhân dân”. Hai khái niệm
này về cơ bản là giống nhau. Tuy vậy, chúng không đồng nhất tuyệt đối và
không thể thay thế cho nhau trong mọi trƣờng hợp. Ví dụ: khơng thể thay thế
cụm từ “vấn đề dân” bằng “vấn đề dân cày”. Vì vậy cần tìm hiểu cả hai khái
niệm đó.
Về khái niệm “nhân dân”, qua những định nghĩa của tác giả từ điển có
thể rút ra mấy điểm chung về khái niệm “nhân dân” với ý nghĩa khoa học chặt
chẽ nhƣ sau:
- Nhân dân là một khái niệm có ý nghĩa chính trị, hình thành trong xã
hội đã phân chia thành giai cấp, thành các tập đồn ngƣời có địa vị và lợi ích
khác nhau.
- Nhân dân khơng đồng nhất hồn tồn với dân cƣ, nhân dân là khối
ngƣời đông đảo trong dân cƣ chứ không phải toàn bộ dân cƣ.
- Nhân dân gồm những ngƣời thuộc giai cấp và tầng lớp lao động
khơng bóc lột, trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội, có khả năng
tham gia giải quyết nhiệm vụ phát triển xã hội.
Còn về khái niệm “Dân”, cách nêu của mỗi cuốn từ điển lại có sự khác
nhau. Trong cuốn từ điển tiếng Việt (do Lê Văn Tân chủ biên – 1976) có nêu
khái niệm dân với năm nghĩa nhƣ sau:
+ Từ dùng để gọi chung ngƣời trong một nƣớc: nhƣ Dân Việt Nam;
+ Quần chúng đông đảo gồm có: cơng nhân, nơng dân, nhân dân lao
động trong một nƣớc có bóc lột;
19


+ Quần chúng đơng đảo nói chung;
+ Cơng dân trong một địa phƣơng nhƣ: Dân Hà Nội;
+ Những ngƣời thuộc một tầng lớp xã hội.

Trong từ điển tiếng Việt (do Hoàng Phê chủ biên – 1994) nêu khái
niệm dân với ba nghĩa:
+ Ngƣời sống trong một khu vực địa lý hành chính, trong quan hệ với
khu vực ấy.
+ Ngƣời dân thuộc tầng lớp đông đảo nhất, trong quan hệ với bộ phận
cầm quyền, bộ phận lãnh đạo hoặc quân đội.
+ Ngƣời cùng nghề nghiệp, hoàn cảnh...làm thành một lớp ngƣời riêng.
Nhìn chung, trong các cuốn từ điển tiếng Việt, nghĩa cơ bản của khái
niệm “Dân” và “nhân dân” là giống nhau, nhiều trƣờng hợp có nghĩa đồng
nhất, có thể sử dụng thay thế cho nhau. Điều đó phù hợp với thực tế trong
khẩu ngữ và cả ngôn ngữ văn bản tiếng Việt.
Từ việc phân tích các mối quan hệ, các bình diện, các khía cạnh khác
nhau về Dân, ta có thể khái quát: “Dân là một khái niệm xuất hiện và tồn tại
trong xã hội có giai cấp, có nhà nƣớc, dùng để chỉ những ngƣời lao động bình
thƣờng, đơng đảo, khơng có chức quyền và tƣơng phản với những ngƣời cầm
quyền cai trị ở các địa bàn lãnh thổ, các nghề nghiệp khác nhau trong lĩnh vực
sản xuất vật chất và hoạt động tinh thần của một xã hội nhất định”. Do đó,
khái niệm “Dân” mang màu sắc và ý nghĩa chính trị khá rõ rệt, phần nào phản
ánh đƣợc các mối quan hệ xã hội. Trong xã hội phong kiến, tuy khơng cịn bị
xem là những cơng cụ lao động biết nói nhƣng dân vẫn nằm trong địa vị phụ
thuộc mà chế độ phong kiến Trung Quốc gọi là “thần dân”. Thần, nghĩa đen
là bề tôi, là tầng lớp quan lại phải chịu khuất phục, chịu sự chi phối của nhà
vua và dĩ nhiên, theo trật tự xã hội, thần dân phải xếp dƣới tầng lớp quan lại.
Điều này không phải ở phƣơng Đông mà dƣới chế độ phong kiến ở các nƣớc
phƣơng Tây, tình hình này cũng diễn ra tƣơng tự. Nhƣ vậy, dân với tƣ cách là
20


thần dân là những ngƣời thuộc sở hữu của vua. Chỉ trong xã hội hiện đại: xã
hội Tƣ bản và xã hội Xã hội chủ nghĩa vai trò của ngƣời dân mới đƣợc nhận

thức đầy đủ. Ngƣời dân đƣợc đặt trong quan hệ về mặt quyền lợi và nghĩa vụ
với nhà nƣớc. Ngƣời dân có quyền bầu cử, bầu ra những ngƣời xứng đáng
vào bộ máy nhà nƣớc, có thể đại diện cho quyền lợi của mình thì khi đó dân
mới có tƣ cách là cơng dân.
Từ định nghĩa về “dân” nhƣ trên, chúng ta đi vào tìm hiểu tƣ tƣởng
thân dân. Tƣ tƣởng thân dân là một trong những tƣ tƣởng lớn và quan trọng
của lịch sử tƣ tƣởng chính trị Trung Quốc và Việt Nam, đƣợc hình thành và
phát triển xuyên suốt chiều dài lịch sử nƣớc ta. “Thân dân” có nghĩa là gần
gũi, gắn bó, quý trọng nhân dân. Nhà nƣớc lấy dân làm gốc, phải biết tin
tƣởng vào dân, dựa vào dân để xây dựng phát triển đất nƣớc và phải biết quan
tâm đến đời sống nhân dân, chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân thì nƣớc có
đƣơc sự tin tƣởng và ủng hộ của nhân dân.
Nhƣ vậy, “thân dân” có nghĩa là hiểu dân, nghe đƣợc dân nói, nói đƣợc
dân nghe, làm đƣợc cho dân tin, là nhận biết đƣợc những nhu cầu, tình cảm,
suy nghĩ, mong muốn của ngƣời dân. Và ngƣời lãnh đạo, quản lý phải biết
phát hiện và đáp ứng kịp thời những nhu cầu và lợi ích thiết thực của dân; là
nhìn thấy cả cái thực tại và vạch ra đƣợc viễn cảnh (tƣơng lai) đúng đắn cho
dân phát triển; là biết chia sẻ, đồng cảm và gần gũi với cuộc sống của dân,
mọi suy nghĩ và hành động đều xuất phát từ nhu cầu và lợi ích của dân, phản
ánh đúng tâm tƣ, tình cảm, nguyện vọng của dân
1.2.2. Tư tưởng thân dân trong Nho giáo và Phật giáo trước thế kỷ XV ở
Việt Nam
Tư tưởng thân dân trong Nho giáo
Nho giáo là một học thuyết chính trị - xã hội đƣợc du nhập vào nƣớc ta
cách đây gần hai ngàn năm. Đây là một học thuyết do Khổng Tử (Khổng
Khâu: 551 – 479 tr CN), một nhà tƣ tƣởng lớn thời cổ đại của Trung Hoa sáng
21



×