Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

(Luận văn thạc sĩ) nhân sinh quan phật giáo và sự biến đổi của nó trong đời sống văn hóa tinh thần người việt luận văn ths châu á học 60 31 50

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (570.46 KB, 81 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

TRẦN THỊ HỌA MY

NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO VÀ SỰ
BIẾN ĐỔI CỦA NÓ TRONG ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA TINH THẦN NGƢỜI VIỆT

LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành: Châu Á học

Hà Nội - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

TRẦN THỊ HỌA MY

NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO VÀ SỰ BIẾN ĐỔI
CỦA NÓ TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH
THẦN NGƢỜI VIỆT

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Châu Á học
Mã số: 603150

Người hướng dẫn: PGS.TS NGUYỄN TƢƠNG LAI


Hà Nội – 2013


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 5
1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài ....................................................................... 5
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................... 6
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................... 8
4. phương pháp nghiên cứu. ........................................................................... 8
5. Cấu trúc của luận văn ................................................................................. 9
CHƢƠNG I: NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO VÀ ẢNH HƢỞNG CỦA
NĨ ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HỐ TINH THẦN NGƢỜI VIỆT .............. 10
1.1. Nhân sinh quan Phật giáo ...................................................................... 10
1.1.1. Vị trí nhân sinh quan trong tư tưởng triết học Phật giáo. ................... 10
1.1.2. Nội dung nhân sinh quan Phật giáo .................................................... 13
1.2. Ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống Văn hoá tinh thần của
người Việt. ................................................................................................... 24
1.2.1. Quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo vào Việt Nam. ............ 24
1.2.2. Ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến một số lĩnh vực trong đời
sống văn hoá tinh thần của người Việt. ........................................................ 28
1.2.2.1. Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức. .................. 28
1.2.2.2 Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến lối sống .................... 31
1.2.2.3 Ảnh hưởng Phật giáo đến chùa Việt ................................................. 33
CHƢƠNG II: SỰ BIẾN ĐỔI CỦA ẢNH HƢỞNG NHÂN SINH QUAN
PHẬT GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................................................. 39
2.1 Những nhân tố tác động đến sự biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan
Phật giáo ...................................................................................................... 39
2.1.1 Nhân tố kinh tế .................................................................................... 39



2.1.2 Sự giao lưu văn hóa với các nước trên thế giới .................................... 42
2.1.3 Những hiện tượng lợi dụng tôn giáo để chống phá đường lối chính sách
của Đảng và Nhà nước. ................................................................................ 44
2.2 Sự biến đổi ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống văn hóa
tinh thần người Việt. .................................................................................... 47
2.2.1 Thực trạng ........................................................................................... 47
2.2.2 Xu hướng biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo .............. 52
2.2.2. Một số thành tựu Phật giáo đã đạt được trong công cuộc đổi mới hiện nay. . 56
CHƢƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM PHÁT HUY ẢNH
HƢỞNG TÍCH CỰC, HẠN CHẾ ẢNH HƢỞNG TIÊU CỰC CỦA
NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ........................................................... 61
3.1 Quan điểm đổi mới của Đảng và Nhà nước về tơn giáo và chính sách tôn giáo ... 61
3.2 Đảm bảo việc phát triển kinh tế thị trường, xây dựng mơi trường văn hóa
lành mạnh theo định hướng xã hội chủ nghĩa. .............................................. 63
3.3 Phát huy vai trị tích cực của các tổ chức Phật giáo trong đời sống kinh tế xã hội. .......................................................................................................... 64
3.4 Đấu tranh chống những hiện tượng lợi dụng Phật giáo để chống phá nhà
nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. ................................................................. 68
3.5 Một số đề xuất nhằm hạn chế những tiêu cực trong hoạt động tín ngưỡng
Phật giáo. ..................................................................................................... 69
KẾT LUẬN ................................................................................................. 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 79


MỞ ĐẦU
1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài
1.1 Lý do chọn đề tài
Phật giáo xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI TCN ở Bắc Ấn Độ và người
sáng lập là Phật Thích Ca Mâu Ni. Trải qua hơn 2500 năm, Phật giáo được
truyền bá từ Đông sang Tây và lan rộng trên toàn thế giới. Những giáo lý
mang nặng tính triết lý nhân sinh, đạo đức của Phật giáo đã có ảnh hưởng sâu

rộng đến phong tục, tập quán, văn hóa, văn minh của nhiều dân tộc, trong đó
có Việt Nam.
Có thể nói nhân sinh quan và thế giới quan là những nhân tố cấu thành tư
tưởng triết học Phật giáo. Đặc biệt nhân sinh quan Phật giáo luôn đóng vai trị
to lớn trong việc góp phần hình thành nhân cách, đạo đức cao đẹp của con
người. Từ khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo ln có một vị trí quan trọng
và ảnh hưởng sâu rộng tới đời sống xã hội người Việt. Đạo Phật chính là một
trong những nhân tố quan trọng góp phần hình thành nên khối đại đoàn kết
toàn dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp của dân tộc để có thể vượt qua mn
vàn khó khăn thử thách, đưa đất nước ngày càng phát triển tươi đẹp hơn.
Cùng với những bước thăng trầm của lịch sử, đặc biệt, từ khi công cuộc đổi
mới chuyển từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, thì ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo cũng có
những biến đổi nhằm thích ứng với sự thay đổi của xã hội.
Vậy xu hướng biết đổi ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới sẽ như thế nào? Những mặt tích cực và hạn chế
nào của nhân sinh quan Phật giáo mà chúng ta cần nhìn nhận? Trên cơ sở đó
có những giải pháp gì nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực và hạn chế
những ảnh hưởng tiêu cực? Đó là những điều tôi luôn luôn suy nghĩ. Bởi vậy


tôi quyết định chọn đề tài “Nhân sinh quan Phật giáo và sự biến đổi của nó
trong đời sống văn hóa tinh thần ngƣời Việt” làm đề tài luận văn thạc sĩ
của mình.
1.2 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
a) Ý nghĩa khoa học:
Đề tài góp phần vào việc tìm hiểu sự biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh
quan Phật giáo, thấy được những đóng góp của Phật giáo trong quá trình đổi
mới ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó bước đầu nêu lên một số giải pháp
nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của

nhân sinh quan Phật giáo trong quá trình đổi mới.
b) Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy tôn giáo ở các trường Đại học, Cao đẳng.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Có thể nói, Phật giáo là một đề tài đã được rất nhiều tác giả Việt Nam
nghiên cứu với nhiều cơng trình tiêu biểu như:
Tác giả Nguyễn Lang với “Việt Nam Phật giáo sử luận”, Nxb Văn học,
Hà Nội, 1994 đã phần nào làm sáng tỏ nguồn gốc nguyên thủy từ Ấn Độ của
Phật giáo Việt Nam: “Các tu sĩ đi theo thuyền buôn Ấn Độ là những người
đầu tiên truyền đạo Phật vào nước ta với tín ngưỡng đơn sơ như thờ Phật, đốt
trầm, tụng kinh, chữa bệnh, trừ tà và bày phép cúng dường, bố thí cho dân
bản địa cùng truyền pháp Tam quy Ngũ giới cho cư dân ở đây chứ chưa có sự
truyền giảng kinh điển”
Trong “Từ điển Phật học Việt Nam” của tác giả Minh Châu và Minh Chi,
Nxb Hà Nội, 1991 có đề cập đến sự du nhập và được bản địa hóa của Phật


giáo khi vào Việt Nam: “Tiếng Bụt phổ biến hơn trong văn học dân gian và là
dấu hiệu chứng tỏ đạo Phật truyền vào nước ta sớm lắm.”
Thậm chí ngay trong các tài liệu thông sử và các tài liệu văn hóa cũng
nghiên cứu và đề cập rất nhiều đến đề tài Phật giáo như: “Chùa Việt” của tác
giả Trần Lâm Biền, Nxb Văn hóa thơng tin, Hà Nội, 1996; “Đại Việt sử ký
toàn thư – Tập 2” do Nxb Khoa học Xã hội xuất bản năm 1993.
Tác Phẩm “Lịch sử Phật giáo Việt Nam” do PGS Nguyễn Tài Thư chủ
biên, Viện triết học, Hà Nội, 1991 có ghi: “sử liệu Phật giáo Miến Điện chép
rằng hai vị cao tăng đó (Uttara và Sona) đã đến Miến Điện truyền giáo
nhưng sử liệu phật giáo tại Thái Lan cũng ghi là hai cao tăng Uttara và Sona
có đến Thái Lan truyền giáo. Có học giả dựa vào một tài liệu Trung Hoa nói
rằng ở Giao Châu tại thành Nê Lê, có bảo tháp của vua Asoka, và học giả đó

xác định thành Nê Lê chính là Đồ Sơn hiện nay (cách Hải Phịng 12 km)
Và nhiều cơng trình nghiên cứu về Phât giáo khác như: Tơn giáo tín
ngưỡng hiện nay, mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp thiết, Trung tâm thơng
tin tư liệu – Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1996; Văn hóa Phật
giáo và lối sống của người Việt ở Hà Nội và châu thổ Bắc Bộ của Nguyễn Thị
Bảy, Nxb Văn hóa thơng tin 1997; Phật giáo với văn hóa Việt Nam của
Nguyễn Đăng Duy, Nxb Hà Nội, 1999; Tư tưởng Phật giáo Việt Nam của
Nguyễn Duy Hinh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1999; Đại cương triết học
Phật giáo Việt Nam, tập 1 của Nguyễn Hùng Hậu, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, 2002 v.v…
Những cơng trình nghiên cứu nói trên, ở các mức độ và khía cạnh khác
nhau đã thể hiện được tư tưởng triết học Phật giáo và ảnh hưởng của nó đối
với xã hội Việt Nam. Tuy nhiên việc làm sáng tỏ sự biến đổi ảnh hưởng của
Phật giáo nói chung và nhân sinh quan Phật giáo nói riêng đối với đời sống


tinh thần của con người Việt Nam dưới tác động mạnh mẽ của công cuộc đổi
mới ở nước ta hiện nay thì cịn chưa nhiều. Vì vậy luận văn có nhiệm vụ là:
trên cơ sở tiếp thu những kết quả nghiên cứu đi trước để khảo sát đánh giá sự
biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo trong quá trình đổi mới ở
Việt Nam hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
a) Đối tượng nghiên cứu: Nhân sinh quan Phật giáo và ảnh hưởng của
nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống tinh thần người Việt.
b) Phạm vi nghiên cứu: Tập trung làm sáng tỏ sự biến đổi của ảnh hưởng
nhân sinh quan Phật giáo trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay và
những giải pháp nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu
cực của nhân sinh quan Phật giáo
4. phƣơng pháp nghiên cứu.
a) Cơ sở lý luận

Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về tôn giáo, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về tơn giáo
nói chung và Phật giáo nói riêng.
b) Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện các nhiệm vụ và mục đích của luận văn, tác giả đã sử dụng
nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau để có thể thu thập, xử lý tài liệu
một cách hiệu quả nhất như phương pháp lịch sử vấn đề, phương pháp phân
tích, tổng hợp, so sánh để thấy rõ sự biến đổi của nhân sinh quan phật giáo
trong giai đoạn hiện nay.


5. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Nhân sinh quan Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống
văn hố tinh thần người Việt.
Chương 2: Sự biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo ở Việt
Nam hiện nay
Chương 3: Những giải pháp cơ bản nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực,
hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo.


CHƢƠNG I: NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO VÀ ẢNH HƢỞNG CỦA
NĨ ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HỐ TINH THẦN NGƢỜI VIỆT
1.1. Nhân sinh quan Phật giáo
1.1.1. Vị trí nhân sinh quan trong tư tưởng triết học Phật giáo.
Về bản chất, tôn giáo khơng chỉ là hình thái ý thức xã hội mà còn là một
thực thể xã hội. Với tư cách là hình thái ý thức xã hội, tơn giáo phản ánh một
cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan. Điều này được Ph.Angghen
nêu: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào trong đầu

óc của con người – của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng
ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang
hình thức những lực lượng siêu trần thế” [16, tr.37]
Điều này có nghĩa là con người sáng tạo ra tôn giáo chứ không phải tôn
giáo sáng tạo ra con người. Song tôn giáo lại ảnh hưởng đến đời sống của con
người trên nhiều lĩnh vực khác nhau.
Phật giáo – một trong mười tôn giáo lớn trên thế giới, ra đời hơn 2500
năm nay và được truyền bá tới nhiều nước trên thế giới như: Xrilanca, Xiry,
Ai Cập, Mianma, Thái Lan, Trung Quốc, Việt Nam, một phần Anh, Pháp,
Đức…và nhanh chóng trở thành tơn giáo mang tính thế giới. Trong quá trình
du nhập trải qua các thời kỳ lịch sử, Phật giáo lại phụ thuộc vào tình hình kinh
tế, xã hội của mỗi quốc gia mà biến đổi ít nhiều. Có thể nói sự ảnh hưởng của
Phật giáo vào xã hội loài người đã diễn ra rất sớm và nhanh chóng. Ngày nay,
Phật giáo đang chiếm vị trí sâu rộng trong đời sống tinh thần của con người ở
nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam.
Phật giáo xuất hiện ở Ấn Độ vào khoảng thế kỷ VI TCN. Người sáng lập
Phật giáo là Thái tử Tất Đạt Đa, con vua Tịnh Phạn, trị vì một xứ nhỏ ở trung
lưu sông Hằng là Ca tỳ la vệ (nước Nêpan hiện nay). Cuộc sống giàu sang nơi


cung đình đã tạo cho ơng một lối sống ngăn cách với xã hội bên ngồi: ơng
chỉ biết có học hành, lễ bái, yến tiệc và giải trí. Vì vậy ông không hay biết
những gì cực nhọc, đen tối, bất hạnh đang diễn ra ở ngoài xã hội. Sau 4 lần
trực tiếp đi ra ngoài thành và tận mắt chứng kiến nỗi khổ của các chúng sinh,
ơng khởi lịng xót thương chúng sinh vô hạn và đã quyết noi theo gương các
đạo sĩ quyết tâm đi tìm đường cứu khổ cho chúng sinh. Năm 19 tuổi ơng một
mình bỏ nhà ra đi để trở thành một ẩn tu. Sau 11 năm học đạo và tu khổ hạnh
ông chợt nhận thấy rằng, lối tu đó cũng khơng giải thốt con người khỏi nỗi
đau sinh, lão, bệnh, tử. Theo ông, tu khổ hạnh hay chủ trương khoái lạc cũng
đều là những cực đoan phi lý như nhau. Bằng sự kiên trì và nhạy cảm của trí

tuệ, sau 49 ngày đêm ngồi thiền định dưới gốc cây Bồ đề, với những suy tư
sâu thẳm, ông đã giác ngộ được chân lý. Lúc này Tất Đạt Đa đã chỉ ra rằng
chúng sinh đang chìm đắm trong bể khổ, hơn thế nữa ơng cịn lý giải được
nguồn gốc nỗi khổ của chúng sinh cũng như tìm ra được phương pháp giải
thốt diệt khổ. Từ đó ông được gọi là Thích Ca Mâu Ni – tức người đã giác
ngộ chân lý đầu tiên. Là một tôn giáo, Phật giáo ra đời nhằm xoa dịu nỗi khổ
của con người trong xã hội có sự phân chia đẳng cấp khắc nghiệt của xã hội
Ấn Độ cổ đại.
Sinh thời, Đức Phật không viết sách mà chỉ thuyết giảng cho các học trị
của mình bằng lời nói. Sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, các đệ tử đã tập hợp,
phát triển tư tưởng của Người để xây dựng một học thuyết tơn giáo hồn
chỉnh được đúc kết thành ba Tạng (Tam Tạng), đó là: Tạng Kinh, Tạng Luật,
Tạng Luận. Về sau Phật giáo chia thành Tiểu thừa và Đại thừa với nhiều tông
phái khác nhau, du nhập và phát triển ra nhiều nước khác trên thế giới. Dù đã
trải qua lịch sử thăng trầm hơn 2500 năm, với nhiều cách nhìn nhận và đánh
giá khác nhau, nhưng Phật giáo, mà trước hết là triết lý nhân sinh của nó giàu


lòng vị tha, thương người, gần gũi với con người và mang nặng tính nhân sinh
hơn các tơn giáo khác.
Giáo lý Phật giáo bao gồm hệ thống quan niệm về nhận thức luận, thế
giới quan, nhân sinh quan với một kết cấu chặt chẽ. Nhân sinh quan Phật giáo
được bắt nguồn từ thế giới quan. Tuy nhiên mục đích chủ yếu của Phật giáo là
cứu khổ cứu nạn, giải phóng con người cho nên nó mang giá trị nhân sinh sâu
sắc.
Nếu như triết học phương Tây chú trọng nghiên cứu thế giới, tìm hiểu
giới tự nhiên, xây dựng nên các học thuyết, các cặp phạm trù, v.v…thì triết
học phương Đơng (Trong đó có triết học Phật giáo) lại nghiêng về việc
nghiên cứu, tìm hiểu những vấn đề chính trị, xã hội, đạo đức, tôn giáo, đặc
biệt là vấn đề con người hơn là việc tìm hiểu giới tự nhiên. Triết học phương

Đông nghiên cứu thế giới để làm sáng tỏ con người. Mục đích nhận thức thế
giới của triết học đều nhằm phục vụ cho đời sống của con người và xã hội.
Cũng như nhiều trào lưu tư tưởng triết học phương Đông, Phật giáo đề cao và
nhấn mạnh vấn đề nhân sinh. Điều này góp phần lý giải vì sao mặt vũ trụ
quan, thế giới quan của Phật giáo, nhất là Phật giáo nguyên thủy hơi mờ nhạt
trong khi nội dung nhân sinh quan lại khá rõ ràng và mang tính nổi trội. Mục
đích cuối cùng của Phật giáo là giải thốt con người khỏi nỗi khổ trần thế
thơng qua con đường tu tập về mặt tâm linh. Do đó, Phật giáo hầu như khơng
đề cập và khơng có chủ trương giải quyết những vấn đề có tính chất siêu hình.
Khi các đệ tử hỏi Đức Phật về vấn đề siêu hình trừu tượng như vũ trụ có vĩnh
hằng khơng? Nó vơ hạn hay hữu hạn? Linh hồn và thể xác là một hay khác
nhau? Như Lai sau khi chết có tồn tại hay khơng?...thì Người im lặng vì mục
đích chủ yếu là cứu khổ cho con người. Điều đó khơng có nghĩa rằng Đức
Phật khơng biết những điều trên đây mà thực ra Đức Phật chỉ chú tâm thuyết
giảng những điều để chúng sinh biết được con đường đi đến giải thoát theo


căn cơ của chúng sinh thời bấy giờ. Khi thuyết giảng tại một khu rừng Người
đã cầm một nắm lá giơ lên nói: Những điều mà Như Lai nói nhiều như nắm lá
trong bàn tay này, những điều mà Như Lai biết nhiều như lá trong khu rừng
này.
Như vậy, đối tượng nghiên cứu chủ yếu của Phật giáo là con người, là
giá trị nhân sinh. Phật giáo ra đời là tiếng nói phủ nhận uy thế của kinh Vêđa
và đạo Bà la môn, tố cáo chế độ phân biệt đẳng cấp khắt khe của xã hội Ấn
Độ, đòi tự do tư tưởng và bình đẳng xã hội, xóa bỏ nỗi khổ trong đời sống của
người dân Ấn Độ. Đức Phật tun bố: khơng có đẳng cấp trong dịng máu
cùng đỏ, khơng có đẳng cấp trong giọt nước mắt cùng mặn, con người sinh ra
không phải đã mang sẵn trong bào thai dây chuyền ở cổ hay dấu tin ca (dấu
hiệu q phái của dịng Bà la mơn) trên trán. Qua đó thể hiện mặt tích cực của
nhân sinh quan Phật giáo trong lĩnh vực xã hội. Có thể nói, nguyện vọng cứu

khổ của Đức Phật mang tính nhân văn sâu sắc.
1.1.2. Nội dung nhân sinh quan Phật giáo
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, nhân sinh quan Phật giáo chịu
sự qui định của tồn tại xã hội và tác động của các hình thái ý thức xã hội khác.
Điều này giải thích tại sao trong lịch sử tồn tại và phát triển, nhân sinh quan
Phật giáo có sự biến đổi, khơng cịn giữ ngun như ở Phật giáo nguyên thủy.
Nghiên cứu chi tiết cho thấy, các phái Phật giáo có những quan niệm khác
nhau về nhân sinh. Phật giáo Tiểu thừa coi trọng xuất gia khổ hạnh, chủ
trương “ngã không pháp hữu”, đề cao sự giải thốt chính mình. Tư tưởng chủ
yếu của Phật giáo Tiểu thừa là “tịnh độ” và “xuất thế gian”, nhấn mạnh cuộc
đời là bể khổ mà nguyên nhân là do “Thập nhị nhân dun”. Mục đích thốt
khổ là phải xuất thế gian, xa rời cuộc sống phàm tục, diệt dục mới có thể rũ
bỏ bụi trần để đạt tới cảnh giới Niết bàn. Cịn Phật giáo Đại thừa khơng q


đề cao xuất gia khổ hạnh, chủ trương “ngã pháp đều không”, tự giác ngộ và
giác ngộ người khác, mục đích tu tập trở thành Phật. Giới luật của Đại thừa
cũng có nhiều biến đổi khác với giới luật của Tiểu thừa. Nếu giới luật của
Tiểu thừa tập trung vào việc đạt quả phúc cho mình, thì giới luật của Đại thừa
lại thường hướng đến lợi ích cho người khác. Phật giáo Đại thừa về sau phát
triển và lại chia thành nhiều bộ phái khác nhau, xuất phát từ Ấn Độ và truyền
bá ra các nước xung quanh. Triết lý Phật giáo nói chung và nhân sinh quan
Phật giáo nói riêng đã biến đổi, phát triển ngày càng đa dạng, phong phú để
thích nghi với truyền thống của mỗi quốc gia, dân tộc trong những thời kỳ
lịch sử nhất định.
Nhân sinh quan Phật giáo là một hệ thống gồm các quan điểm về con
người, đời sống của con người. Phật giáo tập trung ở học thuyết cấu tạo con
người, học thuyết về sự xuất hiện và tái sinh.
Theo Phật, con người được cấu tạo từ những yếu tố thể hiện trong thuyết
Danh sắc và thuyết Lục đại.

Thuyết Danh sắc: con người được cấu tạo từ hai yếu tố vật chất và tinh
thần.
Thuyết Lục đại: con người được cấu tạo từ sáu yếu tố: Địa: nghĩa là đất,
xương thịt; Thủy: nước, máu, chất lỏng; Hỏa: lửa, nhiệt khí; Phong: gió, hơ
hấp; Không: các lỗ trống trong cơ thể; Thức: ý thức tinh thần.
Trong sáu yếu tố này thì năm yếu tố đầu thuộc về vật chất, chỉ có yếu tố
cuối cùng thuộc về tinh thần. So với thuyết Danh sắc thì thuyết Lục đại xét
cấu tạo con người nghiêng nặng về vật chất cịn thuyết kia gần như có sự cân
bằng, hài hòa về hai lĩnh vực vật chất và tinh thần..
Thuyết Ngũ uẩn: xem con người được cấu tạo từ năm yếu tố: Sắc: vật
chất bao gồm địa, thủy, hỏa, phong; Thụ: tình cảm, cảm giác con người;


Tưởng: tưởng tượng, tri giác, ký ức; Hành: ý thức, những yếu tố khiến tâm
hoạt động; Thức: ý thức theo nghĩa rộng bao gồm cả thụ, tưởng, hành.
Trong các thuyết về cấu tạo con người thì thuyết Ngũ uẩn là phổ biến
hơn cả. Như vậy, con người được tạo thành từ Ngũ uẩn nên khơng có chủ thể
hằng thường tự tại. Con người là sản vật, tự nhiên khơng có hình thái cố định
của tính vật chất nhưng vì đã ăn vật chất trên thế giới nên dần hình thành khối
vật chất thơ kệch có sự phân biệt tính cách, màu da.
Phật giáo quan niệm sự vật đều luôn vận động biến đổi, khơng có cái gì
là thường hằng bất biến. Xuất phát từ thuyết duyên khởi, Phật giáo cho rằng
thế giới hết thảy đều biến hóa, vơ ngã, vơ thường. Theo Phật giáo, có hai loại
vơ thường. Đó là sát na vô thường và tương tục vô thường. Trong đó, sát na
vơ thường chỉ sự biến hóa trong khoảng thời gian cực ngắn. Cịn tương tục vơ
thường chỉ trong một chu kỳ nối tiếp nhau đều có sinh - trụ - dị - diệt (đối với
sinh vật), hay thành - trụ - hoại - không (đối với sự vật), đối với con người là
sinh - lão - bệnh - tử.
Quan niệm của nhà Phật cho rằng con người là sự kết hợp của những yếu
tố động, cho nên là giả tạm, suy cho cùng là vô ngã. Với cách nhìn như thế,

Phật giáo cho rằng, mọi sự vật hiện tượng là giả danh, khơng có thực, con
người chỉ là giả hợp của Ngũ uẩn tùy duyên giả hợp mà thành. Đủ nhân duyên
hợp lại thì gọi là sống, hết nhân duyên tan ra thì gọi là chết. Sống, chết là giả
hợp tan của Ngũ uẩn. Thân xác con người là nguồn gốc của mọi đau khổ. Mọi
đau khổ như đói, khát, sinh, lão, bệnh, tử, nóng, giận, dâm dục v.v…đều có
gốc từ con người mà ra. Điều này cho thấy, Phật giáo nhìn nhận cuộc đời con
người là bể khổ.
Theo Phật giáo, chết chưa phải là hết mà chỉ là điều kiện để có tái sinh.
Phật giáo giải thích sự chết của con người bằng thuyết luân hồi nghiệp báo.


Khi con người hình thành thì mọi suy nghĩ, hành động được ghi lại ở một nơi
và cứ thế tích tụ thành Karma – Luật vơ hình đặc trưng của người. Khi con
người chết luật vơ hình quay lại gặp điều kiện thuận lợi tạo thành sinh linh
mới chịu quả ở kiếp trước và nhân ở kiếp sau cứ thế luân hồi. Cuộc đời con
người là một mắt xích trong chuỗi dài vơ tận, chỉ là một gợn sóng trên mặt
biển bao la. Cuộc sống của con người trên trần thế khơng thay đổi được, nó
do nghiệp cũ quy định theo luật nhân quả; mọi việc làm của con người đều là
nhân của sự kết hợp Ngũ uẩn tiếp theo. Học thuyết Phật giáo cho rằng con
người gieo nhân nào hưởng quả ấy, ở hiền gặp lành, gieo gió gặt bão. Đời này
ra sức học tập thì đời sau thơng minh sáng suốt; đời này lười biếng thì đời sau
ngu đần dốt nát; đời này sát sinh thì đời sau chết yểu; đời này phóng sinh thì
đời sau sống lâu; đời này làm khổ chúng sinh thì đời sau đau khổ; đời này có
tâm vỗ về an ủi người khác thì đời sau hạnh phúc; đời này giận dữ cáu kỉnh
thì đời sau tướng mạo xấu xí…
Có thể nói, Phật giáo quan niệm mối quan hệ nhân quả là mối quan hệ
phổ biến và chi phối tất cả. Phật giáo ngun thủy cho thế giới này khơng có
ngun nhân đầu tiên cũng như cuối cùng, thế giới không do một đấng tối cao
nào sáng tạo ra. Từ đó đi đến bác bỏ mọi quan niệm cho rằng Thượng đế hay
linh hồn là lực lượng đầu tiên sáng tạo ra muôn vật. Tuy nhiên mối liên hệ

nhân quả mà Phật giáo đề cập và nhấn mạnh thuộc lĩnh vực đạo đức, tinh
thần, tâm lý cá nhân.
Theo quan niệm của Phật giáo, xét đến cùng muôn vật trong vũ trụ là hệ
thống nhân duyên của nhau, cứ thế sinh sinh diệt diệt mãi nối tiếp nhau vô
cùng tận. Thế giới là vô thủy vơ chung, khơng có cái gì là trường tồn bất biến,
mọi cái đều biến đổi vận động không ngừng; khơng có cái gì vĩnh hằng, mọi
vật đều tn theo quy luật sinh, trụ, dị, diệt. Con người cũng thuộc về thế giới
hiện tượng. Thân xác con người được đề cập trong các thuyết Danh sắc,


thuyết Lục đại, thuyết Ngũ uẩn của Phật giáo. Theo luật nhân quả của Phật
giáo, những việc làm của con người là nguyên nhân tạo ra cái thân Ngũ uẩn
tiếp theo. Bản thân nghiệp này do kiếp trước quy định. Cứ thế con người ở
trong vòng luân hồi sinh tử khơng ngừng từ đời này sang đời khác. Điều đó ít
nhiều mang tính biện chứng. Tuy nhiên do tuyệt đối hóa sự vận động và gắn
sự vận động với tính giả tạm vô thường của sự vật cho nên Phật giáo khơng
có được quan niệm đúng đắn về sự thống nhất biện chứng giữa vận động và
đứng im tương đối, không thấy được sự vận động bao giờ cũng gắn với sự
phát triển.
Triết học Phật giáo bác bỏ Brama và Atman, nhưng lại tiếp thu tư tưởng
luân hồi Samsara và nghiệp Karma của Upanisad cho rằng, mọi vật mất đi ở
chỗ này là để sinh ra ở chỗ khác, trong quá trình biểu hiện sinh tử theo nghiệp
nhân quả luân hồi.
Để giải thoát chúng sinh khỏi nghiệp nhân quả luân hồi sinh – tử, Đức
Phật nêu ra Tứ diệu đế và Thập nhị nhân duyên. Tứ diệu đế là bốn chân lý
thánh bao gồm: Khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế.
Khổ đế
Triết lý nhân sinh Phật giáo cho rằng, bản chất cuộc đời con người là
khổ: “Đời là bể khổ, đời là cả những chuỗi bi kịch liên tiếp, bốn phương đều
là bể khổ, nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển, vị mặn của máu và nước

mắt chúng sinh mặn hơn nước biển” [12, tr.12].
Khổ đế nói lên bản chất của nhân sinh. Quan niệm nhân sinh trong triết
học Phật giáo mang tính tiêu cực yếm thế, coi đời chỉ là ảo hóa tạm bợ. Do vơ
minh, con người khơng nhận thức được điều đó, do đó cứ lặn lội mãi trong
biển sinh tử luân hồi. Cuộc đời con người đầy rẫy những nỗi khổ đau nhưng
không ai nhìn thấy tường tận và rõ ràng. Đức Phật chỉ rõ: “ Ba giới không


chút nào yên như lò lửa, nỗi khổ đầy rẫy trong đó, thật là đáng sợ” (Kinh
Pháp Hoa); “ta thấy các chúng sinh đắm chìm trong bể khổ” (Kinh Pháp Hoa,
Thọ Lượng Phẩm).
Nỗi khổ của thế gian là khôn cùng song có thể chia làm ba loại khổ hay
tám thứ khổ
Ba loại khổ (Tam khổ) là: khổ khổ, hoại khổ và hành khổ
Khổ khổ: muốn nói cái khổ chồng chất nối tiếp cái khổ. Mỗi chúng sinh
là nạn nhân của bao cái khổ. Cái khổ có ở ngay thể xác như bệnh tật hiểm
nghèo, lại có cái khổ ở bên ngoài thể xác như thiên tai, chiến tranh, v.v.. Tất
cả những cái khổ đó liên tiếp dồn dập đến với con người.
Hoại khổ: Do sự thay đổi tạo nên tuân theo luật vơ thường – khơng có cái
vĩnh hằng, bất biến. Ca dao có câu “nước chảy đá mịn”, để nói một sự vật
vững chắc, cứng rắn như đá nhưng cùng với thời gian chịu tác động của ngoại
cảnh cũng phải thay đổi rồi bị hủy diệt, tan biến. con người cũng vậy, khơng
thể nằm ngồi quy luật chung đó.
Hành khổ: những nỗi khổ về tinh thần con người, do khơng làm chủ
được mình bị lơi kéo vào những dục vọng làm cho tâm tư bị dằn vặt sinh ra
buồn vui, giận hờn, yêu ghét…
Tám thứ khổ (Bát khổ): Đức Phật tóm tắt thành tám thứ khổ trong cuộc
đời của một con người gồm: sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly, oán tăng hội, sở cầu
bất đắc, thủ ngũ uẩn khổ.
Tám thứ khổ này là sự cụ thể hóa những nỗi khổ của chúng sinh ở trần

thế. Sinh khổ: con người sinh ra đã cất tiếng khóc trào đời, trước đó cịn ở
trong bụng mẹ thì chật chội tối tăm, người mẹ mang thai con thì vất vả mệt
nhọc, kém ăn, mất ngủ, chịu bao cái khác thường so với người khác.


Trong cuộc sống hàng ngày, con người muốn tồn tại được thì phải ăn,
uống, mặc, ở, đi lại… Muốn vậy con người phải lao động hết sức vất vả, cực
khổ. Đó là về mặt vật chất, cịn những nỗi khổ về tinh thần dày vị con người
cũng khơng kém nỗi khổ về vật chất, nó làm con người suy kiệt, ốm đau. Con
người đến lúc già, tuổi cao, thân thể hao mòn, già yếu các giác quan, mắt mờ,
chân chậm, tai điếc…
Tử: đến một thời điểm nhất định con người phải chết, xa lìa trần thế để
lại nỗi xót thương vô hạn cho người thân, bạn bè. Ai cũng vậy, sợ phải xa lìa
người thân, bạn bè bởi cuộc sống có biết bao điều thú vị.
Ái biệt ly: nỗi khổ phải xa cách chia ly người mình yêu thương như vợ
chồng, cha mẹ, anh em. Nỗi khổ này bao gồm cả nỗi khổ sinh tử biệt ly. Sống
phải xa nhau đã khổ, nhưng người ở lại người đi vào thế giới khác thì đó là
nỗi khổ tuyệt vọng.
n tăng hội khổ: nỗi khổ vì phải sống cùng với người mà mình ghét,
khơng ưa. ở chung với những người như vậy giống như gai đâm vào mắt mà
khơng làm gì được.
Sở bất đắc khổ: là những nỗi khổ do con người mong muốn, ước ao mà
không được
Ngũ thụ uẩn khổ: Đạo Phật cho rằng con người khơng có thực thể tự nó
(vơ ngã) mà chỉ là sự tập hợp của năm thứ: sắc, thụ, tưởng, hành, thức. Vì chỉ
là tập hợp của năm thứ đó, nên đó cũng là một nỗi khổ.
Như vậy đối với con người, ngồi khổ đau vơ tận khơng có cái gì khác.
Tập đế
Tập đế nói lên sự tập hợp, tích chứa những nguyên nhân đưa tới cái khổ.
Đức Phật cho rằng, mọi cái khổ đều có nguyên nhân của nó (Thập nhị nhân



dun). Phật Thích ca thuyết pháp cho mơn đệ về ngun nhân sự khổ. Đó là
lịng tham sống mà ln hồi sinh tử, càng tham càng muốn, càng được lại
càng tham. Con người tham sống, tham sướng, tham mạnh v.v…Nguyên nhân
của lịng tham là vơ minh, nghĩa là khơng sáng suốt, không nhận thức được
thế giới, không thấy mọi sự vật đều là ảo giả mà cứ cho là thực, khơng nhận
thức được ngay chính bản thân mình. Cả thế giới khách quan lẫn bản thể chủ
quan đều chỉ là vơ thường vơ ngã trong dịng ln hồi trơi chảy bất tận.
Trong 12 nguyên nhân đưa ra thì Đức Phật cho rằng vô minh và ái dục là
hai nguyên nhân chủ yếu đưa đến đau khổ cho con người. Sự kết hợp giữa ái
dục và vô minh xuất phát từ nguồn gốc của ba thứ mà Phật gọi là: than, sân, si
Tham: biểu hiện sự tham lam của con người làm xúi dục con người hành
động để thỏa mãn lòng tham của mình. Lịng tham của con người khơng có
giới hạn, đây là nguyên nhân gây bao nỗi thống khổ cho con người như chém
giết, xâm hại lẫn nhau.
Sân: sự cáu gắt, bực tức, nóng giận khi con người khơng hài lịng về điều
gì đó làm cho con người khơng kiểm sốt hết hành động của mình, như thế
cũng đem lại những điều khổ đau cho con người. Sách Phật ghi rằng, một
đốm lửa giận có thể đốt hết mn mẫu rừng công đức và một niệm sân hận
nổi lên thì trăm ngàn cửa nghiệp chướng mở.
Si: sự si mê, lú lẫn làm cho con người không phân biệt điều hay dở, điều
đó gây bao tội lỗi, đau khổ cho con người.
Tiếp đến Đức Phật trình bày những nguyên nhân của 12 nỗi khổ (Thập
nhị nhân duyên).
Duyên hành: là hành động có ý thức, ở đây đã có sự dao động của tâm,
có mầm mống của nghiệp.


Duyên thức: tâm thức từ chỗ cân bằng, trong sáng đến dần dần mất cân

bằng, tùy theo nghiệp mà tâm thức tìm đến các nhân duyên để hình thành
cuộc đời khác.
Duyên danh sắc: là sự tụ hợp của các yếu tố vặt chất tinh thần. Với các
lồi hữu tình thì sự hội nhập của danh sắc sinh ra các cơ quan cảm giác, trầm
sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Duyên lục nhập: quá trình tiếp xúc với thế giới khách quan, lục căn tiếp
xúc với lục trần sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Duyên xúc: là sự tiếp xúc phối hợp giữa lục căn, lục trần và thức xúc, là
quả của lục nhập, là nguyên nhân của thụ.
Duyên thụ: là cảm giác do tiếp xúc với thế giới bên ngoài mà sinh yêu,
ghét, buồn, vui.
Duyên ái: là yêu nảy sinh dục vọng, ham muốn.
Dun thủ: có ái thì có thủ, đã u thì muốn chiếm lấy, giữ lấy cho mình.
Duyên hữu: Tiến tới xác định chủ thể chiếm hữu (cái ta), từ đây chứng tỏ
có nguyên nhân chứa đựng nguyên nhân.
Duyên sinh: đã có tạo nghiệp là nhân tất yếu sẽ sinh ra quả, là hiện hữu,
là tu sinh ra ở thế giới để làm người, hay súc sinh.
Duyên lão tử: đã có sinh tất yếu có già và có chết. Sinh – lão – bệnh – tử
là kết thúc một chu kỳ, đồng thời là nguyên nhân của một chu kỳ tiếp theo,
bắt đầu một vòng luân hồi mới. Cứ như thế tiếp diến ở trong vòng đau khổ
sinh tử.
Diệt đế


Đức Phật khẳng định, cái khổ có thể tiêu diệt được, chấm dứt được luân
hồi. Đức Phật đã giảng cho môn đệ về vấn đề này ở thành Ba Nại Na: “Này
các thầy xa môn đến đạo diệt khổ, diệt lịng tham sinh hợp với thích thú và
nhục dục, tìm thích thú ở chỗ này chỗ khác nhất là tham dục, tham sinh, tham
vô minh, diệt hết những dục vọng ấy sẽ khỏi khổ” [23, tr.28].
Vì vậy mỗi chúng sinh phải tu dưỡng thân tâm, đoạn trừ “vô minh”, để

cho Phật tính bừng sáng, nó sẽ là ngọn đèn pha dẫn bước chúng sinh đến cõi
Niết bàn. Muốn diệt trừ “vơ minh” phải có trí tuệ vì: “có trí tuệ thì hết đam
mê, ln ln tự thức tỉnh và tự dị xét, khơng để lầm lỗi có thể có được, trí
tuệ chân thật là chiếc thuyền chắc chắn nhất vượt bể sinh, lão, bệnh, tử. Là
ngọn đèn sáng nhất đối với hắc ám vô minh…là búa sắt chặt cây phiền não”
[23, tr.36-37].
Đạo đế
Sau khi chỉ ra các nỗi khổ của cuộc đời con người và các nguyên nhân
gây nên các nỗi khổ ấy. Đức Phật khẳng định có thể tiêu diệt được khổ, tiêu
diệt nỗi khổ nhân sinh bằng việc tu luyện để thoát khổ đạt đến cõi Niết bàn
tuyệt đối tịch tịnh sung sướng, an lạc và tốt đẹp nhất. Ngài đưa ra con đường
để thoát khổ, con đường đó là Bát chính đạo. Đây là con đường tương đối phổ
biến, là mơn pháp chính được đề cập tới nhiều nhất đến nỗi có người lầm
tưởng Đạo đế và Bát chính đạo là một, đồng nhất. Bát chính đạo bao gồm:
Chính kiến: là sự hiểu biết đúng đắn, nhận thức rõ về Tứ diệu đế, hiểu
đúng sự vật khách quan. Con người có chính kiến sẽ biết phân biệt đúng sai,
chi phối mọi hoạt động, tâm trí sáng suốt.
Chính tư duy: Sự suy nghĩ phán xét đúng với lẽ phải. Người tu hành theo
chính tư duy biết suy xét vơ minh là ngun nhân của khổ đau, tìm ra phương


pháp tu luyện để thốt khổ cho mình và mọi người, đó là diệt trừ vơ minh,
tam độc tham, sân, si.
Chính ngữ: Lời nói ngay thẳng, là đưa chính tư duy vào thực hành trong
lời nói cụ thể. Khơng nói dối, khơng tạo ra sự bất hịa giữa mọi người, khơng
nói lời ác dữ, khơng thừa lời vơ ích. Người tu hành trước khi nói năng phải
suy nghĩ người nghe, nói lời đồn kết dịu hiền.
Chính nghiệp: Đức Phật dạy rằng. Nếu là tà nghiệp như sát sinh, trộm
cắp, tà dâm thì phải cải tạo, cải tà quy chính, làm điều thiện tránh điều ác.
Cịn nếu là chính nghiệp, việc làm hợp với lẽ phải, có ích cho mọi người thì

phải giữ gìn. Trong chính nghiệp lại có thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp.
Thân nghiệp: không sát sinh, không trộm cắp, khơng tà dâm; Khẩu nghiệp:
khơng nói dối, khơng nói ác, khơng nói hai lưỡi, khơng nói thêu dệt; Ý
nghiệp: khơng tham dục, khơng nóng giận, khơng tà kiến.
Chính mệnh: lối sống trong sạch, lương thiện, ngay thẳng của con người;
không tham lam gian ác, ăn bám kẻ khác, không gian dối bất chính; sống chân
chính bằng nghề nghiệp chính đáng. Có thể nói đây là phong cách sinh hoạt
lành mạnh giúp cho con người ln thoải mái nhẹ nhàng.
Chính tinh tiến: Đức Phật dạy con người cố gắng làm điều thiện, tránh
điều ác, không quên lý tưởng tu đạo, luôn cảnh giác tỉnh táo trong từng việc
làm, phải chủ động tích cực trong việc tìm kiếm truyền bà chân lý nhà Phật.
Chính niệm: trong đầu con người ln có ý niệm trong sạch ngay thẳng,
ghi nhớ những đạo lý chân chính, điều hay lẽ phải ở đời, chăm lo thường
xuyên niệm Phật.
Chính định: tập trung tư tưởng ngẫm nghĩ đúng đắn.


Với việc tu tập theo Bát chính đạo mà Đức Phật đã chỉ ra, con người sẽ
thu được lợi ích thiết thực cho cả mình và xã hội. Họ sẽ tự ý thức, sửa mình từ
bỏ mọi tội lỗi, tu thân tích đức. Như thế, con người sẽ đạt đến sự hồn thiện.
Đây chính là cơ sở để tạo ra sự n bình, hạnh phúc.
Chung quy Bát chính đạo là suy nghĩ, nói năng, hành động đúng đắn.
Phật giáo khơng lấy giáo lý làm trọng mà chỉ coi đó là phương tiện để đạt
đến chân lý cuối cùng. Cái quan trọng là sự thực hành của mỗi cá nhân để đạt
đến sự giác ngộ, tu thành đạo quả chứ không phải nghe, giảng để hiểu đạo.
Phật giáo là tôn giáo rất quan tâm đến con người và cuộc đời con người, đã
chỉ ra cho chúng sinh con đường thoát khỏi khổ đau, thoát khỏi bể khổ trầm
luân để đạt đến cõi Niết bàn. Đó là con đường tu học, trau dồi trí tuệ, phá vỡ
vơ minh.
1.2. Ảnh hƣởng nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống Văn hoá tinh

thần của ngƣời Việt.
1.2.1. Quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo vào Việt Nam.
Trong các tôn giáo được du nhập vào Việt Nam thì Phật giáo được
truyền bá vào rất sớm sau Nho giáo. Ngay từ năm đầu công nguyên – thế kỷ I
người Giao Châu đã tiếp xúc với Phật giáo từ Tây Vực truyền sang – thời kỳ
này nước ta đang nằm dưới ách thống trị của nhà Hán. Các nhà nghiên cứu
đều có chung ý kiến thống nhất cho rằng, Phật giáo được truyền vào Việt
Nam bằng hai con đường: thứ nhất, từ Ấn Độ sang theo đường biển; thứ hai,
từ Trung Quốc vào bằng đường bộ. Các tài liệu nghiên cứu cho thấy , thế kỷ
thứ II cuối triều Hán Linh Đế (168 -188) xuất hiện hai vị tăng Ấn Độ sang
Việt Nam truyền đạo là Ma Ha Kỳ Vực (Mahajivaka) và Khâu Đà La
(Ksudra), hình thành trung tâm Phật giáo đầu tiên của nước ta – Trung tâm
Phật giáo Luy lâu (ngày nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh).


Trong một lần khi trả lời nhà vua Tùy Văn Đế về tình hình Phật giáo xứ Giao
Châu, nhà sư Trung Quốc Đàm Thiên (người gốc Trung Á) đã tâu rằng: “Xứ
Giao Châu có đường thơng sang Thiên Trúc. Phật giáo truyền vào Trung Hoa
chưa phổ cập đến Giang Đông mà xứ ấy đã xây ở Luy Lâu hơn 20 bảo tháp,
độ được hơn 500 vị tăng và dịch được 15 bộ kinh rồi. Thế là xứ ấy theo đạo
Phật trước ta”. Đến thời Tam Quốc, mẹ Ngô Tôn Quyền là Ngô Quốc Thái
từng cho mời các nhà sư từ Luy Lâu sang Kiến Nghiệp (thủ phủ nước Ngô)
thuyết giảng.
Cũng do Phật giáo được truyền bá trực tiếp từ Ấn Độ vào Việt Nam ngay
từ đầu công nguyên nên từ “Buddha” (Bậc Giác Ngộ) đã được phiên âm trực
tiếp từ tiếng Phạn sang tiếng Việt thành Bụt. Phật giáo Giao Châu lúc này
mang màu sắc Tiểu Thừa Nam Tông, và trong con mắt của người Việt, Bụt
được hình dung như một vị thần dân dã tồn năng có mặt ở khắp nơi, luôn
sẵn sàng xuất hiện để cứu giúp dân lành, trừng trị kẻ xấu.
Sau này, đến thế kỷ IV – V lại có thêm luồng ảnh hưởng Phật giáo Đại

Thừa Bắc Tông từ Trung Hoa tràn vào. Chẳng mấy chốc nó đã lấn át và thay
thế luồng Nam Tơng có từ trước đó. Từ “Buddha” từ tiếng Phạn nhập vào
tiếng Hán được phiên âm thành Phật đà, Phật đồ, rồi vào tiếng Việt dần rút
gọn lại còn Phật. Từ đây từ “Phật” dần thay thế hẳn cho từ “Bụt”.
Từ Trung Hoa có ba tơng phái Phật giáo được truyền vào Việt Nam:
Thiền tông, Tịnh độ tông và Mật tông. Dòng thiền thứ nhất do Tỳ Ni Đa Lưu
Chi – tổ thứ ba của phái Thiền tông Trung Quốc đã sang Việt Nam cuối thế
kỷ VI (580), tu tại chùa Pháp Vân (Bắc Ninh), trở thành vị sư tổ của phái
Thiền tơng mang tên ơng ở Việt Nam. Dịng thiền này được truyền 19 thế hệ.
Pháp Hiền là người nối pháp của Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Người cuối cùng của
dòng thiền này là Thiền sư Y Sơn. Tu theo Thiền tơng địi hỏi phải dành tồn


×