Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

(Luận văn thạc sĩ) vai trò của trung ương hội phụ nữ việt nam trong công tác phòng chống HIV AISD

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (649.85 KB, 87 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------

NƠNG THỊ NGỌC
VAI TRỊ CỦA TRUNG ƢƠNG HỘI
PHỤ NỮ VIỆT NAM TRONG CƠNG TÁC PHỊNG
CHỐNG HIV/AIDS
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH CHÍNH TRỊ HỌC

Hà Nội – 2010

1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 4
1. Lý do chọn đề tài. ............................................................................................... 4
2. Tình hình nghiên cứu. ........................................................................................ 6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. .................................................................... 8
3.1. Mục đích: .................................................................................................... 8
3.2. Nhiệm vụ: .................................................................................................... 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. ..................................................................... 8
4.1. Đối tượng nghiên cứu: ................................................................................ 7
4.2. Phạm vi nghiên cứu:.................................................................................... 9
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu. ....................................................... 9
5.2. Cơ sở lý luận: .............................................................................................. 9
5.2. Phương pháp nghiên cứu: ........................................................................... 9
6. Đóng góp của luận văn. ...................................................................................... 9
7. Kết cấu luận văn ............................................................................................... 10
Chƣơng I: CƠ SỞ LÝ LUẬN ............................................................................ 11


1.1. Xã hội dân sự: ............................................................................................... 11
1.1.1. Một số quan niệm về xã hội dân sự:....................................................... 11
1.1.2. Đặc điểm của xã hội dân sự: .................................................................. 16
1.1.3. Xã hội dân sự ở Việt Nam:...................................................................... 17
1.2. Tổ chức chính trị - xã hội: ............................................................................. 20
1.3. Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam ..................................................................... 26

2


1.3.1. Sự ra đời của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam. ........................................ 26
1.3.2. Mục đích và các đặc trưng của Hội: ....................................................... 28
1.3.3. Chức năng và nhiệm vụ .......................................................................... 29
1.3.4. Vai trò của Trung ương Hội PN Việt Nam: ............................................ 31
1.4. Vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV/AIDS)…………..………….32
1.4. Quan điểm của Đảng và nhà nước ta về cơng tác phịng, chống HIV/AIDS.
.............................................................................................................................. 33
Chƣơng 2: TỔNG QUAN VỀ HIV/AIDS Ở VIỆT NAM .............................. 38
2.1. Tình hình lây nhiễm HIV/AIDS tại Viêt Nam. ............................................. 38
2.2. Phụ nữ là đối tượng bị tổn thương do HIV/AIDS. ........................................ 39
2.3. Đóng góp của các tổ chức quần chúng ......................................................... 43
Chƣơng 3: VAI TRÒ CỦA TRUNG ƢƠNG HỘI PHỤ NỮ VIỆT NAM .... 46
3.1. Vai trò của Trung ương Hội PN Việt Nam trong cơng tác phịng chống
HIV/AIDS. ........................................................................................................... 46
3.2. Các hoạt động phòng chống HIV/AIDS của Trung ương Hội PN Việt Nam
năm 2007 - 2008................................................................................................... 47
3.2.1. Tham mưu, chỉ đạo thực hiện Chương trình phịng chống HIV/AIDS. .... 48
3.2.2. Cơng tác thông tin, giáo dục và truyền thông nâng cao nhận thức và thay
đổi hành vi............................................................................................................. 49
3.2.3. Nâng cao năng lực cho cán bộ Hội......................................................... 52

3.2.4. Phối hợp chăm sóc, hỗ trợ người có H, người bị ảnh hưởng và tư vấn xét
nghiệm tự nguyện. ................................................................................................. 55
3.2.5. Xây dựng mơ hình................................................................................... 57

3


3.3. Đánh giá vai trò của Trung ương Hội ........................................................... 60
3.3.1. Tiêu chí đánh giá:................................................................................... 60
3.3.2. Đánh giá sự đóng góp của Trung ương Hội PN Việt Nam trong hoạt động
phịng chống HIV/AIDS. ........................................................................................ 63
3.4. Những thuận lợi, khó khăn trong cơng tác phịng chống HIV/AIDS của Hội
liên hiệp PN. ......................................................................................................... 74
3.4.1 Thuận lợi:................................................................................................ 74
3.4.2. Khó khăn: ............................................................................................... 77
3.5. Kết luận và khuyến nghị: .............................................................................. 80
3.5.1. Kết luận:................................................................................................. 80
3.5.2. Khuyến nghị: .......................................................................................... 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 84

4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Cuộc chiến chống lại HIV/AIDS trên toàn cầu đã diễn ra trong suốt
hơn hai mươi năm qua nhưng các nỗ lực dự phòng lây nhiễm vẫn chưa
mang lại nhiều kết quả, đặc biệt đối với phụ nữ và trẻ em. Qua nhiều
nghiên cứu chỉ ra rằng phụ nữ và trẻ em có nguy cơ lây nhiễm HIV cao gấp
2,5 lần so với nam giới cùng trang lứa bởi một số lý do nhất định như các

nhân tố thuộc về cấu tạo thể chất lây nhiễm và những hạn chế trong các tình
huống sinh hoạt tình dục với bạn tình. Tại Việt Nam, theo thống kê về tình
hình nhiễm HIV/AIDS trong tồn quốc của Cục phòng chống HIV/AIDS
(Bộ Y tế) trong 03 tháng đầu năm 2008cho thấy:
Tổng số trường hợp nhiễm HIV/AIDS còn sống là:

123.775 người;

Tổng số bệnh nhân AIDS hiện còn sống:

26.214 người;

Tổng số người nhiễm HIV/AIDS tử vong:

38.648 người.

Trong đó tỷ lệ phụ nữ nhiễm HIV/AIDS chiếm 30% tổng số người nhiễm
HIV của cả nước đặc biệt số phụ nữ mang thai nhiễm HIV đã không ngừng gia
tăng từ 0,03% năm 1995 lên 0,39% năm 2002
Tính đến ngày 31/6/2009:
- Tổng số trường hợp nhiễm HIV/AIDS còn sống:

149.653 người

- Tổng số trường hợp AIDS còn sống:

32.400 người

- Tổng số trường hợp đã chết do AIDS:


43.265 người

Phạm vi lây nhiễm khơng chỉ tăng trong nhóm có hành vi nguy cơ cao là
tiêm chích ma t, gái mại dâm, nhóm phụ nữ đơ thị mà đã lan rộng ra cả nước.
Tình trạng nghèo đói, bất bình đẳng giới và bạo lực gia đình đối với phụ nữ cịn
diễn ra ở nhiều nơi, mặt khác, q trình đơ thị hố diễn ra nhanh chóng, tình trạng di

5


dân của nhóm phụ nữ nơng thơn ra thành thị tìm việc làm ít có cơ hội tiếp xúc thơng
tin, dịch vụ y tế cũng dẫn đến các hành vi tình dục khơng an tồn, là ngun nhân
lây nhiễm HIV/AIDS của phụ nữ. Khi số người nhiễm HIV/AIDS chuyển sang giai
đoạn AIDS sẽ làm tăng gánh nặng đối với gia đình, cộng đồng và đất nước. Khi đó,
phụ nữ với vai trị chủ yếu là sinh sản và ni dưỡng trong gia đình, phần lớn chị
em phụ nữ là người chăm sóc những bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS, đồng thời cũng
trở thành lao động chính trong gia đình do đó nếu thiếu hiểu biết họ sẽ là những
người có nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS cao.
Trước những khó khăn và nguy cơ của phụ nữ đối với HIV/AIDS, Hội Liên
hiệp phụ nữ Việt Nam - một tổ chức chính trị xã hội, đã có những nỗ lực và đóng
góp đáng kể góp phần giảm thiểu gánh nặng cho cộng đồng và hỗ trợ người phụ
nữ cải thiện cuộc sống của mình tuy nhiên nhiều người, nhiều tổ chức chưa nhìn
nhận đúng vai trò của phụ nữ cũng như Hội phụ nữ trong cơng tác phịng chống
HIV/AIDS .
Tơi chọn đề tài “Vai trị của Trung ương Hội PN Việt Nam trong cơng tác
phịng chống HIV/AIDS” nhằm tìm hiểu những đóng góp của Trung ương Hội
liên hiệp phụ nữ Việt Nam như là một bộ phận của một tổ chức chính trị - xã hội
trong cơng tác phịng chống đại dịch HIV/AIDS tại Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu.
Nhà nước có vai trị quan trọng trong việc điều tiết và giải quyết các vấn đề

xã hội nhằm đảm bảo cho xã hội vận hành một cách hiệu quả theo các mục tiêu
đã được định sẵn. Tuy nhiên trước sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của cuộc
sống, trong sự tương tác với các quốc gia và trong bối cảnh tồn cầu hố thì xã
hội ngày càng nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp vì vậy nhà nước không phải là

6


chiếc chìa khố vạn năng để có thể giải quyết mọi vấn đề mà trong đó căn bệnh
thế kỷ HIV/AIDS là một vấn nạn cho mọi quốc gia.
Ở Việt Nam, cơng tác phịng chống đại dịch HIV/AIDS trong những năm
qua đã thu hút được sự quan tâm của cộng đồng dân cư và giới chức. Trước gánh
nặng về kinh tế và những tổn thất về mặt xã hội do HIV/AIDS gây ra trong điều
kiện ngân sách nhà nước còn hạn chế, năng lực của đội ngũ các nhà chuyên môn
chưa đáp ứng được thực tế bùng nổ quá nhanh của đại dịch thì nhiều tổ chức dân
sự đã được thành lập. Các tổ chức này cùng với những tổ chức chính trị - xã hội
được ra đời trước đó đã tự huy động nguồn lực về con người, tài chính để cùng
chính phủ giải quyết các vấn đề liên quan đến HIV/AIDS. Sự ra đời ngày càng
nhiều các tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam gây sự chú ý của các nhà nghiên
cứu, tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có nghiên cứu nào xem xét sự tham gia của
các tổ chức xã hội dân sự vào công tác phịng chống HIV/AIDS nói riêng. Mới
đây Mạng thơng tin nghiên cứu HIV/AIDS thuộc dự án REACH do Cơ quan hợp
tác phát triển quốc tế của chính phủ Đan Mạch tài trợ kinh phí được thành lập, là
nơi tập hợp các thông tin về các dự án nghiên cứu HIV/AIDS song cũng không
cho thấy bất kỳ một đề tài nào nghiên cứu về vấn đề này.
Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam là một tổ chức chính trị - xã hội của phụ
nữ Việt Nam đồng thời cũng là thành viên của Uỷ ban phòng chống
HIV/AIDS quốc gia. Vai trò của Hội đã được thể hiện trong nhiều nỗ lực
nhằm giúp đỡ, hỗ trợ đối tượng phụ nữ trên toàn quốc cải thiện cuộc sống và
vươn lên bình đẳng với nam giới trong xã hội. Song nghiên cứu Hội với tư các

là tổ chức chính trị - xã hội trong cơng tác phịng chống HIV/AIDS tại Việt
Nam là một đề tài mới mẻ.

7


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Mục đích:
Đề tài hướng đến ba mục tiêu chính là:
3.1.1.Xem xét vai trò của Trung ương Hội phụ nữ Việt Nam với tư cách là
cơ quan cao nhất và là một bộ phận của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong
công tác phòng chống HIV/AIDS;
3.1.2. Đánh giá kết quả các hoạt động của Hội phụ nữ Việt Nam trong cơng
tác phịng chống HIV/AIDS với tư cách là một tổ chức chính trị - xã hội;
3.1.3. Tìm hiểu những thuận lợi, khó khăn trong hoạt động phòng chống
HIV/AIDS của Hội phụ nữ Việt Nam từ đó đưa ra các khuyến nghị nhằm tăng
cường vai trị của Hội trong cơng tác phịng chống HIV/AIDS tại Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ:
- Chỉ ra được vai trò của Trung ương Hội PN Việt Nam trong hoạt động
phòng chống HIV/AIDS;
- Đưa ra những đánh giá về các kết quả và tác động của Hội phụ nữ Việt
Nam đối với cơng tác phịng chống HIV/AIDS với tư cách là một tổ chức chính
trị - xã hội;
- Chỉ ra được những khó khăn, thuận lợi trong hoạt động phịng chống
HIV/AIDS của Hội PN VN từ đó đưa ra các khuyến nghị nhằm tăng cường vai
trị của Hội trong cơng tác phòng chống HIV/AIDS tại Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu:

8



- Các hoạt động của Trung ương Hội PN Việt Nam với tư cách là một bộ
phận của tổ chức chính trị - xã hội trong cơng tác phịng chống HIV/AIDS.
- Tài liệu sẵn có về các hoạt động của Trung ương Hội phụ nữ Việt Nam đối
với công tác phòng chống HIV/AIDS trong hai năm (2007 và 2008).
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Các hoạt động của Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam cấp Trung ương năm
2007 và 2008 trong cơng tác phịng chống HIV/AIDS tại Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu.
5.2. Cơ sở lý luận:
- Luận văn được xây dựng trên nền tảng các quan điểm, tư tưởng của các
nhà triết học Cổ đại, Trung đại, của C. Mark và Anghen, tư tưởng Hồ Chí Minh.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu, phân tích các tài liệu thứ cấp: Tổng hợp, nghiên cứu, phân
tích các nguồn tài liệu sẵn có liên quan đến đề tài trên cơ sở phương pháp luận so
sánh, lịch sử, logíc v/v.
6. Đóng góp của luận văn.
- Đóng góp một nghiên cứu xem xét khía cạnh tích cực của Trung ương
Hội phụ nữ Việt Nam với tư cách là một tổ chức chính trị - xã hội trong số các
nghiên cứu còn khá mới mẻ về vấn đề phòng chống đại dịch HIV/AIDS.
- Là tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm.

9


7. Kết cấu luận văn
Luận văn gồm 3 phần:
- Phần 1: Mở đầu
- Phần 2: Nội dung chính (với 03 chương)

+ Chương 1: Cơ sở lý luận
+ Chương 2: Tổng quan về HIV/AIDS ở Việt Nam.
+ Chương 3: Vai trò của Trung ương Hội PN Việt Nam trong cơng tác
phịng chống HIV/AIDS.
- Phần 3: Danh mục tài liệu tham khảo.

10


Chƣơng I:

CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Xã hội dân sự:
1.1.1. Một số quan niệm về xã hội dân sự:
Xã hội được hình thành trên cơ sở các mối quan hệ giữa con người với con
người một cách tự nhiên. Từ buổi đầu sơ khai, các cá nhân trong xã hội có nhu
cầu lợi ích giống nhau đã tập hợp lại thành những nhóm lợi ích. Sự cạnh tranh
giữa các nhóm lợi ích này tạo nên các xung đột trong xã hội, là một trong những
nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự ra đời của Nhà nước. Sự tồn tại của Nhà nước
nhằm khắc phục các mâu thuẫn bằng cách thiết lập một sự thoả thuận giữa tất cả
các thành viên trong xã hội thông qua hệ thống luật pháp do nhà nước đặt ra hay
theo cách nói của J. Locke thì đó là Khế ước xã hội. Như vậy, nhà nước và pháp
luật được hình thành do sự thoả thuận giữa nhân dân, khi nào sự thoả thuận ấy bị
phá vỡ thì người dân có quyền thiết lập một khế ước mới bằng nhiều cách khác
nhau, đó là quyền tự nhiên của con người. Vì một lý do nào đó nếu nhà nước bị
diệt vong hoặc thay đổi thì xã hội vẫn tồn tại và duy trì trên cơ sở các quyền tự
nhiên của nó. Sự ra đời của nhà nước, việc quản lý xã hội của nhà nước bằng
pháp luật, bằng các thể chế không thể lấy đi tất cả các quyền tự nhiên của con
người. Khi những quyền tự nhiên của con người và các quy định của nhà nước

hài hoà, đáp ứng được nhu cầu sống của các cá nhân, đảm bảo tinh thần dân chủ
và khơng có sự đối chọi giữa nhà nước và nhân dân thì có thể coi là một xã hội
lý tưởng. Bàn về vấn đề này, theo Aristotle, nhà nước tốt nhất là một chính thể
do giai cấp trung lưu nắm quyền, hài hồ các tham vọng và quyết định, hướng
tới sự cơng bằng hơn giữa người giàu và người nghèo. Một nền dân chủ bao giờ
cũng tốt hơn nền chính trị độc tài chuyên chế. Thứ nhất, các cá nhân có cơ hội

11


tham gia vào quá trình quản lý đất nước. Luật pháp là kết quả của quá trình tranh
luận giữa người dân hơn là các chun gia. Vì thơng qua tranh luận sẽ tăng khả
năng trí tuệ và sự thơng minh của xã hội và tập thể, tối ưu hoá lợi ích của tập thể.
Thứ hai, mọi người khi tuân thủ luật pháp, người ta có quyền được sống mà
khơng có sự can thiệp của nhà nước, và được bình đẳng trước pháp luật.
Socrates hai nghìn năm trước đây cho rằng con người chỉ có một cuộc sống
tốt lành trong điều kiện xung đột về mặt nhu cầu và lợi ích, khi các vấn đề của xã
hội được giải quyết qua tranh luận trước công chúng, các suy nghĩ và lập luận
khác nhau, phản biện lẫn nhau để hướng tới sự khám phá ra chân lý, cho đến khi
họ đạt được một trình độ lý luận mà khơng thể bị bác bỏ, lúc đó các mệnh đề đưa
ra làm cơ sở cho giải quyết các xung đột và phát triển xã hội hài hoà.
Như vậy, sự tồn tại của một nhà nước pháp quyền là cần thiết để đảm bảo
xã hội vận hành theo một quỹ đạo thống nhất, song nhà nước pháp quyền cũng
có hạn chế nhất định của nó. Mâu thuẫn giữa tính bắt buộc, quy chuẩn giới hạn
của pháp luật và sự phong phú, sinh động của mọi nhu cầu cá nhân cho thấy có
khi nhà nước pháp quyền trở nên chậm chạp thậm chí là quan liêu và tha hố
trong vận hành dẫn đến sự kìm hãm sự phát triển của xã hội nói chung và các cá
nhân nói riêng. Do đó cách tốt nhất để lấy lại quyền tự do tự nhiên của của con
người là tổ chức thiết chế xã hội sao cho quyền tự nhiên ấy khơng bị xâm phạm
từ phía nhà nước trong khi vẫn có sự điều tiết của nhà nước và bộ máy công

quyền. Xã hội dân sự ra đời là một trong những giải pháp cho vấn đề này.
Trên thế giới, xã hội dân sự không phải là một đề tài mới nhưng cho đến
thế kỷ 21 mới thực sự được phổ biến rộng rãi ở Việt Nam. Khi nói đến xã hội
dân sự người ta thường nghĩ ngay đến tính phi nhà nước của nó. Đó là đặc trưng
và là một trong những nhu cầu của xã hội dân sự. Thuật ngữ “Civil Society”

12


được dịch sang tiếng Việt có nghĩa là xã hội dân sự hoặc xã hội công dân được
bắt nguồn từ phương Tây. Xung quanh thuật ngữ này có nhiều khái niệm khác
nhau, thậm chí trái ngược nhau. Nội hàm của khái niệm “Xã hội dân sự” xuất
hiện sớm nhất ở nước Anh (1594), nó được hiểu là con người sống trong cộng
đồng. Trong lý thuyết của các nhà triết học Scottish (Thế kỷ XVIII), xã hội dân
sự có nghĩa là xã hội văn minh với một nhà nước không độc đoán. Các nhà triết
học vĩ đại của thời kỳ Khai sáng, như Hobbes, Locke, Rousseau, Kant đã sử
dụng khái niệm xã hội dân sự như một xã hội tự nhiên ở đó mỗi con người có
quyền tự nhiên của mình bao gồm quyền sống, tự do, và sở hữu tài sản, và họ có
quyền bảo vệ chúng.
Kể từ năm 1750 đến năm 1850, tư tưởng về xã hội dân sự có bước chuyển
biến mới phản ứng trước sự hình thành thể chế tự do của chủ nghĩa tư bản, sự
sụp đổ của chế độ phong kiến, sự xuất hiện các nhóm lợi ích và tự do hố thị
trường. Các nhà tư tưởng cho rằng xã hội dân sự là nơi bảo vệ lợi ích và quyền
tự do cá nhân chống lại các thể chế lạc hậu của nhà nước thông qua các hội tự
nguyện. Mệnh đề chủ yếu trong số các tư tưởng này là chống lại sự tập trung
quyền lực của nhà nước, bảo vệ tính đa dạng, niềm tin và giá trị hợp tác của các
cá nhân, làm nền tảng cho một xã hội dân chủ. Trong Luận về lịch sử xã hội dân
sự viết năm 1767, A. Ferguson đã nói đại ý: xã hội dân sự, với tư cách là một xã
hội văn minh của các công dân, không thể thịnh vượng được nếu như các nhu
cầu và lợi ích thuần tuý về thương mại và kinh tế lấn át đức hạnh cá nhân và

“tinh thần công” – public Spirit. Theo A.ferguson, xã hội dân sự là một lĩnh vực
văn hố đạo đức nơi mà cơng dân quyết định vận mệnh của cộng đồng chính trị
của họ, đó cũng là nơi những đức hạnh thiết yếu cho tự do được phát triển.
Quan điểm này được Montesquieu chia sẻ trong Tinh thần pháp luật viết
năm 1748. Theo Montesquieu, xã hội dân sự là lĩnh vực trung gian giữa quyền

13


lực chính trị (nhà nước) và cơng dân. Nhà nước và luật pháp ra đời không phải
chỉ để bảo vệ các lợi ích tư và tài sản của cá nhân, mà là nhằm tạo điều kiện cho
cơng dân hồn thiện và phát triển. Công bằng xã hội không phải là kết quả do sự
phát triển tự do của phát triển kinh tế (thị trường) đem lại, mà nó được thiết lập
bởi các yếu tố và yêu cầu đạo đức cũng như những mục tiêu chính trị của cả
cộng đồng trong sự phát triển lịch sử của mình. Chỉ khi cơng dân ý thức được
rằng điều kiện cho sự phát triển và hồn thiện của mình, quyền lợi của mình
được quy định bởi bối cảnh tự nhiên, văn hóa và xã hội của cộng đồng nơi họ
sinh ra thì cơng dân mới sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân (private interests) của
mình vì phúc lợi cơng của cộng đồng. Trong nhà nước cộng hịa như vậy, luật
pháp khơng phải là ý muốn tùy tiện của nhà cầm quyền, mà nó phải dựa vào tập
quán (moeurs), môi trường xã hội, tôn giáo, thương mại… cụ thể của đất nước.
Đến thế kỷ XIX, Heghen mô tả xã hội dân sự như là một phần của đời
sống đạo đức, bao gồm 3 yếu tố gia đình, nhà nước và xã hội dân sự. Xã hội dân
sự được Hêghen đặt giữa gia đình và nhà nước trong tiến trình thực thi tự do đích
thực. Nó bao gồm cả đời sống kinh tế của cộng đồng cùng với các thể chế pháp
luật và cảnh sát, liên hội để đảm bảo sự hoạt động có trật tự và ổn định. Nếu
trong gia đình các thành viên liên kết với nhau bởi tình thương yêu và sự tin cậy,
thì trong xã hội dân sự, các thành viên liên kết với nhau bởi lợi ích cá nhân. Các
lợi ích cá nhân tạo nên sự phụ thuộc của cá nhân với nhau, nhưng sự khác biệt
của các lợi ích cá nhân cũng có thể dẫn đến xung đột; vì vậy, trong đời sống xã

hội dân sự cịn có sự hiện diện của các thể chế cảnh sát và liên hội (cooporation)
như là lực lượng “thứ ba” để dàn xếp và điều hành xã hội dân sự. Ở đây, trong xã
hội dân sự, Hêghen cũng cố gắng tìm ra mức độ hợp lý giữa trao quyền tự do cho
xã hội dân sự và việc điều hành giám sát. Nếu xã hội dân sự có quá nhiều tự do

14


thì có thể dẫn đến sự bất bình đẳng, nhưng nếu các cơ quan quyền lực can thiệp
quá nhiều thì sẽ dẫn đến mất tự do và kìm hãm phát triển kinh tế.
Kế thừa quan điểm của Heghen, Karl Marx cho rằng dưới chủ nghĩa tư bản
lợi ích cá nhân sẽ bao trùm xã hội, trong một xã hội thị trường, Nhà nước chủ
yếu bảo vệ quyền lợi của giai cấp tư sản. Trong xã hội khi đó các cá nhân chủ
yếu quan tấm đến những lợi ích cá nhân mà hạn chế các lợi ích cộng đồng, chú
trọng đến sản xuất và tiêu dùng, công nhân sẽ bị các chủ sở hữu tư liệu sản xuất
đối xử như những hàng hố, là cơng cụ sản xuất mang lại giá trị thặng dư cho
mình. Các cá nhân có khuynh hướng được đánh giá dựa trên nghề nghiệp, thu
nhập và tài sản sở hữu, ít chú trọng đến giá trị truyền thống. Sự áp bức này là
không thể tránh khỏi và nó sẽ tiếp tục cho đến khi cuộc cách mạng vơ sản nổ ra,
và xã hội khơng có giai cấp và nhà nước sẽ được hình thành, ở đó xã hội dân sự
thực sự phát triển.

15


Chính trị sẽ khơng thể đi đến sự bình đẳng nếu không tạo ra một môi trường
mở để cho các lợi ích và quan điểm khác nhau bày tỏ và đại diện, đối thoại để đi
đến đồng thuận do đó xã hội dân sự là môi trường quan trọng cho các cá nhân
thực hiện các quyền, lợi ích đó.
Có nhiều quan điểm, nhiều xu hướng khác nhau về xã hội dân sự song có thể

hiểu xã hội dân sự là một lĩnh vực đời sống xã hội, bao gồm những thiết chế tập hợp
các mối quan hệ của người dân, liên kết con người với nhau một cách tự nguyện
không vì mục đích lợi nhuận và độc lập tương đối với nhà nước nhằm tạo nên một
sức mạnh mới giúp các thành viên đạt được lợi ích riêng của mình, ở một mặt nào
đó hỗ trợ nhà nước giải quyết các vấn đề nẩy sinh mà do hạn chế nhất định nên
chính quyền đã khơng thể thực hiện được triệt để.
1.1.2. Đặc điểm của xã hội dân sự:
Nhìn chung các định nghĩa phổ biến về "xã hội dân sự” hiện nay đều nhấn
mạnh tới tinh thần tự nguyện của công dân trong việc bảo vệ các quyền lợi hợp
pháp và giá trị của mình. Theo tinh thần này, xã hội dân sự được tạo thành bởi
một loạt các đoàn thể nhằm kết nối giữa những nhóm quyền lợi hiện đại (cơng
đồn và các đồn thể có tính chun nghiệp) và những tổ chức truyền thống dựa
trên mối quan hệ họ hàng, dân tộc, văn hóa và khu vực, giữa các tổ chức chính
thức và phi chính thức. Những đồn thể tự nguyện làm việc vì quyền lợi chung.
Chúng định hình thành và khuyến khích phát triển bởi các cộng đồng địa
phương. Nói một cách đơn giản, các tổ chức dân sự thể hiện nguyện vọng và nhu
cầu của người dân. Người dân tự tổ chức lại căn cứ theo các nhu cầu, nguyện
vọng hay tín ngưỡng chung và thể hiện thành các loại hình họat động. Theo đó,
xã hội dân sự có bốn đặc điểm cơ bản sau:

16


- Tự nguyện: các thành viên có thể tham gia và không tham gia vào các tổ
chức, phong trào, trong q trình đó khơng có sự ép buộc hay cưỡng bức hành
chính như các qui định pháp luật của cả nước. Nó mang tính phi chính phủ, tồn tại
độc lập tương đối với nhà nước và trên cơ sở nguyện vọng của nhân dân;
- Tự chủ, tự chịu trách nhiệm: Trong quá trình hoạt động, các tổ chức dân sự
hoạt động độc lập với nhà nước, trong khuôn khổ pháp luật, không chịu sự chi phối
và can thiệp của các tổ chức khác thậm chí là nhà nước, cho dù các tổ chức này có

nhận tiền tài trợ của nhà nước hay khơng;
- Khơng vì mục tiêu lợi nhuận: các tổ chức này có thể thu lợi nhuận nhưng
khơng chia cho các cá nhân mà đem phần lợi nhuận đó để phục vụ các mục tiêu xã
hội. Phi lợi nhuận tức là các tổ chức này không tham gia vào các hoạt động kinh
doanh lợi nhuận, khơng vì mục tiêu lợi nhuận khi nó có thể tham gia vào các hoạt
động có lợi nhuận kinh doanh nhưng lợi nhuận đó có được khơng phải để phục vụ
cá nhân;
- Nguồn tài chính đa dạng: từ nhà nước, hội phí, hoạt động kinh doanh, đóng
góp của cá nhân.
1.1.3. Xã hội dân sự ở Việt Nam:
Ở Việt Nam, xét theo quan niệm phổ biến trên thế giới thì xã hội dân sự đã
có từ xa xưa, thể hiện ở tính cộng đồng, làng xã, tình làng, nghĩa xóm, đùm bọc
lẫn nhau, mang đặc trưng của truyền thống văn hoá, chia sẻ trách nhiệm vì cộng
đồng chung. Nhiều Phường, Hội đã được ra đời và hoạt động mạnh mẽ. Những
năm đầu thế kỷ 20, lịch sử cận đại Việt Nam mang dấu ấn của các phong trào
quần chúng và các tổ chức xã hội dân sự tham gia chống giặc ngoại xâm, giải
phóng dân tộc như Hội Duy Tân, Hội khuyến học. Đặc biệt Đảng cộng sản Việt
Nam ra đời là sự kế thừa của các phong trào dân sự. Đảng cộng sản đã vận dụng

17


sáng tạo các nguyên lý và giá trị của xã hội dân sự trong cơng cuộc giải phóng
đất nước. Trong những năm 1936-1939, Đảng linh hoạt trong việc tổ chức quần
chúng nhân dân, không cứng nhắc với sự ra đời của các tổ chức như: Thanh niên
phản đế đoàn, Hội cứu tế bình dân, Nơng hội…và các hội này gắn liền với đời
sống sinh hoạt hàng ngày như hội hát kịch, phường đi sắn, hội gặt, hội
cấy….Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Mỹ, Mặt trận tổ quốc
Việt Nam trở thành một tổ chức tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân tham gia
với tinh thần tự nguyện vì mục tiêu đấu tranh giải phóng dân tộc đã khẳng định

được vai trị và vị trí quan trọng của mình, trở thành một bộ phận khơng thể thiếu
của cách mạng Việt Nam. Mặt trận tổ quốc Việt Nam khi đó chịu sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản Việt Nam để cùng hướng đến mục tiêu giải phóng đất nước
nhưng Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các thành viên của nó có thể được coi là
một tổ chức dân sự vì hoạt động của tổ chức này khơng nhằm cạnh tranh quyền
lực chính trị, khơng đấu tranh chống lại nhà nước để giành lấy quyền lãnh đạo và
cai trị đất nước mà tập hợp sức mạnh quần chúng nhân dân hỗ trợ chính quyền
giải quyết các vấn đề chung của tồn xã hội.
Vai trị của các tổ chức, các hội và hiệp hội được Đảng và Nhà nước Việt
Nam đặc biệt quan tâm. Điều này thể hiện trong Hiến pháp các năm 1946, 1959,
1980 và 1992 “công dân Việt Nam có quyền tự do ngơn luận, tự do báo chí, có
quyền thơng tin, có quyền hội họp, lập hội và biểu tình theo quy định của pháp
luật”. Nghị quyết Đại hội Đảng IX tiếp tục khẳng định “Mở rộng và đa dạng
hố các hình thức tập hợp nhân dân tham gia các đoàn thể nhân dân, các tổ
chức các hội, các hội nghề nghiệp, văn hoá, hữu nghị, từ thiện, nhân đạo” và
“hỗ trợ, khuyến khích các hoạt động khơng vì lợi nhuận và vì nhu cầu và lợi ích
của nhân dân”. Những tổ chức này được Nhà nước uỷ quyền thực hiện một số

18


nhiệm vụ cung ứng dịch vụ công với sự giám sát của cộng đồng. Qua đó nhà
nước có thể tập trung nguồn lực để giải quyết các vấn đề quan trọng hơn.
Việt Nam đang trong q trình cơng nghiệp hố hiện đại hoá, nền kinh tế
phát triển theo hướng thị trường nẩy sinh nhiều vấn đề và đòi hỏi bộ máy nhà
nước phải đổi mới để đáp ứng được các yêu cầu trong tình hình mới cũng như
đáp ứng các nhu cầu của người dân. Trong điều kiện này, bên cạnh các tổ chức
đồn thể nhân dân có truyền thống gắn liền với q trình đấu tranh giải phịng
dân tộc, nhiều tổ chức xã hội đã được hình thành và phát triển mạnh mẽ và đang
tích cực tham gia, đóng góp vào nhiều họat động xã hội, góp phần thúc đẩy sự

phát triển của xã hội Việt Nam. Tính đến tháng 6 năm 2005, đã có 320 hội hoạt
động trên phạm vi tồn quốc, hơn 2.150 hội có phạm vi hoạt động trong các tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương và hàng chục vạn hội, tổ chức cộng đồng tự
quản, tổ hồ giải có phạm vi hoạt động tại cấp cộng đồng. Đồng thời hiện có
khoảng 600 tổ chức phi chính phủ nước ngồi có mối quan hệ với Việt Nam và
có khoảng 350 tổ chức có chương trình, dự án đối tác ở Việt Nam.
Nói tóm lại, xã hội dân sự là một hiện tượng phổ biến và khách quan trong
xã hội. Bản thân xã hội dân sự khá đa dạng với nhiều loại hình hoạt động khác
nhau. Do đáp ứng được yêu cầu của các lợi ích cá nhân và đòi hỏi của thời cuộc
mà xã hội dân sự không chỉ ảnh hưởng trong phạm vi một cộng đồng nhỏ lẻ mà
còn vươn ra phạm vi lớn hơn thậm chí có tầm thế giới. Nhận thức được tầm quan
trọng và phát huy vai trị tích cực của xã hội dân sự trong công cuộc phát triển
của mỗi quốc gia phụ thuộc vào mức độ thừa nhận của các chính quyền. Song ở
nhiều nước trên thế giới, xã hội dân sự đang là một trong những mối quan tâm
hàng đầu của nhiều chính phủ bởi những sức mạnh vật chất và tinh thần do nó
mang lại.

19


1.2. Tổ chức chính trị - xã hội:
Xã hội dân sự được cấu thành bởi nhiều nhóm lợi ích với những tên gọi,
những thể loại, có hoạt động ở nhiều cấp độ khác nhau. Các loại hình đó là: Các
tổ chức quần chúng, các cơ quan bảo trợ, các Hội nghề nghiệp, các NGO Việt
Nam, các nhóm tổ chức khơng chính thức, các tổ chức tín ngưỡng và các NGO
quốc tế. Trong đó các tổ chức quần chúng nhân dân gồm nhiều tổ chức chính trị xã hội có mối quan hệ mật thiết với nhà nước, phát triển mạnh mẽ từ trung ương
đến địa phương. Tổ chức chính trị - xã hội là một thuật ngữ dùng để chỉ một bộ
phận cơ bản cấu thành nên hệ thống chính trị. Trong bất kỳ hệ thống chính trị
của quốc gia nào cũng có ba bộ phận: đảng chính trị, nhà nước và các tổ chức
chính trị - xã hội.

Ở các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước tư bản, tổ chức chính trịxã hội được thành lập một cách tự nguyện, tập hợp những thành viên có chung
một tiêu chí hay lợi ích nào đó mang tính đặc thù (giới, độ tuổi, nghề nghiệp,
v/v) không phụ thuộc vào nhà nước nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhà nước
và các đảng chính trị. Các tổ chức này có vai trị quan trọng trong việc thực thi
quyền lực chính trị. Những tổ chức này có tầm ảnh hưởng rộng lớn đến các đảng
phái, giai cấp cầm quyền thậm chí có thể u cầu đảng cầm quyền đưa ra những
chính sách, đạo luật có lợi cho nhóm lợi ích mà tổ chức đại diện thông qua các
phương thức vận động hành lang, đấu tranh gây áp lực với nhà nước hay đảng
cầm quyền bằng các cuộc biểu tình, mít tinh, đình cơng qua đó lực lượng biểu
tình có thể ép buộc thay thế chính phủ, thay đổi thành phần chính phủ, thay đổi
hiến pháp, ban hành các đạo luật, quyết định chính trị, có khi u cầu các chủ thể
của nhà nước cầm quyền phải hoạt động dưới sự giám sát của đông đảo lực
lượng quần chúng nhân dân. Ngược lại, các tổ chức chính trị - xã hội cũng sẽ trở

20


thành một cơng cụ để các nhà chính trị, đảng sử dụng để củng cố địa vị của mình
và quản lý chặt chẽ các hoạt động của nhà nước.
Việt Nam, sau cách mạng tháng 8 năm 1945 về mặt cấu thành của hệ
thống chính trị cũng gồm 3 thành tố. “Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là một
chỉnh thể gồm nhà nước chun chính vơ sản, Đảng cộng sản, cùng các tổ chức
chính trị - xã hội hợp pháp và mối quan hệ qua lại giữa các yếu tố đó nhằm bảm
đảm quyền lực của nhân dân”. Các tổ chức chính trị - xã hội có nét chung và
riêng biệt, bao gồm: Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân như
Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Đồn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội
nông dân Việt Nam, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt
Nam. Xét theo cấu trúc thành phần thì các tổ chức chính trị - xã hội Việt Nam có
thể hiểu theo nghĩa rộng là: bao gồm các tổ chức chính trị, các tổ chức xã hội và
các tổ chức chính trị - xã hội. Tuy nhiên trong phạm vi của Luận văn này sẽ xem

xét tổ chức chính trị - xã hội là tổ chức mà hoạt động của chúng vừa mang tính
chính trị vừa mang tính xã hội.
Nhiều tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam được hình thành từ trong
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Tình hình cấp bách của thực tế và sự
nhận thức của nhân dân trong cơng cuộc giải phóng dân tộc khỏi ách nơ lệ đòi
hỏi các thành viên trong xã hội tập hợp thành những nhóm khác nhau, dưới sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đồn kết đấu tranh vì mục tiêu độc lập tự
do cho nhân dân, cho đất nước. Qua q trình đấu tranh cách mạng, nhiều tổ
chức đồn thể đã khẳng định được vai trò quan trọng và là một bộ phận của
chính quyền nhà nước, đại diện cho quyền và lợi ích của nhân dân lao động, là
cánh tay đắc lực của đảng và nhà nước trong cơng cuộc xây dựng và bảo vệ
chính quyền của dân, do dân và vì dân.

21


Các tổ chức chính trị - xã hội trước hết thực hiện chức năng đại diện và
bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của các hội viên, thành viên trong tổ chức
mình. Bầt kỳ tổ chức nào đáp ứng được nhu cầu lợi ích cho các thành viên thì
mới thu hút được đông đảo quần chúng tham gia, hoạt động có chất lượng và bền
vững. Lợi ích chung của tổ chức phải được xem xét trong mối quan hệ lợi ích,
trách nhiệm và nghĩa vụ của các thành viên với cộng đồng và đất nước. Mặt khác
những lợi ích của các thành viên nói riêng và tổ chức nói chung cũng phải phù
hợp với quan điểm, đường lối chỉ đạo của đảng và chính sách của nhà nước.
Thứ hai, tổ chức chính trị - xã hội tập hợp các thành viên trong cộng đồng
thực hiện các nhiệm vụ của địa phương và nhà nước thông qua các phong trào
vận động, mít tinh, các chương trình, dự án để thực hiện các mục tiêu cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Phong trào vận động của các tổ chức chính trị
- xã hội rất phong phú và đa dạng bao trùm lên nhiều lĩnh vực của đời sống văn
hoá, xã hội.

Thứ ba, các tổ chức cũng tham gia xây dựng và tuyên truyền đường lối,
nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước thông qua giáo dục, tuyên truyền
nâng cao hiểu biết cho các hội viên, đoàn viên. Tuỳ từng tổ chức chính trị - xã
hội với đối tượng, chức năng khác nhau mà có các nội dung, hình thức tuyên
truyền khác nhau.
Thêm nữa là các tổ chức chính trị - xã hội cịn có chức năng giám sát, phản
biện các chính sách, hoạt động, lối sống đạo đức của các đối tượng đảng viên, cán
bộ các cơ quan do dân cử hoặc cán bộ có nhiệm vụ thực thi quyền lực nhà nước
nhằm đảm bảo một Đảng cầm quyền, một nhà nước trong sạch, vững mạnh.
Như vậy, các tổ chức chính trị - xã hội được coi là cơ sở chính quyền của
nhân dân, nơi thể hiện ý chí nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân làm chủ không chỉ thông qua

22


cơ quan đại diện quyền lực của mình là Nhà nước, Đảng cộng sản mà cịn thơng
qua các tổ chức chính trị - xã hội. Theo đó, các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt
Nam vừa là một bộ phận quan trọng của hệ thống chính trị, thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ chính trị nhưng mặt khác các loại hình tổ chức này cũng đứng ra
bảo vệ lợi ích, đảm bảo quyền dân chủ của các tầng lớp nhân dân trong mối
tương quan độc lập tương đối với nhà nước.
Nghiên cứu từ khía cạnh xã hội dân sự và xem xét các tổ chức chính trị xã hội trong mối quan hệ với Đảng và nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội
Việt Nam có một số đặc điểm đặc trưng.
Trước tiên, sự ra đời của các tổ chức chính trị - xã hội là do Đảng thành
lập và lãnh đạo. Lịch sử cách mạng Vịêt Nam đã chứng minh sự ra đời của các tổ
chức chính trị - xã hội Việt Nam gắn liền với sự ra đời và phát triển của Đảng mà
người sáng lập là chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhờ có Đảng lãnh đạo mà các tổ chức
chính trị - xã hội đã được coi trọng và ngày càng phát huy vai trị của mình trong
cơng cuộc đấu tranh, xây dựng và phát triển đất nước. Đảng cộng sản và các tổ

chức chính trị - xã hội có mối quan hệ mật thiết nhưng vị trí của Đảng và các tổ
chức lại khác nhau.
Các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam được tổ chức một cách hệ thống
từ Trung ương đến địa phương đồng thời có mặt và tham gia trong các lĩnh vực,
các ngành khác nhau thậm chí một tổ chức chính trị - xã hội này cũng có mặt
trong các tổ chức chính trị - xã hội khác như Hội phụ nữ có mặt ở tất cả các đơn
vị quốc doanh, ngoài quốc danh, trong Đoàn thanh niên v/v. Điều này có nghĩa là
các tổ chức chính trị - xã hội khơng chỉ được cấu trúc theo ngành dọc mà còn tồn
tại đan xen, lồng vào nhau thành một khối đoàn kết chặc chẽ.
Thứ ba, các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam vừa mang tính chính trị
đồng thời mang tính xã hội. Tuy nhiên trong qúa trình đấu tranh giải phóng dân

23


tộc chức năng chính trị được thể hiện nổi trội hơn chức năng xã hội. Trong giai
đoạn này, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các tổ chức chính trị xã hội dù hoạt động
dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng đều có một mục tiêu tập hợp đơng đảo
quần chúng nhân dân đấu tranh để giành lấy quyền độc lập dân tộc, xây dựng
nhà nước xã hội chủ nghĩa. Ngày nay tính nổi trội của các tổ chức chính trị - xã
hội còn được thể hiện trong việc các cán bộ chuyên trách của các tổ chức này
đang được hưởng lương từ ngân sách nhà nước và được xếp vào ngạch lương
của cán bộ công chức nhà nước.
Đặc điểm cuối cùng, các tổ chức chính trị - xã hội của Việt Nam nhận
ngân sách tài chính và các cơ sở vật chất từ nhà nước phục vụ cho các hoạt động
của mình. Do lương của cán bộ chuyên trách được nhà nước chi trả nên các tổ
chức này có thể tập trung thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của mình cũng
như các nhiệm vụ mà đảng và nhà nước giao cho mà không phải lo về vấn đề tài
chính. Điều này làm cho các tổ chức chính trị - xã hội bị phụ thuộc vào nhà
nước, hành chính hoá các hoạt động và trở thành bộ phận quan trọng trong việc

thực hiện các chức năng của nhà nước.
Trên cơ sở các chức năng và đặc điểm trên, các tổ chức chính trị - xã hội
Việt Nam có Cơ quan lãnh đạo các cấp của các tổ chức chính trị - xã hội bầu cử
lập ra, thực hiện nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Cơ quan lãnh
đạo cao nhất của mỗi tổ chức chính trị - xã hội là đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ
quan lãnh đạo của mỗi tổ chức chính trị - xã hội ở mỗi cấp là đại hội đại biểu
hoặc đại hội các thành viên, hội viên ở cấp ấy.
Phương thức hoạt động của các tổ chức là vận động, thuyết phục, đảm bảo
dân chủ, tạo sự đoàn kết, thống nhất hành động một cách tự nguyện của mọi tầng
lớp nhân dân góp phần xây dựng và thực hiện các chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Thể

24


hiện qua một số hoạt động cụ thể: Tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và
thống nhất hành động; Vận động, thuyết phục, tập hợp quần chúng nhân dân tự
nguyện tham gia vào các tổ chức, thực hiện đường lối của đảng vừa bằng tổ chức
vừa bằng các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước; Kết hợp công tác
vận động quần chúng của các tổ chức chính trị - xã hội với cơng tác quản lý của
Nhà nước; Kết hợp lực lượng chuyên trách với lực lượng không chuyên trách
trong hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội; Hoạt động đa dạng, linh hoạt
trên cơ sở kinh phí từ ngân sách nhà nước, các nguồn ngân sách tài trợ và đóng
góp của các thành viên.
Có thể nói, là một bộ phận cấu thành nên xã hội dân sự, các tổ chức chính trị xã hội tập hợp các cá nhân có cùng chung lợi ích thành một khối đồn kết để thực
hiện những mục tiêu chung và đáp ứng các nhu cầu cá nhân. Cho dù tổ chức do các
thành viên trong xã hội tự tập hợp nhau lại nhưng các tổ chức chính trị xã hội có mối
quan hệ với chính quyền nhà nước và hỗ trợ nhà nước thực hiện các chức năng quản lý
xã hội, quản lý nhà nước. Các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam có những đặc
trưng riêng, do Đảng cộng sản thành lập, thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ của Đảng và

nhà nước giao cho nhưng các tổ chức này cũng có tính độc lập tương đối của mình
trong khi thực hiện các hoạt động nhằm đáp ứng các nhu cầu của các thành viên mà do
một số hạn chế mà chính quyền đã không thể thực hiện được. Đảng, nhà nước ta đã
quan tâm và đánh giá cao vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong cơng cuộc phát
triển đất nước.

25


×