Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

(Luận văn thạc sĩ) mối quan hệ giữa đánh giá bản thân và kết quả học tập của học sinh trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (611.66 KB, 113 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ THỦY

MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐÁNH GIÁ BẢN THÂN VÀ
KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

Hà Nội, 2014
1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ THỦY

MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐÁNH GIÁ BẢN THÂN VÀ
KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG

Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 60 31 04 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

Người hướng dẫn khoa học : PGS.TS Nguyễn Thị Minh Hằng


Hà Nội, 2014
2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
cơng trình nghiên cứu của riêng tôi với sự hướng dẫn của PGS. TS Nguyễn
Thị Minh Hằng. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và
chưa từng được ai cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Thủy

3


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo – PGS.TS Nguyễn Thị
Minh Hằng.Cô đã chỉ bảo, tận tình hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn tốt
nghiệp này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới toàn thể các thầy cô giáo và các
em học sinh Trường THPT Vĩnh Bảo, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải
Phòng, đã tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành tốt công việc điều tra nghiên
cứu tại trường.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Tâm lý
học và toàn thể các bạn đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn
thành luận văn tốt nghiệp.
Hà Nội, tháng 2 năm 2014
Học viên
Nguyễn Thị Thủy


4


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1

Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐGBT VÀ MỚI
QUAN HỆ GIỮA ĐGBT - KQHT

5

1.1. Tởng quan lịch sử nghiên cứu về ĐGBT

5

1.1.1. Những nghiên cứu về ĐGBT trên thế giới

5

1.1.2. Những nghiên cứu về ĐGBT ở Việt Nam

7

1.2. Các khái niệm cơ bản

11

1.2.1. Khái niệm “Mối quan hệ


11

1.2.2. Khái niệm “Đánh giá bản thân”

12

1.2.3. Khái niệm “Kỳ vọng về bản thân”

16

1.2.4. Khái niệm “Kết qủa học tập

17

1.2.5. Khái niệm “Học sinh THPT”

17

1.2.6. Khái niệm “Tự đánh giá của HS THPT”

19

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến ĐGBT

20

1.4. Mối quan hệ giữa ĐGBT và kỳ vọng về bản thân với KQHT

25


Tiểu kết chương 1

26

Chương 2. TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

27

2.1. Vài nét về địa bàn và khách thể nghiên cứu

27

2.2. Tổ chức nghiên cứu

29

5


2.3. Phương pháp nghiên cứu

31

Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN

36

3.1. Thực trạng ĐGBT của HS THPT


36

3.1.1. Mức độ ĐGBT về sức khỏe

36

3.1.2. Mức độ ĐGBT về ngoại hình

37

3.1.3. Mức độ ĐGBT về năng lực học tập

39

3.1.4. Mức độ ĐGBT về các năng lực khác

41

3.1.5. Mức độ ĐGBT về tự tin

43

3.1.6. Mức độ ĐGBT về tính cách

44

3.1.7. Mức độ ĐGBT về hạnh phúc

46


3.1.8. Mức độ ĐGBT về uy tín với bạn bè và thầy cô

47

3.1.9. Mức độ ĐGBT về khả năng thành đạt trong cuộc sống

49

3.1.10. Đánh giá chung về mức độ ĐGBT của HS THPT

50

3.2. Thực trạng kỳ vọng về bản thân của HS THPT

52

3.3. Thực trạng KQHT của HS THPT

55

3.4. Mối quan hệ giữa ĐGBT và KQHT của HS THPT

55

3.4.1. Mối quan hệ giữa ĐGBT về sức khỏe với KQHT

56

3.4.2. Mối quan hệ giữa ĐGBT về ngoại hình với KQHT


57

3.4.3. Mối quan hệ giữa ĐGBT về năng lực học tập với KQHT

57

3.4.4. Mối quan hệ giữa ĐGBT về các năng lực khác KQHT

58

6


3.4.5. Mối quan hệ giữa ĐGBT về sự tự tin với KQHT

59

3.4.6. Mối quan hệ giữa ĐGBT về tính cách với KQHT

59

3.4.7. Mối quan hệ giữa ĐGBT về mức độ hạnh phúc với KQHT

60

3.4.8. Mối quan hệ giữa ĐGBT về uy tín với bạn bè/ thầy cô với
KQHT
3.4.9. Mối quan hệ giữa ĐGBTvề khả năng thành đạt trong CS với
KQHT
3.5. Tầm quan trọng và sự ảnh hưởng của các mặt ĐGBT đến

KQHT của HS THPT
3.5.1. Tầm quan trọng của các mặt ĐGBT đến KQHT của HS
THPT

60

60

61

61

3.5.2. Ảnh hưởng của các mặt ĐGBT đến KQHT của HS THPT

62

3.5.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến ĐGBT của HS THPT

64

3.6. Mối quan hệ giữa ĐGBT và KVBT của HS THPT

67

Tiểu kết chương 3

69

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ


70

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHÁO

74

PHỤ LỤC

7


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

TT

Viết tắt

Viết đầy đủ

1

BT

Bản thân

2

ĐGBT

Đánh giá bản thân


3

HS

Học sinh

4

HS THPT

Học sinh Trung học Phổ thông

5

ĐTB

Điểm trung bình

6

GV

Giáo viên

7

KQHT

Kết quả học tập


8



Cao đẳng

9

ĐH

Đại học

10

TB

Trung bình

11

TĐG

Tự đánh giá

12

CS

Cuộc sống


13

KVBT

Kỳ vọng bản thân

14



Tương đối

8


DANH MỤC BẢNG BIỂU
TT Bảng

Nội dung

Trang

1

1.1

Cơ cấu điều tra trên địa bàn nghiên cứu

28


2

1.2

Tiến trình nghiên cứu

31

3

1.3

Mức độ ĐGBT về sức khỏe theo KL và GT

36

4

1.4

Mức độ ĐGBT về ngoại hình theo KL và GT

38

5

1.5

Mức độ ĐGBT về năng lực khác theo KL và GT


42

6

1.6

Mức độ ĐGBT về sự tự tin theo KL và GT

43

7

1.7

Mức độ ĐGBT về tính cách theo KL và GT

45

8

1.8

Mức độ ĐGBT về hạnh phúc theo KL và GT

47

9

1.9


10

1.10

11

1.11

12

1.12

13

1.13

14

1.14

Mức độ ĐGBT về uy tín với bạn bè/thầy cô theo KL và
GT
Mức độ ĐGBT về khả năng thành đạt trong cuộc sống
theo KL và GT
Bảng so sánh giữa ĐGBT và kỳ vọng vào bản thân của
HS THPT
Mối quan hệ giữa KQHT và các tiêu chí ĐGBT
Điểm TB mức độ ảnh hưởng của các mặt ĐGBT đến
KQHT của HS THPT

Thứ tự mức độ ảnh hưởng của các mặt ĐGBT đến
KQHT của HS THPT (so sánh đánh giá của HS và GV)
9

48

50

54
56
63

63


15

1.15

Các yếu tố ảnh hưởng đến ĐGBT của HS THPT (so

66

sánh giữa đánh giá của GV và HS)
16

1.16

Mối quan hệ giữa ĐGBT và KVBT của HS THPT


10

67


DANH MỤC BIỂU ĐỒ - HÌNH VẼ
TT Hình

Nội dung

Trang

1

3.1

Mức đợ đánh giá bản thân về sức khỏe

36

2

3.2

Mức độ đánh giá bản thân về ngoại hình

37

3


3.3

Mức đợ đánh giá bản thân về năng lực học tập

39

4

3.4

Mức độ đánh giá bản thân về các năng lực khác

41

5

3.5

Mức độ đánh giá bản thân về sự tự tin

43

6

3.6

Mức độ đánh giá bản thân về tính cách

45


7

3.7

Mức độ đánh giá bản thân về mức độ hạnh phúc

46

8

3.8

Mức đợ đánh giá bản thân về uy tín với bạn bè và
thầy cô

48

9

3.9

Mức độ đánh giá bản thân về khả năng thành đạt
trong cuộc sống

49

10

3.10


Điểm trung bình của các thang đo tự đánh giá bản
thân

51

11

3.11

Thực trạng kỳ vọng về bản thân của HS THPT

52

12

3.12

Thực trạng kết quả học tập của HS THPT trên mẫu
chung

55

13

3.13

Tầm quan trọng của các mặt ĐGBT đến KQHT của
HS THPT xét qua tiêu chí học sinh

61


14

3.14

Tầm quan trọng của các mặt ĐGBT đến KQHT của
HS THPT xét qua tiêu chí giáo viên

62

15

3.15

Các yếu tố ảnh hưởng đến ĐGBT của HS THPT qua
HS đánh giá

64

11


16

3.16

Các yếu tố ảnh hưởng đến ĐGBT của HS THPT qua
GV đánh giá

12


65


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đánh giá bản thân (ĐGBT) chính là sự đánh giá tổng thể về các giá trị
của bản thân với tư cách là một cá nhân gia nhập vào các mối quan hệ xã
hội. Nếu mỗi người có sự đánh giá bản thân đúng đắn và được mọi người
công nhận, điều đó tạo nên sức mạnh tinh thần giúp cá nhân ấy vượt qua
khó khăn và các trở ngại. Nhưng không phải bao giờ cá nhân cũng có sự
đánh giá bản thân phù hợp và tích cực. Hơn thế nữa, cũng có nhiều cá nhân
thiếu tự tin vào chính bản thân mình.
Đánh giá bản thân có vai trò quan trọng và ảnh hưởng rất lớn đến quá
trình phát triển nhân cách của mỗi người. Nếu chúng ta biết đánh giá đúng
năng lực của bản thân, hiểu những thế mạnh của mình, biết phát huy những
thế mạnh ấy cũng như hiểu những điểm hạn chế, biết kiềmchế nó thì cá
nhân ấy sẽ cố gắng phấn đấu để đạt đến “cái tôi lý tưởng”.
Bản thân học sinh Trung học phổ thông (HS THPT) ngoài việc đánh giá
đúng tính cách, cá tính của mình thì việc đánh giá đúng năng lực học tập là
một vấn đề quan trọng. Theo các nhà tâm lý học, cách mà mỗi học sinh tri
giác bản thân có ảnh hưởng rất lớn đến cảm xúc và hành vi, trong đó có kết
quả hoạt động và kết quả học tập của các em. Nếu tự bản thân học sinh có
thể đánh giá, nhìn nhận về kết quả học tập (KQHT) của mình thì điều đó sẽ
có ích lợi như thế nào với học sinh? Với những học sinh học giỏi, khá thì
mức độ tự đánh giá sẽ khác như thế nào đối với những học sinh học trung
bình? Liệu giữa mức độ đánh giá bản thân và mức độ kỳ vọng vào bản thân
có mối quan hệ nào hay không? Tất cả những câu hỏi nêu trên cịn ít được
nghiên cứu làm rõ ở học sinh Việt Nam.
Trong những năm gần đây, vấn đề tự đánh giá bản thân đã thu hút sự

quan tâm chú ý của những nhà tâm lý học.Các nghiên cứu của các tác giả
trong nước về ĐGBT khá phong phú nhưng mới chỉ tập trung vào một số
13


khía cạnh mà các tác giả quan tâm như thái độ học tập, ý thức về bản ngã...
và ít có các công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa ĐGBT và các
phương diện của ĐGBT với KQHT.
Xuất phát từ những lý dođó, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu của luận
văn là:“Mối quan hệ giữa đánh giá bản thân và kết quả học tập của học sinh
THPT”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu mối quan hệ giữa đánh giá bản thân và kết quả học tập của
học sinh THPT để từ đó đề xuất một số biện pháp giúp học sinh đánh giá
phù hợp và tích cực về bản thân nhằm nâng cao kết quả học tập.
3. Đối tượng nghiên cứu
Mối quan hệ giữa đánh giá bản thân và kết quả học tập của học sinh
THPT
4.Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích tài liệu để làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận, phương pháp
luận và phương pháp nghiên cứu liên quan đến tự đánh giá bản thân, kết quả
học tập của học sinh THPT và mối quan hệ giữa chúng.
- Nghiên cứu thực trạng mối quan hệ giữa đánh giá bản thân và kết quả
học tập của học sinh THPT.
- Nghiên cứu một số yếu tố ảnh hưởng đến ĐGBT của học sinh THPT.
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao mức độ đánh giá bản thân
của học sinh THPT.
5. Khách thể nghiên cứu
Khách thể là 190 em ở lứa tuổi từ 16 – 18 đang học ở trường Trung học
Phổ thông Vĩnh Bảo, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng.

6. Giả thuyết nghiên cứu
Có mối tương quan thuận giữa ĐGBT và KQHT ở HS THPT. Những
học sinh có học lực giỏi, khá đánh giá bản thân cao hơn, tích cực hơn so với
những học sinh có học lực trung bình.
14


7.Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Địa điểm nghiên cứu: Trường THPT Vĩnh Bảo, huyện Vĩnh Bảo,
thành phố Hải Phòng.
- Khách thể nghiên cứu: nghiên cứu tiến hành trên 190 HS đang học từ
lớp 10 – 12.
- Về nội dung: Đề tài tập trung vào nghiên cứu mối quan hệ giữa đánh
giá bản thân(bao gồm 9 phương diện tự đánh giá: sức khỏe, ngoại hình,
năng lực học tập, năng lực khác, sự tự tin, tính cách, mức độ hạnh phúc, uy
tín đối với thầy cơ/bạn bè, khả năng thành đạt trong tương lai)và kết quả học
tập của học sinh THPT. Bên cạnh đó, đề tài này còn nghiên cứu mối quan
hệ giữa ĐGBT và kỳ vọng về bản thân của học sinh THPT.
8.Phương pháp nghiên cứu
8.1.Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Sử dụng phương pháp này để đọc và khái quát các văn bản, tài liệu, tạp
chí, báo cáo, nghiên cứu khoa học, luận văn…ở trong và ngoài nước khi
nghiên cứu về các lĩnh vực có liên quan đến mối quan hệ giữa đánh giá bản
thân và kết quả học tập của học sinh.
Tiếp thu kết quả nghiên cứu từ hệ thống các tài liệu sẵn có để làm rõ cơ
sở lý luận và khái niệm có liên quan đến đề tài, đồng thời để lựa chọn và
xây dựng phương pháp nghiên cứu.
8.2. Phương pháp thang đo
Phương pháp thang đo được sử dụng để đo mức độ tự đánh giá bản thân
và mức độ kỳ vọng bản thân của học sinh THPT. Trong nghiên cứu này,

chúng tôi khảo sát 9 tiêu chí qua các khía cạnh: sức khỏe, ngoại hình, năng
lực học tập, năng lực khác, sự tự tin, tính cách, mức độ hạnh phúc, uy tín
đối với thầy cơ/bạn bè, khả năng thành đạt trong tương lai.
8.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
Sử dụng phương pháp này để trao đổi, trò chuyện nhằm khai thác ý
kiến, những thông tin chân thực khách quan nhất về hoàn cảnh gia đình,
15


quá trình sống và học tập, mối quan hệ trong gia đình, kết quả học tập, tính
cách, sở thích, cuộc sống hiện tại của em như thế nào? Định hướng tương
lai của em ra sao? Phỏng vấn sâu trên hai đối tượng:
- Phỏng vấn sâu học sinh: Phỏng vấn sâu 3 HS;
- Phỏng vấn sâu giáo viên: Phỏng vấn sâu 2 GV.
8.4. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Với phương pháp này, chúng tôi điều tra trên hai nhóm đối tượng đó là
HS và GV.
8.5. Phương pháp thống kê toán học( SPSS)
Sử dụng chương trình SPSS 16.0 để xử lý số liệu thu được từ nghiên
cứu thực tiễn.
- Chúng tôi sử dụng các phương pháp thống kê như: Tính tần suất, mô tả
thống kê, tính giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, hệ số tương quan.

16


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÁNH GIÁ BẢN THÂN VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
ĐÁNH GIÁ BẢN THÂN VỚI KẾT QUẢ HỌC TẬP


1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu về đánh giá bản thân
1.1.1. Những nghiên cứu về đánh giá bản thân trên thế giới
Trong những năm gần đây, ĐGBT là một đề tài đang được quan tâm
nghiên cứu nhiều trên thế giới. Riêng ở Pháp thống kê cho thấy chỉ trong
vòng hơn 10 năm cuối của thế kỷ XX đã có hơn 20.000 công trình nghiên
cứu về tự đánh giá. Còn theo thống kê của Hiệp hội Tâm lý học Mỹ trong
vòng 30 năm nay kể từ năm 1967 đến 1996 đã có 13587 các bài viết về tự
đánh giá được xuất bản. Các công trình nghiên cứu của các tác giả trên thế
giới tập trung chủ yếu vào các nội dung lớn như: nghiên cứu nguồn gốc, bản
chất, nội dung, quá trình hình thành và phát triển của ĐGBT, vai trò cũng
như ảnh hưởng của ĐGBT đến sự phát triển nhân cách của con người nói
chung[7].
Nhìn chung, có một vài lý thuyết về nhân cách đưa sự ĐGBT như một
biến số có ý nghĩa nhưng chỉ có thuyết của Alfred Adler coi biến sớ này
đóng một vai trị chính. Adler nhìn nhận một cách rõ ràng sự quan trọng của
tự đánh giá nhưng ơng quan tâm đến nó trong việc áp dụng vào trị liệu hơn
là giải thích lý thuyết. Ồng cho rằng những cá nhân tự ti sẽ cố gắng bù trừ
khiếm khuyết để vươn lên trong cuộc sống. Như vậy, Adler nhìn nhận việc
đánh giá đúng những hạn chế của bản thân, thậm chí đánh giá thấp về BT là
động lực mạnh mẽ để cá nhân vươn lên và thành công trong cuộc sống.
Chính bản thân con người và cuộc đời của Adler là một minh chứng hùng
hồn cho lý thuyết của ông.
Một hướng nghiên cứu của Alfred Adler liên quan đến tự đánh giá, đó là
yếu tố thể chất của cá nhân cũng ảnh hưởng đến ĐGBT. Sự không khỏe
mạnh về thể chất, sự yếu ớt trong phát triển cơ bắp, sự thiếu hụt một vài bộ
phận trên cơ thể có ảnh hưởng đến ĐGBT không thuận lợi của cá nhân. Như
17


vậy, theo Adler có 3 nhóm điều kiện có thể gây ra cho trẻ em sự ĐGBT

không thuận lợi:
- Sự thiếu hụt về thể chất;
- Giáo dục không đúng tạo cho những đứa trẻ không nhận thấy giá trị
của bản thân;
- Giáo dục không đúng tạo cho những đứa trẻ có thái độ thù địch với
mọi người.
Như vậy, thể chất của cá nhân và thái độ đánh giá của người khác về cá
nhân cũng góp phần tạo nên sự ĐGBT của cá nhân. Bên cạnh đó, đa phần
các tác giả đều cho rằng ĐGBT hình thành thông qua tương tác xã hội, trước
hết là mối quan hệ tương tác với cha mẹ, người thân [15].
Một vài nhà Tâm lý học khác như Hartmann, Erikson và Jacobson có
liên hệ đến sự tự đánh giá nhưng lại chỉ liên hệ gián tiếp. Rogers cũng quan
tâm tới sự ĐGBT nhưng chủ yếu là ở bản chất chung các trải nghiệm của
các khách thể và sự chấp nhận thể nghiệm ở cá nhân.
Có thể nói, James, Mead và Charles là những nhà tâm lý học đầu tiên
cung cấp khả năng và hướng dẫn chính cho việc nghiên cứu về ĐGBT. Họ
quan tâm đến nguồn gốc và mức độ của ĐGBT. Tuy nhiên, họ vẫn còn bị
hạn chế do chưa chỉ ra được những nhân tố ảnh hưởng tới sự tự đánh giá.
Một trong những tác giả đã có những nghiên cứu cơng phu về vấn đề tự
đánh giá đó là nhà Tâm lý học người Đức S.Franz với đề tài: “Khả năng tự
đánh giá phù hợp đối với thái độ học tập và thái độ tập thể ở học sinh các
lớp 5 – 7 – 9”. Sau đó, bà cịn cho xuất bản cuốn: “Phát triển tự đánh giá
của học sinh”.
A.I.Lipkina, một nhà Tâm lý học người Nga, cũng là người rất quan tâm
đến vấn đề tự đánh giá ở học sinh. Bà đã cùng cộng tác với L.A.Rubak trong
cơng trình nghiên cứu: “Tính phê phán và tự đánh giá trong hoạt động học
tập”.Sau đó, vào năm 1976, bà cịn cho xuất bản cuốn “Tự đánh giá của học
sinh”.
18



Tác giả Stanley Cooper Smith với những nghiên cứu về nguồn gốc của
tự đánh giá, nguồn gốc của lòng tự trọng, đã được trình bày trong tác phẩm
“Nguồn gốc của lòng tự trọng”.
Cũng nghiên cứu về nguồn gốc phát sinh của sự ĐGBT quá thấp, sự
đánh giá quá cao, Alfred Adler ngồi sự thừa nhận những tác động của tính
chất mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái còn rất đề cao tầm quan trọng của
yếu tố bệnh tật, sự yếu ớt về thể chất trong sự hình thành các mầm mống
của sự ĐGBT thấp.
Vấn đề vai trò của tự đánh giá trong sự hình thành và phát triển nhân
cách cũng rất được quan tâm. Vấn đề này đã được V.P.Levcovic bàn đến
trong nghiên cứu “Sự tự đánh giá và vai trị của nó trong q trình hình
thành nhân cách”.
*Tóm lại, qua những công trình của các tác giả nước ngoài về ĐGBT,
chúng tôi đưa ra một vài nhận xét như sau:
- Đối tượng của tự đánh giá chính là bản thân chủ thể.
- ĐGBT được hình thành thông qua giao tiếp xã hội, cá nhân tiếp thu và
lĩnh hội những chuẩn mực xã hội, đồng thời tự điều chỉnh hành vi ứng xử
cho phù hợp với những chuẩn mực đó. Đây chính là cơ sở của ĐGBT.
- Thể chất của cá nhân và thái độ đánh giá của người khác về cá nhân
cũng góp phần tạo nên sự ĐGBT của cá nhân.
- ĐGBT hình thành thông qua tương tác xã hội, trước hết là mối quan hệ
tương tác với cha mẹ, người thân.
1.1.2. Những nghiên cứu về đánh giá bản thân ở Việt Nam
Từ trước đến nay có không ít các công trình của các tác giả trong nước
nghiên cứu về vấn đề ĐGBT.
Trong nghiên cứu Lê Ngọc Lan (1999), Nghiên cứu sự tự đánh giá thái
độ học tập môn toán, cho rằng: Đánh giá bản thân có mối liên hệ với những
yếu tố tâm lý khác của nhân cách. Sự đánh giá bản thân phù hợp đối với thái


19


độ học tập ở học sinh lớp 6 và lớp 8 còn chưa cao. Đánh giá bản thân về thái
độ học tập của các em gái phù hợp hơn các em trai.
Lê Đức Phúc (1999) đã nghiên cứu đánh giá bản thân của học sinh tiểu
học xét về mặt ý thức bản ngã qua đề tài “Sự phát triển ý thức bản ngã”.
Qua đó, ông đã làm rõ thực trạng của ý thức này trong mối quan hệ với trình
độ phát triển nhân cách của lứa tuổi HS tiểu học.
Qua bài viết “Con người thích tự đánh giá và được đánh giá hình ảnh cái
tơi của mình như thế nào?”, tác giả Nguyễn Thị Hoa (1999) đã khẳng định:
Tất cả mọi người đều có nhu cầu muốn tự đánh giá và được đánh giá hình
ảnh cái tơi. Thơng qua việc tổng hợp từ một số kết quả nghiên cứu thực
nghiệm, tác giả đã chỉ ra rằng: Nhìn chung, con người thích những nhận xét
thống nhất với nhận xét của họ về bản thân hơn là những nhận xét trái
ngược. Những người ĐGBT tốt thường tìm cách để người khác cũng đánh
giá tốt về họ.
Đào Lan Hương (2000), Nghiên cứu tự đánh giá về thái độ học tập môn
toán của sinh viên Cao đẳng sư phạm Hà Nội đã tiến hành nghiên cứu trên
360 sinh viên. Phương pháp chính được sử dụng trong đề tài là phương
phápđiều tra bằng bảng hỏi. Tác giả còn sử dụng phương pháp thực nghiệm
để khảo sát thực trạng mức độ phù hợp của tự đánh giá về thái độ học toán ở
sinh viên và áp dụng biện pháp thử nghiệm tác động nhằm nâng cao khả
năng TĐG phù hợp của sinh viên về thái độ học toán; đồng thời nghiên cứu
cũng tiến hành thực nghiệm kiểm chứng biện pháp nâng cao khả năng TĐG
phù hợp của sinh viên về thái độ học toán.
Với nghiên cứu này, Đào Lan Hương đã rút ra một số kết luận như sau:
Khả năng tự đánh giá thái độ học tập môn toán của sinh viên phát triển
không đồng đều với các mức độ khác nhau: Có sự khác biệt về khả năng
TĐG thái độ học toán ở những sinh viên khác nhau về kết quả học tập, thái

độ học tập, vị thế trong tập thể, hoạt động nghề nghiệp và môi trường học
tập. Về các yếu tố ảnh hưởng đến đánh giá bản thân tác giả cho rằng, trình
20


độ phát triển nhân cách là yếu tố bên trong ảnh hưởng tới sự tiếp thu của cá
nhân đối với đánh giá bên ngoài, vì vậy nó ảnh hưởng một cách gián tiếp lên
đánh giá bản thân [6].
Văn Thị Kim Cúc (2003) với đề tài: Những tổn thương tâm lý của thiếu
niên do bố mẹ ly hôn đã so sánh đánh giá bản thân giữa trẻ trong các gia
đình ly hôn và trẻ trong các gia đình bình thường. Kết quả nghiên cứu cho
thấy.
- Các em trong gia đình ly hôn và trong các gia đình bình thường đều có
điểm số trung bình của cái Tôi xã hội, cái Tôi trường học khá cao và điểm
trung bình của cái Tôi cảm xúc tiêu cực đều thấp. Các em trong gia đình ly
hôn có điểm số cái Tôi thể chất thấp hơn các em trong gia đình bình thường.
- Về mặt giới tính, trẻ nam hay nữ trong gia đình có bố mẹ ly hôn cùng
cảm thấy phải chịu thiệt thòi như nhau. Tuy nhiên, các em nữ trong gia đình
có bố mẹ ly hôn đánh giá ứng xử và năng lực trong cuộc sống học đường
cũng như năng lực xây dựng và duy trì các mối quan hệ với các thành viên
trong gia đình, bạn bè hay cảm giác được thừa nhận về mặt xã hội thấp hơn
một cách có ý nghĩa so với các em nữ sống trong gia đình có đầy đủ cả bố
mẹ [2].
Tác giả Văn Thị Kim Cúc (2003),Tìm hiểu sự đánh giá bản thân ở trẻ
10 - 15 tuổi (số 7) trình bày cơng trình nghiên cứu của mình và cộng sự về
tự đánh giá bản thân của trẻ 10 – 15 tuổi. Theo các tác giả này, có mối liên
hệ chặt chẽ giữa tính tích cực của tự đánh giá với kết quả hoạt động của cá
nhân trong lĩnh vực có liên quan.
Qua nghiên cứu thực tiễn trên 60 trẻ trai và 60 trẻ gái ở một số trường
Phổ thông cơ sở tại Hà Nội, Văn Thị Kim Cúc (2004) đã có những kết luận

ban đầu về “Mối tương quan giữa biểu tượng về gia đình và sự đánh giá bản
thân của trẻ”. Theo đó, sự hình thành biểu tượng về gia đình nói chung, về
giá trị của người cha, người mẹ nói riêng không có con đường nào khác
ngoài những gì trẻ nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy thông qua những hoạt
21


động của gia đình, của người bố và người mẹ. Chính qua tổng thể các mối
quan hệ này mà trẻ xác định được vị trí của mình trong gia đình: mình được
tôn trọng như thế nào? Bố mẹ có thật lòng yêu thương mình không? Những
gì trẻ cảm nhận được sẽ là cơ sở để trẻ thiết lập những giá trị về bản thân
mình.
Đỗ Ngọc Khanh (2005) trong Luận án tiến sĩ với đề tài: Nghiên cứu sự
tự đánh giá của học sinh Trung học cơ sở ở Hà Nội cũng đưa ra một số kết
luận đáng chú ý:
- Ứng xử của cha mẹ đối với con cái cũng đóng một vai trị quan trọng
trong hình thànhĐGBT ở các em, mức độ ủng hộ của bạn bè và thầy cô
cũng có ảnh hưởng đến mức độ cao thấp trong tự đánh giá của trẻ em;
- Nói chung, sự tự đánh giá về học tập, đạo đức, xã hội của học sinh
Trung học cơ sở Hà Nội đạt mức trung bình cao. Sự tự đánh giá về mặt thể
chất ở mức trung bình, trong đó các em học sinh đánh giá sức khỏe tích cực
hơn đánh giá về hình dáng của bản thân. Sự tự đánh giá về mặt cảm xúc đạt
mức trung bình thấp. Yếu tố học lực không ảnh hưởng nhiều đến TĐG về
mặt giao tiếp xã hội của học sinh [9].
Trần Thị Hà (2012) với nghiên cứuẢnh hưởng của bạo lực gia đình đến
đánh giá bản thân của trẻ vị thành niên từ 12 – 15 tuổiđã đưa ra kết luận:
- Đa số, trẻ vị thành niên ĐGBT ở mức độ trung bình ở cả 8 tiêu chí:
ngoại hình, năng lực học tập, các năng lực khác, uy tín đối với bạn bè và
thầy cô, tính cách, mức độ tự tin, mức độ hạnh phúc, khả năng thành đạt
trong tương lai.

- Trẻ bị bạo lực gia đình thường xuyên có ảnh hưởng tiêu cực đến mức
độ đánh giá bản thân . Trẻ vị thành niên thường xuyên bị bạolực thì càng
đánh giá thấp về bản thân và nhìn nhận bản thân khôngchính xác. Ngược lại,
những em ít khi bị bạo lực, được bố mẹ quan tâm, gia đình hòa thuận thì đa
phần các em đánh giá bản thân ở mức độ trung bình khá và khá [7].

22


* Tóm lại, trong những năm gần đây, vấn đề tự đánh giá bản thân đã thu
hút sự quan tâm chú ý của những nhà tâm lý học. Các nghiên cứu của các
tác giả trong nước về ĐGBT khá phong phú nhưng mới chỉ tập trung vào
một số khía cạnh mà các tác giả quan tâm như thái độ học tập, ý thức về bản
ngã... Ngay cả nghiên cứu mới đây về ĐGBT ở trẻ vị thành niên từ 12 đến
15 tuổi trong những gia đình có bạo lực cho rằng, bạo lực gia đình có ảnh
hưởng đến ĐGBT của HS.Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là ngoài bạo lực gia
đình thì còn có yếu tố nào khác như giáo dục nhà trường, cách ứng xử giữa
cha mẹ với con cái, điều kiện kinh tế gia đình, cách ứng xử giữa học sinh
với học sinh, giữa thầy cô giáo với học sinh hay phương tiện trùn thơng...
có ảnh hưởng đến ĐGBT của trẻ hay không? Sự ĐGBT ấy ảnh hưởng ra sao
đến KQHT? Và mức độ kỳ vọng vào tương lai của các em như thế nào? Các
vấn đề này cần được giải quyết để có được bức tranh toàn cảnh về ĐGBT
của trẻ. Một nghiên cứu riêng biệt về ĐGBT và mối quan hệ giữa ĐGBT
với KQHT trên HS THPT trên nhiều phương diện khác nhau (sức khỏe,
năng lực học tập, sự tự tin, uy tín với bạn bè và thầy cô, các năng lực khác,
ngoại hình, mức độ hạnh phúc, tính cách và khả năng thành đạt trong cuộc
sống) sẽ giải quyết được các vấn đề đó mà các nghiên cứu trước chưa làm
được.
1.2. Các khái niệm cơ bản
1.2.1. Khái niệm “Mối quan hệ”

Khái niệm mối quan hệ là một khái niệm chung được sử dụng trong
nhiều ngành khoa học như: triết học, xã hội học, toán học, tâm lý học...
Hoàng Phê (2000): Quan hệ là sự gắn liền về mặt nào đó giữa hai hay
nhiều sự vật khác nhau, khiến sự vật này có biến đổi, thay đổi thì có thể tác
động đến sự vật kia [18].
Theo Vũ Dũng (2000): Mối quan hệ là mối thiện cảm lẫn nhau của các
khách thể và các thuộc tính của các khách thể đó[4].

23


V.G. Karuxco (2001) hiểu theo nghĩa rộng: Quan hệ là thuộc tính của
bất kỳ một liên hệ nào của con người với thế giới bên ngoài và với những
người khác [8].
Theo A.I. Secbakov và V.V. Bôgôlôvxki, hiện nay trong tâm lý học có
hai sự giải thích “mối quan hệ”. Trong trường hợp thứ nhất, mối quan hệ là
mối liên hệ khách quan của con người và sự vật, của một cá thể này với cá
thể khác. Ở trường hợp thứ hai, mối quan hệ được giải thích là sự tỏ thái độ,
sự phản ứng của người này đối với người khác, với sự vật, đồ vật, hiện
tượng như một lập trường chủ quan trong thái độ đối với chúng [4].
Từ những quan niệm khác nhau về “mối quan hệ” ở trên, chúng tôi thấy
rằng bản thân khái niệm “mối quan hệ” có nội hàm rất rộng. Tuy nhiên,
trong đề tài này chúng tôi hiểu khái niệm mối quan hệ như sau:“Mối quan
hệ là sự tác động qua lại lẫn nhau, chi phối và ảnh hưởng, phụ thuộc lẫn
nhau giữa hai hay nhiều yếu tố trong thế giới khách quan”.
Định nghĩa mối quan hệ nêu trên đã chỉ ra rằng để có thể gây dựng được
một mối quan hệ thì phải có từ hai yếu tố trở nên. Yếu tố này chịu sự tác
động qua lại, chi phối, ảnh hưởng, phụ thuộc của yếu tố kia. Khi một yếu tố
biến đổi thì những yếu tố còn lại cũng biến đổi theo và ngược lại. Trong
nghiên cứu này, chúng tôi kỳ vọng sẽ làm rõ mối quan hệ giữa ĐGBT và

KQHT của HS THPT.
1.2.2. Khái niệm “Đánh giá bản thân”
Theo Từ điển Cambridge thì đánh giá bản thân có nghĩa là: “Lịng tin,
sự tin tưởng vào năng lực và giá trị của bản thân mình”.(Cambridge
Dicstionnary(2006).
Nhà Tâm lý học người Mỹ William James (1890), cho rằng: ĐGBT là
kết quả của mối liên hệ giữa những thành công đã đạt được và những tham
vọng cá nhân muốn vươn tới trong những lĩnh vực mà cá nhân cho là quan
trọng trong cuộc sống. Ở một nghĩa khác, ĐGBT là mối liên hệ giữa cái mà

24


chúng ta làm (cái tôi hiện thực) với cái mà chúng ta muốn làm, muốn trở
thành (cái tôi lý tưởng) [7].
Theo Cooley (1902), người khác chính là gương soi mà trong đó chúng
ta có thể nhận ra bản thân mình. Những phán xét của người khác về bản
thân chúng ta sẽ được nội tâm hóa và tạo ra những quan niệm của chúng ta
về bản thân. Mead (1934) thì cho rằng: Sự ĐGBT chính là những phán xét
của người khác được nội tâm hóa.
Theo thang nhu cầu Maslow (1970): ĐGBT tạo cho cá nhân cảm thấy
mình có năng lực và được người khác biết tới.
Franz (1979) – nhà Tâm lý học người Đức – một người nghiên cứu rất
nhiều về tự đánh giá đã đưa ra kết luận: ĐGBT là một dạng đặc biệt của
hoạt động tự nhận thức. Đó là nhận thức của cá nhân về mức độ biểu hiện,
của các hiện tượng tâm lý, của phương thức, thái độ đang tồn tại ở bản thân.
Susan Carter (1999), trong tác phẩm “Xây dựng cái tôi – Một viễn cảnh
của sự phát triển” cho rằng: ĐGBT là sự đánh giá tổng thể về giá trị bản
thân với tư cách là con người. Đó là sự đánh giá mà cá nhân có được về giá
trị của mình.

Vũ Dũng (2000) cho rằng: “Cá nhân đánh giá chính mình, đánh giá
những năng lực, phẩm chất của mình so với người khác”; “là sự điều chỉnh
quan trọnghành vi cá nhân, mối quan hệ qua lại của con người với những
người xung quanh, tính phê phán, tính đòi hỏi của bản thân, mối quan hệ
qua lại đối với những thành tích và thất bại của người đó đều phụ thuộc vào
tự đánh giá” [4].
Có rất nhiều các quan điểm khác nhau về ĐGBT và mọi người đều
thống nhất ở một điểm khi cho rằng ĐGBT chính là sự tự nhận xét, đánh giá
về chính bản thân mình. ĐGBT chính là một giai đoạn phát triển cao của tự
ý thức.Đối tượng của ĐGBT chính là bản thân chủ thể, là người biểu hiện
của thể giới nội tâm ở mỗi con người.

25


×