Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

(Luận văn thạc sĩ) giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên các trường cao đẳng y tế tại hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (777.46 KB, 94 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ



TRIỆU THỊ THỦY

GIÁO DỤC THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG
CHO SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG CAO ĐẲNG Y TẾ
TẠI HÀ NỘI HIỆN HAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ



TRIỆU THỊ THỦY

GIÁO DỤC THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG
CHO SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG CAO ĐẲNG Y TẾ
TẠI HÀ NỘI HIỆN HAY

Chuyên ngành: Triết học
Mã số:

60 22 80



LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN VŨ HẢO

HÀ NỘI - 2012


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của
riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS.
Nguyễn Vũ Hảo.
Các số liệu, tài liệu tham khảo trong luận văn đều
trung thực và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2012.

Tác giả luận văn

Triệu Thị Thủy


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC THẾ GIỚI QUAN

DUY VẬT BIỆN CHỨNG ................................................................... 7
1.1.

Thế giới quan duy vật biện chứng .................................................... 7
1.1.1. Thế giới quan ................................................................................... 7
1.1.2. Thế giới quan duy vật biện chứng .................................................. 13

1.2.

Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng .................................... 23
1.2.1. Khái niệm giáo dục ........................................................................ 23
1.2.2. Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng .................................... 24

Chƣơng 2. GIÁO DỤC THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG CHO
SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG CAO ĐẲNG Y TẾ TẠI HÀ NỘI HIỆN
NAY: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ........................ 31

2.1.

Những nhân tố ảnh hưởng đến việc giáo dục thế giới quan duy
vật biện chứng cho sinh viên các trường Cao đẳng Y tế tại Hà
Nội hiện nay ................................................................................. 31
2.1.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế...................................................... 31
2.1.2. Sự ảnh hưởng của điều kiện đặc thù đến sinh viên các trường
Cao đẳng Y tế tại Hà Nội hiện nay ................................................. 37

2.2.

Thực trạng của việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng
tại các trường Cao đẳng Y tế tại Hà Nội hiện nay .......................... 40

2.2.1. Thái độ chính trị, lối sống của sinh viên ở các trường Cao đẳng
Y tế tại Hà Nội hiện nay ................................................................ 40
2.2.2. Các môn khoa học Mác-Lênin với việc giáo dục thế giới quan
duy vật biện chứng cho sinh viên các trường Cao đẳng Y tế tại
Hà Nội ........................................................................................... 42
2.2.3. Hoạt động của các tổ chức khác trong nhà trường với việc giáo
dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên các trường
Cao đẳng Y tế tại Hà Nội ............................................................... 48

2.3. Những vấn đề được đặt ra trong việc giáo dục thế giới quan duy vật
biện chứng tại các trường Cao đẳng y tế ở Hà Nội hiện nay ........... 54


2.3.1. Sự bất cập giữa giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng trong
nhà trường và những tác động trái chiều bên ngoài xã hội ............. 54
2.3.2. Mâu thuẫn giữa yêu cầu đổi mới nội dung, phương pháp giảng
dạy các môn khoa học Mác-Lênin và điều kiện vật chất còn hạn
chế ................................................................................................. 56
2.3.3. Bất cập giữa việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng với
việc tự giáo dục của sinh viên trường Cao đẳng Y tế tại Hà Nội
hiện nay ......................................................................................... 58
2.3.4. Sự quá tải của nhu cầu thực tập, thực tế cao của sinh viên tại các
Bệnh viện và cơ sở y tế ở Hà Nội hiện nay và ảnh hưởng của nó
đến việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh
viên ................................................................................................ 60
Chƣơng 3. QUAN ĐIỂM CHUNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG
CAO CHẤT LƢỢNG TRONG VIỆC GIÁO DỤC THẾ GIỚI QUAN
DUY VẬT BIỆN CHỨNG TẠI CÁC TRƢỜNG CAO ĐẲNG Y TẾ
HÀ NỘI HIỆN NAY ......................................................................... 63


3.1. Quan điểm chung ..................................................................................... 63
3.2. Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng trong việc giáo dục thế
giới quan duy vật biện chứng tại các trường Cao đẳng y tế tại
Hà Nội hiện nay ............................................................................. 70
3.2.1. Xây dựng môi trường học tập, thực tập lành mạnh ......................... 70
3.2.2. Nâng cao khả năng tự giáo dục, rèn luyện cho sinh viên ................ 71
3.2.3. Đầu tư trang thiết bị và các phương tiện vật chất phục vụ cho
việc đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy .......................... 74
3.2.4. Cần phải phối hợp tốt giữa nhà trường với các cơ sở thực tập,
thực tế của sinh viên để giáo dục thế giới quan duy vật biện
chứng cho sinh viên các trường Cao đẳng Y tế tại Hà Nội hiện
nay ................................................................................................. 80
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 85
PHỤ LỤC .......................................................................................................................... 89


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Thế giới quan duy vật biện chứng đóng vai trị hết sức quan trọng, nó
khơng chỉ là cơ sở cho việc hoạch định đường lối chính sách của mỗi quốc gia
mà nó cịn chỉ đạo hoạt động nhận thức và thực tiễn của mỗi cá nhân. Thế giới
quan duy vật biện chứng khơng hình thành một cách tự phát mà phải được
xây dựng một cách có ý thức thơng qua giáo dục.
Mục tiêu giáo dục ở nước ta trong giai đoạn hiện nay theo tinh thần
nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam khóa VII là thực hiện một nền giáo dục toàn diện gồm đức dục, trí
dục, thể dục, mỹ dục ở tất cả các bậc học, trong đó hết sức coi trọng giáo dục
chính trị, tư tưởng, nhân cách, khả năng tư duy sáng tạo và năng lực thực

hành cho học sinh, sinh viên. Tinh thần đó được phát huy trong các kỳ Đại
hội Đảng, và đặc biệt Đại hội XI tiếp tục được đề ra: "Phát triển giáo dục là
quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo
hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hố và hội nhập quốc tế,
trong đó đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán
bộ quản lý là khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào
tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực
hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục. Thực hiện
kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các bậc học. Xây dựng môi
trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và
xã hội" [11, tr.130-131].
Như vậy, nền giáo dục hiện nay của nước ta hướng đến việc tạo ra được
những con người có đầy đủ cả hai mặt: đức và tài.
Bên cạnh đó, tình hình kinh tế - chính trị trên thế giới đang có nhiều
biến động và diễn ra rất phức tạp. Ở trong nước, những tác động mạnh mẽ cả

1


tích cực lẫn tiêu cực của nền kinh tế thị trường đến mọi mặt của đời sống xã
hội, đã đặt ra nhiệm vụ phải thực hiện việc giáo dục thế giới quan duy vật
biện chứng cho thế hệ trẻ và sinh viên nói chung, và cho sinh viên các trường
Cao đẳng y tế tại Hà Nội hiện nay nói riêng. Bởi vì sinh viên thuộc nhóm xã
hội chịu sự tác động nhanh và mạnh của lối sống thực dụng được du nhập từ
nước ngoài và thực tế là một bộ phận không nhỏ sinh viên hiện nay đã dao
động về thế giới quan, biểu hiện ở sự suy thoái về đạo đức, lối sống, mơ hồ về
chính trị, phai mờ về lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Đây là bộ phận dễ bị các thế
lực thù địch lôi kéo, lợi dụng.
Đặc biệt nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển cũng tác động
mạnh mẽ đến nhân cách, y đức của cán bộ ngành y tế và sinh viên các trường

y tế. Vì vậy, trong các trường đại học và cao đẳng, các sinh viên cần được
trang bị thế giới quan duy vật biện chứng đúng đắn với tính cách là hành trang
vững bước cho họ khi trở thành một người cán bộ y tế thực sự.
Tóm lại, đây là một vấn đề có tính cấp thiết cả về mặt lý luận lẫn thực
tiễn. Chính vì vậy, tơi chọn chủ đề “Giáo dục thế giới quan duy vật biện
chứng cho sinh viên các trường Cao đẳng Y tế tại Hà Nội hiện nay” làm đề
tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Có nhiều cơng trình nghiên cứu về đề tài giáo dục thế giới quan duy vật
biện chứng, trong số đó phải kể đến các cơng trình như:
- Bun-nhông-khin-sa-mon: “Xây dựng thế giới quan duy vật biện
chứng cho đảng viên Đảng Nhân dân cách mạng Lào trong giai đoạn hiện
nay”, Luận án Phó tiến sĩ Triết học, số 48, Học viện Nguyễn Ái Quốc.
- Bùi Ngọc: “Thế giới quan khoa học một tất yếu lịch sử”, Tạp chí
Thơng tin Khoa học Xã hội, 1981, số 8.
- Ch.L.Xiếc-nốp: “Những vấn đề cấp bách của việc hình thành thế giới
quan Mác-Lênin”, Tạp chí Giáo dục Mác-Lênin, số 3-1985.
2


- Lê Xuân Vũ: “Thế giới quan Mác-Lênin trong đời sống tinh thần
nhân dân ta”, Tạp chí Cộng sản, số 6-1986.
- Bùi Ỉnh: “Vấn đề xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng đối với
cán bộ, đảng viên là người dân tộc, thiểu số trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta”, Luận án Phó tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, 1988.
- Nguyễn Trọng Chuẩn: “Một số khía cạnh về vai trò của sinh học hiện
đại đối với sự hình thành và củng cố thế giới quan khoa học”, Tạp chí Triết
học 1988, số 3.
- Trần Thước: “Sự hình thành thế giới quan xã hội chủ nghĩa ở tầng

lớp trí thức Việt Nam”, Luận án Phó tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, 1993.
- Trần Thanh Hà: “Vấn đề giáo dục thế giới quan khoa học cho cán bộ
đảng viên người dân tộc Khơ-me ở đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn
hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, 1993.
- Trần Viết Quân: “Bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở Tây Nguyên hiện nay”, Luận văn thạc sĩ
Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2002.
- Bùi Kiến Thưởng: “Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện
chứng cho học viên trường chính trị Hà Nam hiện nay”, Luận văn thạc sĩ
Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2004.
- Nguyễn Thị Luyến: “Vấn đề giáo dục thế giới quan duy vật biện
chứng cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở Hà Nội hiện nay”, Luận
văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2005.
- Lê Thị Nam An: “Giảng dạy triết học Mác-Lênin với việc giáo dục
thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở Nghệ An hiện nay”, Luận
văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2007.
3


- Lâm Văn Đồng: “Vấn đề y đức của cán bộ y tế tỉnh Nam Định trong
giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, 2008.
Mặc dù những đề tài trên đều nghiên cứu các khía cạnh khác nhau xung
quanh vấn đề này, nhưng thực tiễn ln có sự thay đổi luôn đặt ra các vấn đề
giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên trong bối cảnh hội
nhập quốc tế hiện nay. Hơn nữa, liên quan đến việc giáo dục thế giới quan
duy vật biện chứng cho sinh viên các trường Cao đẳng Y tế tại Hà Nội hiện
nay, thì cho đến nay chưa có tác giả nào nghiên cứu.

Vì vậy, luận văn thạc sĩ “Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng
cho sinh viên các trường Cao đẳng Y tế tại Hà Nội hiện nay” có thể coi là cố
gắng góp phần vào việc khắc phục tình trạng trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích của luận văn là làm rõ các vấn đề lý luận về giáo dục thế giới
quan duy vật biện chứng và thực trạng của việc giáo dục thế giới quan duy vật
biện chứng cho sinh viên các trường Cao đẳng y tế tại Hà Nội hiện nay, từ đó
đưa ra một số giải pháp cho các vấn đề thực tiễn đặt ra nhằm nâng cao chất
lượng hiệu quả của việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng tại các
trường Cao đẳng y tế tại Hà Nội hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ nghiên
cứu sau đây:
- Làm rõ rõ các vấn đề lý luận về giáo dục thế giới quan duy vật biện
chứng cho sinh viên các trường Cao đẳng Y tế tại Hà Nội hiện nay.
- Phân tích thực trạng và các vấn đề đặt ra trong việc giáo dục thế giới
quan duy vật biện chứng tại các trường Cao đẳng Y tế Hà Nội hiện nay.

4


- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của
việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng tại các trường Cao đẳng Y tế
Hà Nội hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là việc giáo dục thế giới quan duy
vật biện chứng cho sinh viên các trường Cao đẳng Y tế tại Hà Nội hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu vấn đề giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng
cho sinh viên các trường Cao đẳng y tế tại Hà Nội hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn dựa vào cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng
Hồ Chí Minh, các tác phẩm kinh điển mác xít và các cơng trình nghiên cứu
của các tác giả đi trước.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp với các phương pháp như phân
tích và tổng hợp, so sánh, logic và lịch sử, quy nạp và diễn dịch, điều tra xã
hội học...
6. Đóng góp mới của luận văn
- Làm rõ thực trạng giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng tại các
trường Cao đẳng Y tế tại Hà Nội hiện nay.
- Đề tài đưa ra một số quan điểm chung và giải pháp cơ bản nhằm nâng
cao chất lượng, hiệu quả của việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng
cho sinh viên các trường Cao đẳng Y tế tại Hà Nội hiện nay.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho cơng tác giảng dạy ở các
trường Đại học, cao đẳng ở Hà Nội hiện nay.

5


7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu làm 3 chương, 7 tiết:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về giáo dục thế giới quan duy vật
biện chứng.
Chƣơng 2: Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên các
trường Cao đẳng Y tế tại Hà Nội hiện nay: thực trạng và những vấn đề đặt ra.
Chƣơng 3: Quan điểm chung và những giải pháp nhằm nâng cao chất

lượng trong việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng tại các trường Cao
đẳng Y tế Hà Nội hiện nay.

6


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC
THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG

1.1. Thế giới quan duy vật biện chứng
1.1.1. Thế giới quan
“Giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người”, “đời sống thể xác và
tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên” [37, tr.135] vì vậy, khi
sinh ra con người ln có nhu cầu tìm hiểu về nó, người ta đã đặt ra rất nhiều
câu hỏi như: Thế giới này có nguồn gốc từ đâu? Bản chất của nó là gì? Con
người có thể nhận thức về thế giới hay khơng?... và đây chính là cơ sở hình
thành nên thế giới quan của con người.
Gắn liền với sự hình thành con người trên trái đất, thế giới quan xuất
hiện từ thời nguyên thủy. Song chỉ đến thế kỷ thứ XVIII thế giới quan mới
được Cantơ, nhà triết học người Đức đề cập đến như một khái niệm khoa học.
Các nhà triết học người Đức nửa đầu thế kỷ thứ XIX và các nhà triết học sau
này đã sử dụng khái niệm thế giới quan trong các học thuyết của mình. Trong
số này, đặc biệt phải kể đến Mác và Ăngghen, những nhà triết học đã sáng lập
một nền triết học duy vật được coi là triệt để nhất và một thế giới quan được
coi là khoa học nhất - thế giới quan duy vật biện chứng.
Trong lịch sử tư tưởng của lồi người đã có nhiều định nghĩa khác nhau
về thế giới quan. Chẳng hạn, đưa ra quan niệm về thế giới quan G.Gertx viết:
“Chúng tôi hiểu thế giới quan như một hệ thống nhất định những lời giải đáp,
những vấn đề về cội nguồn của thế giới và nguồn gốc, về ý nghĩa cuộc sống

và đặc trưng của tiến bộ xã hội” [14, tr.42]. Trong cuốn Từ điển Triết học, thế
giới quan được định nghĩa như sau: “Toàn bộ những nguyên tắc, quan điểm
và niềm tin quy định hướng hoạt động và quan hệ của từng người, của tập
đoàn xã hội, của một giai cấp hay xã hội nói chung đối với thực tại” [50,
7


tr.539]. Các nhà triết học trên thế giới quan niệm, thế giới quan ra đời, hình
thành, phát triển ln gắn với sự phát triển của thực tiễn xã hội và sự hiểu biết
thế giới của con người.
Các nhà nghiên cứu ở Việt Nam cũng đã đưa ra các quan điểm khác
nhau xung quanh khái niệm thế giới quan. Trong cuốn Từ điển Tiếng Việt,
Minh Tâm đã định nghĩa: “Thế giới quan là hệ thống những quan điểm mang
tính khái quát về thế giới nói chung, về những quy trình tự nhiên và xã hội
được thực hiện trong thế giới đó, về mối quan hệ của con người đối với hiện
thực xung quanh” [43, tr.17]. Còn theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, thế giới
quan là: “hệ thống tổng quát những quan điểm của con người về thế giới (toàn
bộ sự vật thuộc hiện tượng tự nhiên và xã hội), về vị trí con người trong thế
giới đó và về những quy tắc xử sự do con người đề ra trong thực tiễn xã hội”
[19, tr.203].
Từ các quan điểm nêu trên chúng ta có thể hiểu khái niệm thế giới quan
như sau: Thế giới quan là hệ thống những quan điểm của một người hoặc một
tập đoàn người, một giai cấp hay toàn xã hội về thế giới và về vị trí, vai trị
của con người trong thế giới, làm cơ sở cho việc định hướng các hoạt động
nhận thức, hoạt động cải tạo thế giới của họ, điều chỉnh hành vi của con
người trong cuộc sống hàng ngày.
Như vậy, thế giới quan đóng vai trị định hướng, chỉ dẫn cho hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người, đồng thời là phương thức mà
con người tự ý thức được về bản thân mình.
Trong ý nghĩa đó, thế giới quan bao hàm cả nhân sinh quan, tức là toàn

bộ những quan niệm về cuộc sống của con người hoặc cộng đồng người. Theo
Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên thì “nhân sinh quan bao
gồm lẽ sống, lối sống, lý tưởng sống của con người” [53, tr.1239]. Thế giới
quan hình thành trên cơ sở những hiểu biết của con người về tự nhiên, xã hội
và chính bản thân mình. Nó được biểu hiện qua thái độ, các hành vi, hành

8


động của chủ thể. Thế giới quan chính là lập trường sống của chủ thể. Do đó,
việc trang bị thế giới quan đúng đắn và khoa học sẽ giúp chủ thể có lập
trường tư tưởng vững vàng trước những biến động trong cuộc sống xã hội và
trước những đổi thay trong cuộc đời mình.
Thế giới quan trực tiếp phụ thuộc vào trình độ hiểu biết của con người
ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội
của một chế độ xã hội nhất định, phụ thuộc vào hệ tư tưởng thống trị trong
mỗi một chế độ xã hội. Như vậy, thế giới quan mang tính lịch sử. Trong xã
hội có phân chia giai cấp, thế giới quan có tính giai cấp sâu sắc. Trong xã hội
có đối kháng giai cấp, khơng thể có thế giới quan chung cho mọi giai cấp.
Thế giới quan có thể là thế giới quan của một cá nhân, thế giới quan
của một cộng đồng, thế giới quan của một giai cấp hoặc thế giới quan của một
xã hội. Mỗi cá nhân dù ở giai cấp, tầng lớp nào bằng vốn sống, kinh nghiệm
sống cũng có những tri thức nhất định về tự nhiên, xã hội và con người trong
thế giới xung quanh. Tri thức và niềm tin của mỗi người trong cuộc đời phát
triển đến một mức độ nhất định sẽ tạo nên lý tưởng định hướng cho hoạt động
của người đó. Các yếu tố tri thức, niềm tin, lý tưởng của mỗi người tạo thành
“cái nhìn” về cuộc đời, từ góc độ triết học gọi là thế giới quan cá nhân.
Sự hình thành thế giới quan cá nhân là quá trình lâu dài và phụ thuộc
nhiều yếu tố, nhiều điều kiện khách quan. Thế giới quan cá nhân phụ thuộc
vào trình độ hiểu biết của từng người, vào chế độ xã hội trong đó cá nhân sinh

sống, vào địa bàn sinh sống, vào điều kiện vật chất, tinh thần của mỗi cá nhân,
yếu tố giáo dục (gia đình, nhà trường, xã hội) và kinh nghiệm sống của mỗi
người. Chính vì vậy, trong cuộc đời, thế giới quan của mỗi người có thể bị
thay đổi. Vì vậy, việc giáo dục thế giới quan đúng đắn, khoa học cho mỗi cá
nhân là cần thiết trong một xã hội tiến bộ, mặt khác cần phải thường xuyên
bồi dưỡng thế giới quan đã được giáo dục bằng nỗ lực học tập, học hỏi không
ngừng để củng cố lập trường, thế giới quan đó.

9


Thế giới quan cá nhân rất phong phú, đa dạng vì mỗi người đều có “cái
tơi” riêng lẻ, mỗi người đều có một phong cách sống riêng. Nhưng cá nhân
khơng bao giờ tồn tại tách biệt với xã hội. Do đó, thế giới quan cá nhân cịn
có thế gắn liền với thế giới quan giai cấp và thế giới quan xã hội.
Thế giới quan giai cấp là hệ thống quan điểm của một giai cấp về thế
giới, về vị trí, vai trị của con người trong thế giới đó, thể hiện tư tưởng tiến
bộ hay lạc hậu của giai cấp đó so với tiến trình lịch sử.
Thế giới quan xã hội là hệ thống những quan niệm về thế giới, về vị trí
của con người trong thế giới được xây dựng trên cơ sở các phạm trù và
nguyên lý. Thế giới quan xã hội được trình bày trong học thuyết của giai cấp
đại diện cho lợi ích của đơng đảo nhân dân trong xã hội thể hiện tư tưởng, ý
chí chung của đơng đảo tồn xã hội. Thế giới quan xã hội do các nhà tư tưởng
xây dựng nên.
Cấu trúc của thế giới quan gồm ba yếu tố cơ bản, đó là tri thức, niềm
tin, lý tưởng.
Tri thức: là sự hiểu biết của con người về thế giới, là kết quả của quá
trình nhận thức thế giới. Tri thức là điều kiện cơ bản để hình thành thế giới
quan. Tri thức có nhiều loại: tri thức về tự nhiên, về xã hội và về con người.
Tuy nhiên, không phải bất cứ tri thức nào của các lĩnh vực trên cũng nằm

trong cấu trúc của thế giới quan. Những tri thức nào biểu hiện những quan
điểm, nguyên lý, nguyên tắc phổ biến về tự nhiên, xã hội và con người mới
nằm trong cấu trúc của thế giới quan.
Niềm tin: là trạng thái tâm lý trong đó có sự hịa quyện của cả tri thức,
tình cảm và ý chí. Niềm tin mang bản chất xã hội, có tính giai cấp, tính thời
đại. Niềm tin cũng phụ thuộc vào trình độ văn hóa, trình độ dân trí. Niềm tin
là một trạng thái tâm lý, gắn với tồn tại người. “Niềm tin là một nhu cầu
không thể thiếu của đời sống tinh thần con người, là một yếu tố tồn tại người,
rất trừu tượng và cũng khó xác định cụ thể. Khơng như một thực thể vật chất,

10


niềm tin tồn tại trong chiều sâu kín của ý thức, tư tưởng, tâm hồn, tình cảm
của mỗi con người” [3, tr.8]. Niềm tin có thể giúp con người vượt qua mọi trở
ngại, khó khăn, làm cho con người trở nên mạnh mẽ phi thường trước những
sóng gió cuộc đời. Nhờ có niềm tin, tri thức mới trở thành cơ sở cho hành
động; giúp con người xác định mục tiêu hành động, phương châm sống, hình
thành những hồi bão để vươn lên.
Lý tƣởng: là hình thức đặc biệt của ý thức, giúp định hướng cho hành
động của chủ thể. Đó là sự kết hợp của niềm tin và tri thức vào một tiêu chí,
mẫu hình nào đó về thế giới khách quan mà chủ thể chưa thực hiện được. Lý
tưởng giúp con người định hình được cuộc sống, sống có mục đích, có khát
vọng. Như vậy, trong ba yếu tố hình thành thế giới quan, tri thức là cơ sở trực
tiếp cho sự hình thành thế giới quan; song tri thức chỉ gia nhập vào thế giới
quan khi đã trở thành niềm tin của con người qua sự thể nghiệm lâu dài trong
cuộc sống của họ. Sự hình thành lý tưởng là sự phát triển cao của thế giới quan.
Cùng với sự phát triển của lịch sử xã hội loài người, thế giới quan được
thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, song có ba hình thức cơ bản đó là:
Thế giới quan huyền thoại, thế giới quan tôn giáo và thế giới quan triết học.

Thế giới quan huyền thoại: Là thế giới quan đặc trưng cho “tư duy
nguyên thủy”, nội dung của nó pha trộn một cách khơng tự giác giữa hai yếu
tố thực và ảo. Điều đó thể hiện qua các câu chuyện thần thoại, con người
trong xã hội cơng xã ngun thủy với trình độ nhận thức còn thấp nên đã sùng
bái các cá nhân kiệt xuất hoặc sức mạnh của tự nhiên, thần thánh hóa con
người và các hiện tượng trong tự nhiên thành các vị thần. Do đó, họ chưa
khẳng định được vai trị, vị trí làm chủ của con người đối với thế giới. Hơn
nữa, do đầu óc tưởng tượng làm cho cái thật và cái giả gắn kết với nhau, tạo
nên sự huyền ảo về thế giới hiện thực.
Thế giới quan tôn giáo: Là thế giới quan thể hiện niềm tin mãnh liệt
vào sự chi phối của lực lượng siêu tự nhiên đối với thế giới nói chung, con

11


người nói riêng. Con người quan niệm thế giới mà con người đang sống chỉ
mang tính tạm thời, là cuộc sống giả tạo mà thơi. Cịn thế giới thực mà con
người chờ đợi là thế giới sau khi con người chết đi. Do đó, con người khơng
có vai trị, vị trí gì trong thế giới hiện thực. Đặc trưng của thế giới quan tôn
giáo là đức tin cao hơn lý trí, đức tin ấy chủ yếu hướng vào một thế giới
khơng có thực, vào sức mạnh siêu nhiên.
Thế giới quan triết học là trình độ cao của thế giới quan. Nó ra đời trên
cơ sở trình độ nhận thức của con người đã đạt đến trình độ khái qt hóa, trừu
tượng hóa. Hơn nữa, thế giới quan triết học thường được các lực lượng xã hội
sử dụng để truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp mình. Thế giới quan triết học
giải quyết các vấn đề về thế giới, vị trí, vai trị của con người trong thế giới
khơng phải bằng truyền thuyết của cha ông (huyền thoại), trong niềm tin của
quyền uy (tôn giáo), mà trong các luận cứ và tư biện của lý trí. Thế giới quan
triết học là lý luận thông qua hệ thống các khái niệm, phạm trù, nguyên lý,
quy luật thể hiện quan niệm của con người về thế giới.

Trong ba hình thức cơ bản của thế giới quan nói ở trên thì thế giới quan
triết học là hình thức thế giới quan có trình độ phát triển cao hơn, sâu sắc hơn
so với thế giới quan huyền thoại và tôn giáo. Ngay từ khi mới ra đời, triết học
đã tồn tại như là một hệ thống những quan điểm lý luận chung nhất về thế
giới và về vai trò của con người trong thế giới ấy. Thực tiễn đã chứng minh
rằng, chỉ có triết học mới có thể giải quyết được những vấn đề chung nhất của
thế giới mà không một ngành khoa học cụ thể nào có thể làm được. Vì vậy,
triết học bao giờ cũng đóng vai trị hạt nhân lý luận của một thế giới quan.
Triết học là sự thể hiện cô đọng tập trung nhất thế giới quan của mỗi giai cấp,
mỗi thời đại lịch sử nhất định. Nó thể hiện chiều sâu của tư tưởng, thể hiện
trình độ cao của trí tuệ con người. Thế giới quan triết học ln giữ vai trị chủ
đạo định hướng các hành vi chính trị và đạo đức, lối sống của con người. Nó

12


giúp cho con người biết nhận thức và hành động theo mục tiêu lý tưởng của
mình.
Có thể chia thế giới quan triết học thành thế giới quan duy vật và thế
giới quan duy tâm.
Thế giới quan duy tâm thừa nhận bản chất của thế giới là tinh thần và
thừa nhận vai trò quyết định của các yếu tố tinh thần đối với thế giới nói
chung, bao gồm tự nhiên, xã hội và con người. Thế giới quan duy tâm bao
gồm thế giới quan duy tâm khách quan và thế giới quan duy tâm chủ quan.
Thế giới quan duy tâm khách quan coi cơ sở của thế giới vật chất là thế giới
tinh thần đã có trước và sinh ra thế giới các sự vật, hiện tượng. Thế giới quan
duy tâm chủ quan thì tuyệt đối hóa vai trị của cái tôi cảm giác, hay cái tôi
siêu nghiệm.
Thế giới quan duy vật thừa nhận bản chất thế giới là vật chất, thừa nhận
vai trò quyết định của vật chất đối với đời sống tinh thần và thừa nhận vị trí

của con người trong cuộc sống hiện thực. Thế giới quan duy vật có thể là thế
giới quan duy vật thời cổ đại, thế giới quan duy vật siêu hình hoặc thế giới
quan duy vật biện chứng.
1.1.2. Thế giới quan duy vật biện chứng
Trong lịch sử phát triển của triết học, cuộc đấu tranh giữa hai trường
phái triết học cơ bản là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm đã tạo nên
những cơ sở, điều kiện cho triết học ngày càng phát triển. Mỗi lần chủ nghĩa
duy vật chiến thắng chủ nghĩa duy tâm bằng lý luận của mình cũng là mỗi lần
thế giới quan duy vật được mở rộng, phát triển lên một trình độ cao hơn. Từ
thế giới quan duy vật chất phác thời kỳ cổ đại đến thế giới quan duy vật siêu
hình thời cận đại và đỉnh cao là thế giới quan duy vật biện chứng là cả một
quá trình phát triển lâu dài của thế giới quan triết học. Nhờ kế thừa những giá
trị tinh hoa của triết học trong lịch sử, đặc biệt là kế thừa có phát triển sáng
tạo hạt nhân hợp lý của triết học cổ điển Đức, Mác và Ăngghen đã sáng lập ra

13


một hệ thống triết học mới khác về chất so với các triết học trước đó. Các nhà
triết học trước Mác chỉ nhằm mục đích là giải thích thế giới, cịn triết học
Mác là cơng cụ hữu hiệu để cải tạo thế giới hiện thực. “Các nhà triết học đã
chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế
giới” [31, tr.11-12].
Nhờ sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng khoa
học, chủ nghĩa duy vật triết học của Mác là chủ nghĩa duy vật triệt để, không
chỉ trong lĩnh vực tự nhiên mà còn trong lĩnh vực xã hội. Thế giới quan duy
vật biện chứng là thế giới quan của giai cấp công nhân, giai cấp tiến bộ và
cách mạng trong thời đại chúng ta. Đó là “một thế giới quan hồn chỉnh,
khơng thỏa hiệp với bất cứ một sự mê tín nào, một thế lực phản động nào,
một hành vi nào bảo vệ sự áp bức của tư sản” [23, tr.50].

Thế giới quan duy vật biện chứng vừa có tính cách mạng, vừa có tính
khoa học. Bởi vì, nó khơng chỉ phê phán hiện thực mà cịn có mục đích cải
tạo hiện thực nữa, nó đối lập với các quan niệm bảo thủ, giáo điều, kinh viện.
C.Mác viết rằng: “Phép biện chứng đồng thời cũng bao hàm cả quan niệm về
sự phủ định cái hiện đang tồn tại đó, về sự diệt vong tất yếu của nó; vì mỗi
hình thái đã hình thành đều được phép biện chứng xét ở trong sự vận động,
tức là xét cả mặt nhất thời của hình thái đó; vì phép biện chứng khơng khuất
phục trước một cái gì cả, và về thực chất thì nó có tính chất phê phán và cách
mạng” [36, tr.36]. Sự ra đời của thế giới quan duy vật biện chứng được xây
dựng trên những tiền đề kinh tế - xã hội và tư tưởng văn hóa tiên tiến của
nhân loại, mà trực tiếp nhất là dựa trên sự phản ánh khái quát đúng đắn, đầy
đủ và sâu sắc những tư liệu do khoa học và thực tiễn mang lại. V.I.Lênin khi
phát triển quan niệm của C.Mác và Ph.Ănghen về văn hóa đã khẳng định:
“Chỉ có thế giới quan mácxít là biểu hiện đúng đắn những lợi ích, những quan
điểm và nền văn hóa của giai cấp vơ sản cách mạng” [26, tr.400].

14


Trên cơ sở phân tích sự hình thành và bản chất của thế giới quan duy
vật biện chứng, có thể khẳng định, thế giới quan duy vật biện chứng là trình
độ phát triển cao của thế giới quan triết học và cũng là trình độ phát triển cao
của thế giới quan so với tất cả các loại hình thế giới quan đã có trong lịch sử.
Vì vậy, chúng ta có thể đưa ra định nghĩa về thế giới quan duy vật biện chứng
như sau: Thế giới quan duy vật biện chứng là hệ thống những quan điểm hoàn
chỉnh về thế giới trên cơ sở những tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy, cùng
những định hướng giá trị của con người trong quan hệ với hiện thực trên cơ
sở chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng.
Những tri thức của thế giới quan duy vật biện chứng là những tri thức
khác nhau và khái quát các hoạt động thực tiễn của con người. Tri thức trong

thế giới quan duy vật biện chứng gắn liền với chủ nghĩa duy vật, phép biện
chứng, các khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Những tri thức đó góp phần
định hướng cho con người trong hoạt động cải tạo hiện thực. Đặc biệt, những
tri thức của triết học Mác-Lênin đóng vai trò nền tảng, là hạt nhân lý luận của
thế giới quan duy vật biện chứng. Điều này xuất phát từ những lý do sau đây:
Thứ nhất, triết học Mác-Lênin giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của
triết học trên cơ sở thực tiễn. Ănghen đã khái quát: “Vấn đề cơ bản lớn của
mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là mối quan hệ giữa tư duy với
tồn tại” [34, tr.403]. Theo chủ nghĩa duy vật mácxít, vật chất có trước, ý thức
có sau, vật chất suy cho cùng quyết định ý thức; mặt khác, ý thức cũng tác
động trở lại đối với vật chất. Ý thức phản ánh hiện thực khơng chỉ trong q
trình hiện thực tác động một cách giản đơn lên nó mà đặc biệt cịn trong q
trình con người cải tạo, biến đổi hiện thực. “Trong thế giới, khơng có gì ngồi
vật chất đang vận động và vật chất đang vận động khơng thể vận động ở đâu
ngồi khơng gian và thời gian” [21, tr.209-210]. Đây là quan hệ tác động hai
chiều trên cơ sở thực tiễn. Cái vật chất được “di chuyển và cải biến trong bộ
óc” thơng qua hoạt động thực tiễn. Trái lại, để tác động vào thế giới vật chất,

15


để làm biến đổi nó thì ý thức cũng phải thể hiện mình thơng qua hoạt động
thực tiễn. Theo C.Mác, ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển
vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó” [36, tr.35]. Chỉ hoạt
động thực tiễn mới có thể biến những chương trình, kế hoạch của con người
thành hiện thực vật chất. Bằng hoạt động thực tiễn, con người cải biến sự vật
trong hiện thực, cũng như trong tư tưởng.
Thứ hai, triết học Mác-Lênin là sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật
và phép biện chứng. Chủ nghĩa duy vật trước Mác thường tách rời phép biện
chứng. Điều này thể hiện rõ nhất ở chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII - XVIII. Mặt

khác, phép biện chứng cũng được phát triển bởi chủ nghĩa duy tâm, nhất là bởi
triết học duy tâm của Hêghen. Tuy là phép biện chứng duy tâm nhưng Hêghen
đã khái quát được những quy luật cơ bản của phép biện chứng, dù đó là những
quy luật tinh thần nhưng thể hiện rõ tư tưởng về vận động và phát triển. “Nền
triết học mới của Đức, Ănghen viết, đã đạt tới đỉnh cao của nó trong hệ thống
của Hêghen, trong đó lần đầu tiên - và đây là công lao to lớn của ông - toàn bộ
thế giới tự nhiên, lịch sử và tinh thần được trình bày như là một quá trình, nghĩa
là ln ln vận động, biến đổi, biến hóa và phát triển, và ông đã cố vạch ra
mối liên hệ nội tại của sự vận động và sự phát triển ấy. Theo quan điểm ấy, lịch
sử loài người [...] là một q trình phát triển của bản thân lồi người, và nhiệm
vụ của tư duy hiện nay là phải theo dõi bước tiến tuần tự của quá trình ấy qua
tất cả những khúc quanh co của nó và chứng minh tính quy luật bên trong của
nó qua tất cả những cái ngẫu nhiên bề ngồi.
Việc Hêghen khơng giải quyết được nhiệm vụ ấy, thì điều đó ở đây đối
với chúng ta cũng khơng quan trọng gì. Cơng lao lịch sử của ơng là đã đề ra
nhiệm vụ ấy” [33, tr.39-40].
Vì vậy để xây dựng triết học duy vật biện chứng, Mác đã cải tạo chủ
nghĩa duy vật siêu hình và phép biện chứng duy tâm, từ đó tạo nê n sự
thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan và phương pháp luận, giữa lý luận và

16


phương pháp, giữa thế giới quan duy vật và phép biện chứng. Như vậy, chủ
nghĩa duy vật mácxít là chủ nghĩa duy vật biện chứng, cịn phép biện chứng
mácxít là phép biện chứng duy vật. Ph.Ănghen tự nhận xét: “Có thể nói rằng
hầu như chỉ có Mác và tơi là những người đã cứu phép biện chứng tự giác
thoát khỏi triết học duy tâm Đức và đưa nó vào trong quan niệm duy vật về tự
nhiên và về lịch sử” [33, tr.22].
Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc và phát triển một cách sáng tạo những

giá trị triết học đã có trong lịch sử. Ph.Ănghen đã đưa ra định nghĩa kinh điển
về phép biện chứng như sau: “Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa
học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự
nhiên, của xã hội loài người và của tư duy” [2, tr.239].
Mỗi nguyên lý, quy luật trong phép biện chứng duy vật của chủ
nghĩa Mác-Lênin không chỉ là sự giải thích đúng đắn về tính biện chứng
của thế giới mà còn là phương pháp luận khoa học của việc nhận thức và
cải tạo thế giới. Theo các nguyên lý này thì mỗi kết cấu vật chất có mn vàn
mối liên hệ qua lại với các sự vật, hiện tượng, quá trình khác của hiện thực;
tất cả các sự vật cũng như sự phản ánh của chúng trong óc người đều ở trong
trạng thái biến đổi, phát triển không ngừng. Nguồn gốc của sự phát triển là sự
đấu tranh giữa các mặt đối lập ở ngay trong lòng sự vật. Lênin khẳng định:
“Sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập” [25, tr.379].
Phương thức của sự phát triển trên là sự chuyển hóa từ những thay đổi về
lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại, theo kiểu nhảy vọt. Còn
chiều hướng của sự phát triển là sự vận động tiến lên theo đường “xốy ốc”
chứ khơng phải theo đường thẳng. V.I.Lênin đã khái qt con đường đó như
sau: “Sự phát triển hình như diễn lại những giai đoạn đã qua, nhưng dưới một
hình thức khác, ở một trình độ cao hơn (“phủ định của phủ định”); sự phát
triển có thể nói là theo đường trôn ốc chứ không theo đường thẳng...” [24,
tr.65]. Với tư cách là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, phép

17


biện chứng khái quát những mối liên hệ phổ biến nhất, bao quát các lĩnh vực
tự nhiên, xã hội và tư duy vào các cặp phạm trù cơ bản. Đó là, các cặp phạm
trù: cái riêng và cái chung, nguyên nhân và kết quả, tất nhiên và ngẫu nhiên,
nội dung và hình thức, bản chất và hiện tượng, khẳ năng và hiện thực.
Phép biện chứng duy vật còn thống nhất với lý luận nhận thức. Theo lý

luận nhận thức mácxít, nhận thức là sự phản ánh thế giới tự nhiên bởi con
người nhưng đó khơng phải là sự phản ánh đơn giản, trực tiếp, hồn tồn mà
là một q trình nhờ đó tư duy mãi mãi và khơng ngừng tiến dần đến khách
thể. Sự tiến gần đó theo con đường mà V.I.Lênin đã tổng kết: “Từ trực quan
sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng về thực tiễn, là con
đường biện chứng của sự nhận thức chân lý khách quan” [28, tr.189]. Cơ sở,
động lực và mục đích của tồn bộ q trình này là thực tiễn; thực tiễn đồng
thời là tiêu chuẩn của chân lý. C.Mác đã từng khẳng định: “Vấn đề tìm hiểu
xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan khơng, hồn tồn
khơng phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực
tiễn mà con người phải chứng minh chân lý” [31, tr.9-10].
Thứ ba, triết học Mác-Lênin là chủ nghĩa duy vật triệt để. Bởi vì, thiếu
sót lớn nhất của chủ nghĩa duy vật trước Mác là ở chỗ nó là quan niệm duy
vật không triệt để, tức là duy vật trong tự nhiên nhưng lại duy tâm trong xã
hội. “Việc phát hiện ra quan niệm duy vật lịch sử, hay nói đúng hơn, việc áp
dụng, việc vận dụng triệt để chủ nghĩa duy vật để xem xét lĩnh vực những
hiện tượng xã hội, đã loại bỏ được hai khuyết điểm căn bản của những lý luận
lịch sử trước kia” [24, tr.68], đồng thời, “Chủ nghĩa Mác mở đường cho việc
nghiên cứu rộng rãi và tồn diện q trình phát sinh, phát triển và suy tàn của
các hình thái kinh tế xã hội” [24, tr.68] theo quan điểm duy vật, và nhờ đó thế
giới quan duy vật biện chứng trở thành tồn diện và triệt để.
Trên cơ sở đó chúng ta có nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch
sử:

18


Một là, C.Mác đã đưa ra chân lý “Không phải ý thức của con người
quyết định được sự tồn tại của họ; trái lại tồn tại xã hội của họ quyết định ý
thức của họ” [34, tr.15]. Tồn tại xã hội của con người gồm: Phương thức sản

xuất vật chất, điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân số...,
trong đó phương thức sản xuất là yếu tố cơ bản nhất, xét cho cùng quyết định
toàn bộ đời sống xã hội, quyết định sự phát triển xã hội. Ý thức xã hội là một
tính chất của đời sống xã hội, bao gồm: những quan điểm, tư tưởng cùng
những tình cảm, tâm trạng, truyền thống... nảy sinh từ tồn tại xã hội, và phản
ánh tồn tại xã hội trong giai đoạn lịch sử nhất định. Đồng thời với sự khẳng
định ấy, chủ nghĩa duy vật lịch sử cũng thừa nhận tính độc lập trong sự phát
triển của ý thức xã hội và vai trị tích cực của tư tưởng, lý luận trên trong sự
phát triển của xã hội.
Hai là, chủ nghĩa duy vật lịch sử vạch rõ rằng những mâu thuẫn giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được giải quyết bằng quá trình đấu
tranh giai cấp trong quá trình phá vỡ quan hệ sản xuất cũ và thành lập quan hệ
sản xuất mới, tiến bộ, phù hợp với lực lượng sản xuất đã lớn mạnh. Mác từng
chỉ ra rằng: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản
xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có...,
trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là
những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở
thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại
một cuộc cách mạng xã hội” [32, tr.15]. Chủ nghĩa duy vật lịch sử cũng chỉ rõ
một cách khoa học vai trò của quần chúng nhân dân trong sự phát triển của
lịch sử. Quan điểm đó dễ dẫn đến việc khẳng định vai trị lịch sử thế giới của
giai cấp cơng nhân hiện đại trong cuộc đấu tranh giải phóng lồi người khỏi
chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, đó là một
tất yếu.

19


Ba là, chủ nghĩa duy vật lịch sử nghiên cứu xã hội với tính cách là một
thể thống nhất, hồn chỉnh và vạch ra những quy luật chung và động lực của

sự phát triển xã hội. Các quy luật của xã hội cũng tồn tại khách quan độc lập
với ý thức của con người như các quy luật của tự nhiên. C.Mác khẳng định:
“Sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự
nhiên” [36, tr.21].
Quan niệm duy vật về lịch sử của Mác, đã trở thành một công cụ vĩ đại
trong hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới.
Thứ tư, triết học Mác-Lênin là thế giới quan của giai cấp cơng nhân,
nhưng lợi ích của giai cấp cơng nhân lại phù hợp với lợi ích của nhân dân lao
động. Với sự ra đời của triết học Mác, lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân lao
động có được một thế giới quan thực sự của mình. Khi đánh giá ý nghĩa thắng
lợi của chủ nghĩa Mác, V.I.Lênin đã viết rằng: “Chủ nghĩa Mác sở dĩ giành
được ý nghĩa lịch sử trên toàn thế giới về mặt hệ tư tưởng của giai cấp vơ sản
cách mạng, là vì chủ nghĩa Mác không những đã vứt bỏ những thành tựu hết
sức quý báu của thời đại tư sản, mà trái lại, cịn tiếp thu và cải tạo tất cả
những gì là quý báu trong hơn hai nghìn năm phát triển của tư tưởng và văn
hóa nhân loại” [26, tr.400]. Đó là thế giới quan khoa học và cách mạng, là vũ
khí tư tưởng trong cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp cơng nhân, nhân dân lao
động và tồn thể nhân loại khỏi áp bức, bóc lột. Chính thế giới quan duy vật
biện chứng, “nó cung cấp cho lồi người và nhất là giai cấp công nhân những
công cụ nhận thức vĩ đại” [26, tr.361].
Như vậy, thế giới quan duy vật biện chứng phản ánh đúng đắn hiện
thực khách quan, đem đến một cách nhìn hồn tồn mới mẻ về con người,
khẳng định con người là chủ thể sáng tạo ra lịch sử, khẳng định khẳ năng tự ý
thức về vai trò và vị trí của con người trong hiện thực, khẳng định khả năng
cải tạo tự nhiên và xã hội của con người. Do đó, thế giới quan duy vật biện
chứng chính là vũ khí tinh thần sắc bén của giai cấp công nhân và nhân dân

20



×