Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

(Luận văn thạc sĩ) thế giới nghệ thuật thơ trần huyền trân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (783.92 KB, 95 trang )

Lê Thị Hoa

Thế giới nghệ thuật thơ Trần Huyền Trân

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------

LÊ THỊ HOA

THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT THƠ TRẦN HUYỀN TRÂN

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Hà Nội – 2015

1


Lê Thị Hoa

Thế giới nghệ thuật thơ Trần Huyền Trân

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------

LÊ THỊ HOA

THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT THƠ TRẦN HUYỀN TRÂN


LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Lƣu Khánh Thơ

Hà Nội – 2015

2


Lê Thị Hoa

Thế giới nghệ thuật thơ Trần Huyền Trân

LỜI CẢM ƠN
Luận văn được hoàn thành tại Khoa Văn học – Trường Đại học Khoa
học xã hội và nhân văn. Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Lưu Khánh Thơ
đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và động viên em trong suốt quá trình nghiên
cứu để thực hiện luận văn này!
Em xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy, cô giáo trong Khoa Văn học và
các anh chị trong phòng Đào tạo sau đại học - Trường Đại học Khoa học xã
hội và nhân văn đã giảng dạy, trang bị cho em những nền tảng kiến thức bổ
ích, giúp đỡ em hồn thành khóa học và tạo điều kiện để em nghiên cứu, thực
hiện đề tài và được tiến hành bảo vệ luận văn.
Cuối cùng em xin cảm ơn gia đình, đơn vị cơng tác, người thân và bạn
bè đã giúp đỡ, động viên, khuyến khích, tạo điều kiện về thời gian, giúp đỡ về
mọi mặt trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu để em hồn thành được
bản luận văn!
Với trình độ và kiến văn cịn hạn chế của người viết, luận văn chắc

chắn không tránh khỏi khiếm khuyết. Tác giả luận văn mong muốn sẽ nhận
được những nhận xét, góp ý của các thầy cơ, các nhà nghiên cứu và những
người có quan tâm đến vấn đề được thực hiện trong luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 26/10/2015
Tác giả luận văn

3


Lê Thị Hoa

Thế giới nghệ thuật thơ Trần Huyền Trân

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài ...............................................................................3
2. Lịch sử vấn đề ...................................................................................4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .....................................................9
4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................10
5. Cấu trúc luận văn ............................................................................11
NỘI DUNG ....................................................................................................12
Chƣơng 1: Trần Huyền Trân và thi phái “áo bào gốc liễu”......................12
1.1.

Vài nét về cuộc đời, sự nghiệp và quá trình sáng tạo thơ ca của
Trần Huyền Trân ........................................................................12
1.1.1. Cuộc đời ..........................................................................12
1.1.2. Sự nghiệp văn học và quá trình sáng tạo thơ ca của Trần
Huyền Trân ......................................................................13


1.2.

Trần Huyền Trân và thi phái “áo bào gốc liễu” .........................15

Chƣơng 2: Những nguồn cảm hứng chủ đạo và sự thể hiện cái tơi trữ tình
trong thơ Trần Huyền Trân ........................................................................21
2.1. Những nguồn cảm hứng chủ đạo ..................................................23
2.1.1. Hiện thực cuộc sống nơi “lều gianh Cống Trắng”..........23
2.1.2. Tình cảm gia đình, bạn bè, tình u đơi lứa ....................28
2.1.3. Hiện thực Cách mạng ......................................................34
2.2. Cái tơi trữ tình trong thơ Trần Huyền Trân ...................................43

4


Lê Thị Hoa

Thế giới nghệ thuật thơ Trần Huyền Trân

2.2.1. Cái tôi cảm khái, bi phẫn, trăn trở, băn khoăn nhưng tràn
đầy ước vọng trước thời cuộc .........................................................................43
2.2.2. Cái tôi cảm thơng với những thân phận bất hạnh, chứa
chan tình u con người .................................................................................51
2.2.3. Cái tơi lãng mạn, đa tình .................................................54
Chƣơng 3: Một số phƣơng diện nghệ thuật thơ Trần Huyền Trân
............... ………………………………………………………………….... 61
3.1. Ngôn ngữ thơ ................................................................................61
3.1.1. Ngôn ngữ đời sống ...........................................................61
3.1.2. Ngôn ngữ bác học, cổ điển, tượng trưng .........................64

3.2. Thể thơ ..........................................................................................66
3.2.1. Thể thơ bảy chữ ...............................................................66
3.2.2. Thể thơ lục bát .................................................................67
3.2.3. Thể thơ tự do ....................................................................72
3.3. Giọng điệu thơ ...............................................................................73
3.3.1. Giọng điệu cảm khái, bi phẫn ..........................................73
3.3.2. Giọng điệu xót xa, đau đớn ..............................................77
3.3.3. Giọng điệu đằm thắm, dịu dàng .......................................81
KẾT LUẬN ...................................................................................................84
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...........................................................................87

5


Lê Thị Hoa

Thế giới nghệ thuật thơ Trần Huyền Trân

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trần Huyền Trân (1913-1989) tên thật là Trần Đình Kim. Bạn bè
thường gọi ơng là Trần Kim mà khơng dùng tên đệm. Ơng là một nhà thơ
sáng tác ở cả hai thời kỳ trước và sau cách mạng và có cống hiến khơng nhỏ
đối với nền thơ ca dân tộc. Nhà thơ Hữu Thỉnh đã từng nhấn mạnh: “Thành
tựu của Trần Huyền Trân đóng góp cho nghệ thuật Việt Nam là rất lớn. Thơ
của ông so với Chế Lan Viên, Huy Cận, Xuân Diệu… không thua kém, song
việc có nhiều ý kiến đánh giá chưa hết những đóng góp của ơng trong lĩnh
vực văn học nghệ thuật, trong hoạt động cách mạng, nhất là văn hóa cứu quốc
là một thiếu sót.” Thế nhưng, cho đến nay, sự nghiệp thơ ca của ơng vẫn chưa
được tìm hiểu một cách thỏa đáng. Chính vì vậy, luận văn này ra đời với

mong muốn góp một phần vào việc khẳng định giá trị nghệ thuật thơ Trần
Huyền Trân với độc giả.
Trần Huyền Trân khơng phải là tác giả có một sự nghiệp văn học đồ sộ
nhưng là tác giả của nhiều tác phẩm có giá trị ở nhiều thể loại khác nhau.
Riêng trên lĩnh vực thơ ca, ơng có đóng góp khơng nhỏ cho nền thơ ca Việt
Nam hiện đại, cả về phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Tác phẩm
thơ của Trần Huyền Trân chủ yếu được in trong tập thơ Rau tần (1986). Đến
năm 2001, Nhà xuất bản Văn học đã xuất bản cuốn Thơ Trần Huyền Trân
tuyển tập sưu tầm đầy đủ tất cả các bài thơ của nhà thơ. Tuy cùng “hội tam
anh” với Thâm Tâm và Nguyễn Bính nhưng có thể nói, so với những người
bạn của mình, đóng góp của Trân Huyền Trân cho Thơ Mới và văn học Việt
Nam vẫn chưa được nhìn nhận một cách xứng đáng.
Thế giới nghệ thuật chính là tính chỉnh thể, thống nhất của sáng tác
nghệ thuật của tác phẩm hay tác giả được hình thành nên từ quan niệm của
chính tác giả về thế giới. Nghiên cứu thế giới nghệ thuật là để tìm hiểu quy

6


Lê Thị Hoa

Thế giới nghệ thuật thơ Trần Huyền Trân

luật sáng tạo của chủ thể, những tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, suy nghĩ chủ
đạo chi phối đến tác phẩm của các tác giả.
Từ việc khảo sát và nghiên cứu thế giới nghệ thuật thơ Trần Huyền
Trân, chúng ta sẽ thấy được những nét lớn độc đáo và đặc sắc nhất của thơ
ông, nhất là về cảm hứng chủ đạo, cái tơi trữ tình và phong cách nghệ thuật
của nhà thơ trong mối quan hệ với phong trào Thơ Mới đương thời nói chung
và trong mối liên hệ, so sánh với thi phái “áo bào gốc liễu” nói riêng. Qua đó,

khẳng định những đóng góp của ơng cho thơ Việt Nam hiện đại.
Chính từ những lí do trên, luận văn này ra đời nhằm mục đích góp một
tiếng nói vào việc nhìn nhận và đánh giá những tác phẩm thơ Trần Huyền
Trân một cách đầy đủ toàn diện hơn. Mặt khác, chúng tơi cũng muốn khẳng
định vị trí của nhà thơ trong làng thơ Việt Nam hiện đại. Vì vậy, chúng tôi
chọn đề tài Thế giới nghệ thuật thơ Trần Huyền Trân làm đề tài nghiên cứu
cho luận văn của mình trên cơ sở tiếp thu các ý kiến nhận xét, đánh giá của
những người nghiên cứu đi trước để nhằm góp thêm một cái nhìn khái qt về
thơ Trần Huyền Trân. Đồng thời, chúng tôi cũng hi vọng rằng, sau khi đề tài
này được nghiên cứu thành công, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo hữu
ích trong việc học tập và giảng dạy thơ Việt Nam hiện đại nói chung và phong
trào Thơ Mới cũng như tác giả Trần Huyền Trân nói riêng.
2. Lịch sử vấn đề
Chặng đường thơ Trần Huyền Trân kéo dài từ những năm trước Cách
mạng tháng Tám – 1945 cho đến thời kỳ đất nước đổi mới và chỉ dừng lại khi
ông qua đời năm 1989. Tác phẩm cuối cùng của ông là bài thơ “Tặng khoa
ngoại”, được viết năm 1988 khi ông chữa bệnh ở bệnh viện Hữu Nghị. Có thể
nói rằng, đây là một quãng đường rất dài, xuyên suốt cuộc đời tác giả, trải qua
rất nhiều biến động của lịch sử dân tộc, từ khi đất nước cịn nơ lệ dưới chế độ
của Thực dân Pháp cho đến khi giành độc lập, thống nhất và bắt tay vào công

7


Lê Thị Hoa

Thế giới nghệ thuật thơ Trần Huyền Trân

cuộc xây dựng, đổi mới đất nước. Trong suốt quãng đường dài đó, Trần
Huyền Trân sáng tác khơng ngừng nghỉ ở nhiều thể loại văn học: thơ, truyện

ngắn, tiểu thuyết, kịch, kịch thơ, chèo.
Riêng trên lĩnh vực thơ ca, suốt một chặng đường dài như vậy nhưng
gần như thế giới nghệ thuật thơ Trần Huyền Trân khơng có nhiều biến đổi,
ơng sử dụng một phong cách thơ đồng nhất trong suốt quá trình sáng tác của
mình. Mặc dù vậy, cho đến nay, vẫn chưa có cơng trình nghiên cứu nào
nghiên cứu chuyên sâu về thơ Trần Huyền Trân, về thế giới nghệ thuật thơ
ơng lại càng khơng có. Ơng chỉ được nhắc đến trong một số sách nghiên cứu
và các trang báo, tạp chí. Theo thống kê của chúng tơi, cho đến nay, mới chỉ
có khoảng 20 bài viết in trên sách, báo, tạp chí và mạng internet nghiên cứu,
đánh giá thơ Trần Huyền Trân. Có lẽ ấn phẩm “Thơ Trần Huyền Trân tuyển
tập” năm 2001 của Nhà xuất bản Văn học là tuyển tập đầy đủ nhất về thơ ông,
đồng thời cũng trong tuyển tập này, Ban biên soạn đã trích dẫn một số ý kiến
nhận xét, đánh giá, phê bình thơ Trần Huyền Trân của các nhà nghiên cứu
thay cho lời cuối sách.
Hoài Thanh và Hoài Chân là hai nhà phê bình đầu tiên có những thẩm
định, đánh giá về thơ Trần Huyền Trân. Tuy vậy, lúc đó, Trần Huyền Trân
mới bắt đầu sự nghiệp sáng tác thơ ca của mình nên số lượng tác phẩm cũng
chưa nhiều. Năm 1940 - 1941, cuốn Thi nhân Việt Nam được hoàn thành có
nghĩa là Hồi Thanh và Hồi Chân mới chỉ có thể đọc được 24/99 bài thơ của
Trần Huyền Trân. Chính vì vậy có thể khẳng định rằng những đánh giá của
Hoài Thanh và Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam đối với thơ Trần Huyền
Trân sẽ không thể đầy đủ và hồn chỉnh được. Đó mới chỉ là một phần của
thơ ông trước Cách mạng Tháng Tám - 1945.

8


Lê Thị Hoa

Thế giới nghệ thuật thơ Trần Huyền Trân


Tác giả Thi nhân Việt Nam khẳng định “Trần Huyền Trân, con người
có tên lạ ấy khơng phải là một thiên tài.” Ý kiến này đúng ở nhiều phương
diện, Trần Huyền Trân không phải một nhà thơ mới được đông đảo nhiều
người biết đến như Xuân Diệu, Huy Cận hay Thế Lữ... , ơng cũng khơng phải
là nhà thơ có số lượng lớn các tác phẩm, càng không phải một nhà thơ có
nhiều bài thơ tiêu biểu của thời ấy. Nhưng chính những điều này có lẽ lại là lý
do để Hồi Thanh “mở cửa” đón Trần Huyền Trân bởi thơ ơng cũng có những
nét độc đáo riêng của mình. Tác giả Thi nhân Việt Nam “ưa những vần thơ
hiền lành và ít nói u đương” của Trần Huyền Trân. Quan điểm này của
Hồi Thanh rất chính xác. Trong khi hầu hết các nhà thơ mới say đắm với tình
yêu, với thiên nhiên thì Trần Huyền Trân ít khi viết về đề tài này. Ơng “tìm
thi hứng, hoặc trong những cảnh đời buồn bã ... hoặc trong cảnh đồng quê”.
Hoài Thanh đã nhận xét: “Thơ Trần Huyền Trân không xuất sắc lắm. Nhưng
sau khi đọc hoài những câu rặt anh anh em em tơi đã tìm thấy ở đây cái thú
của người đi đổi gió”. Thế có nghĩa là thơ Trần Huyền Trân có một sự khác
biệt lớn đối với phần chung của bức tranh thơ mới lãng mạn và Hoài Thanh là
người đã sớm nhận ra sự khác biệt ấy và dành cho nhà thơ một niềm ưu ái
không nhỏ. Tuy chỉ được dành chưa đầy hai trang giấy trong Thi nhân Việt
Nam và cũng chưa được Hồi Thanh trích dẫn đầy đủ bài thơ nào nhưng là
một trong số 46 nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ Mới cũng đủ để
khẳng định vị trí của Trần Huyền Trân. Đó chính là lý do vì sao Hồi Thanh
lại phải thêm Trần Huyền Trân vào những trang cuối của Thi nhân Việt Nam :
“Viết đến đây tôi đã định khép cửa lại, dầu có thiên tài đến gõ cũng khơng
mở. Thế mà lại phải mở cửa để đón một nhà thơ nữa: Trần Huyền Trân” [51,
tr.374].
Trong cuốn Việt Nam thi nhân tiền chiến (Quyển hạ), nhà nghiên cứu
Nguyễn Tấn Long đã lý giải con đường thơ của Trần Huyền Trân. Ông nhận

9



Lê Thị Hoa

Thế giới nghệ thuật thơ Trần Huyền Trân

định rằng, chính cuộc sống nghèo khổ, bươn chải nơi “lều gianh Cống Trắng”
của Trần Huyền Trân đã tạo nên “nỗi niềm u uẩn” cũng như tâm trạng cảm
khái, bi phẫn trước thời cuộc, từ đó tạo nên đề tài xã hội trong thơ ông. Trần
Huyền Trân bất lực trước hiện thực đời sống nhưng đã nhanh chóng nhận ra
con đường giải phóng cho tâm hồn mình, con đường Cách mạng để từ đó
những bài thơ hay về cuộc chiến đấu của nhân dân ta được ra đời.
Tiến sỹ Nguyễn Phan Cảnh, Phạm Thị Hòa trong bài Trần Huyền Trân
– Nhà thơ kết thúc phong trào thơ mới 1930 – 1945 in trên Báo Sài Gịn giải
phóng đã có những nhận định hết sức đáng quý về thơ Trần Huyền Trân. Hai
tác giả đã khẳng định được đóng góp của nhà thơ đối với phong trào Thơ
Mới, đó là nội dung xã hội, tính chất hiện thực của thơ; về mặt nghệ thuật,
ơng có những sáng tạo độc đáo về ngơn ngữ và thể thơ, đặc biệt là thể thơ lục
bát.
Trong Trần Huyền Trân tài hoa và bất hạnh, nhà nghiên cứu Hồi Việt
phân tích tâm trạng bi phẫn, cái ngang tàng của thơ Trần Huyền Trân thể hiện
qua một số bài thơ và nhận xét “Trần Huyền Trân làm thơ khơng nhiều,
nhưng có khá nhiều bài hay, câu hay. Có vị ngọt mật ong, cái say của “bồ đào
mỹ tửu””.
Giáo sư Hồng Như Mai là một trong số ít những nhà nghiên cứu quan
tâm và đánh giá cao đóng góp của thơ Trần Huyền Trân đối với văn thơ Việt
Nam hiện đại. Giáo sư đã chỉ những nét lớn nhất trong thơ Trần Huyền Trân
qua việc phân tích, cảm nhận hai bài thơ “Độc hành ca” và “Cái thai hoang”.
Hai bài thơ trên là tiêu biểu cho phong cách thơ Trần Huyền Trân. “Độc hành
ca” là tâm trạng của Trần Huyền Trân cũng như tâm trạng chung của nhiều

thế hệ đương thời. Đó là là “tiếng rên rỉ của đồng bào đói khổ, hấp hối, nghe
thấy lời trách mắng kêu gọi của non sơng quằn quại trong xiềng xích”. Họ bế

10


Lê Thị Hoa

Thế giới nghệ thuật thơ Trần Huyền Trân

tắc, mị mẫm trong việc tìm ra con đường giải thốt mình khỏi cảnh tù túng
ấy. Nhà nghiên cứu đã khẳng định “Bài thơ Độc hành ca của thi sỹ Trần
Huyền Trân là một bài tuyên ngôn của một thế hệ văn nghệ sỹ lãng mạn tuyên
bố cáo chung cho một thời kỳ sáng tác và khởi đầu một thời kỳ sáng tác. Một
thế hệ cầm bút thức tỉnh quay lưng lại với quá khứ mơ mộng, hão huyền, âm
u, lang thang không định hướng bên lề cuộc sống của đồng bào, của dân tộc
và ngẩng đầu, tuy bước chân còn run rẩy, hăng hái tiến về phía một phương
trời hứa hẹn nắng mới.”
Bài thơ Cái thai hoang là một ẩn dụ của Trần Huyền Trân về dân tộc,
đất nước, thể hiện nỗi đau của nhà thơ trước hiện thực nô lệ của nhân dân.
Nhà thơ lên án sự tàn bạo, độc ác của quân xâm lược, đồng thời thể hiện khát
vọng mãnh liệt được hành động để phá tan xiềng xích ấy. Câu thơ cuối bài:
Ta – bậc thang đời con giẫm lên “là lời cam kết danh dự” của thế hệ văn nghệ
sỹ Cách mạng thời bấy giờ.
Nhà văn Tơ Hồi trong bài viết Trần Huyền Trân – Đường thơ, đường
đời và nhà thơ Nguyễn Đình Thi trong bài viết Trần Huyên Trân với tập thơ
Rau tần đã ghi lại một số những kỷ niệm, ấn tượng của nhà văn đối với nhà
thơ Trần Huyền Trân, đồng thời cũng đã ghi lại một số nét lớn trong cuộc đời
nhà thơ đã tác động đến các sáng tác của ông.
Nhà nghiên cứu văn học Lưu Khánh Thơ trong Thơ và một số gương

mặt thơ Việt Nam hiện đại – NXB Khoa học xã hội, 2005 cũng đã có bài Trần
Huyền Trân – nhà thơ “vẩy bút làm mưa gió” đã đưa ra một số nhận định của
mình về thơ ơng. Trong đó khẳng định: “Cái tinh anh của Trần Huyền Trân
trong thơ đã phát tiết đúng độ của nó rồi. Cái tài hoa của thơ ông cũng đã đạt
đến cõi. Cái bản sắc, giọng điệu riêng của ông cũng đã định hình” [55, tr.
210, 211]. Lưu Khánh Thơ trong bài nghiên cứu này cũng đã chỉ ra và phân

11


Lê Thị Hoa

Thế giới nghệ thuật thơ Trần Huyền Trân

tích khá sâu sắc nét độc đáo của thơ Trần Huyền Trân. Đó là tâm trạng cảm
khái và đó cũng là lời giải thích vì sao Hồi Thanh phải “mở cửa” đón ơng
vào Thi nhân Việt Nam.
Ngồi các bài viết, nghiên cứu trên, còn một số bài viết của một số nhà
nghiên cứu như Tô Hà, Vũ Quần Phương, Nguyễn Thụy Kha, Nguyễn Sỹ Đại
... phân tích, cảm nhận về thơ Trần Huyền Trân. Tuy nhiên, những bài viết
này thường chỉ gói gọn với dung lượng nhỏ, bàn về một hay một số bài thơ
của Trần Huyền Trân với một khía cạnh, góc độ nhất định của thơ ơng.
Qua các bài nghiên cứu, phê bình thơ Trần Huyền Trân nêu trên, ta có
thể nhận thấy rằng các tác giả cũng đã có những đóng góp nhất định trong
việc phát hiện ra một số đặc điểm về nội dung, nghệ thuật nổi bật của thơ ơng.
Nhưng nhìn chung những tìm hiểu về thơ Trần Huyền Trân chưa nhiều và
chưa toàn diện, các bài viết mới đi vào tìm hiểu một hay một vài bài thơ hoặc
chỉ dừng lại nghiên cứu một khía cạnh, một mặt nào đó trong thơ ơng, chưa
có cơng trình nào đi sâu nghiên cứu, khảo sát tồn diện và có hệ thống về thơ
ơng để từ đó rút ra những đặc điểm khái quát về nội dung tư tưởng, nghệ thuật

thơ Trần Huyền Trân. Tuy nhiên đây là những nhận định, đánh giá hết sức
đáng quý, gợi mở cho chúng tơi một cái nhìn bao qt về cuộc đời và thơ
Trần Huyền Trân. Đồng thời đó cũng là cơ sở để chúng tôi làm tư liệu cho
việc thực hiện luận văn này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1.

Đối tượng nghiên cứu

Trần Huyền Trân là tác giả ở nhiều thể loại nghệ thuật khác nhau
như thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch, chèo... nhưng với đề tài này, luận văn
chỉ nghiên cứu thế giới nghệ thuật trong thơ ông. Vì vậy, đối tượng nghiên
cứu của luận văn bao gồm toàn bộ sáng tác thơ Trần Huyền Trân bao gồm 99

12


Lê Thị Hoa

Thế giới nghệ thuật thơ Trần Huyền Trân

bài thơ, được tuyển tập đầy đủ trong “Thơ Trần Huyền Trân tuyển tập” của
NXB Văn học năm 2001.
3.2.

Phạm vi nghiên cứu

Luận văn tìm hiểu thế giới nghệ thuật thơ Trần Huyền Trân trong suốt
chặng đường sáng tác thơ ca của ông từ trước Cách mạng Tháng Tám – 1945
cho đến những tác phẩm ông sáng tác thời kỳ cuối đời. Ngồi ra chúng tơi cịn

khảo sát thơ của một số nhà thơ khác của phong trào Thơ Mới trong sự so
sánh đối chiếu để làm nổi rõ hơn những đặc sắc trong thế giới nghệ thuật thơ
Trần Huyền Trân.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1.

Phương pháp thống kê

Trong luận văn này, chúng tôi đã sử dụng phương pháp thống kê các để
khẳng định những nét lớn trong thế giới nghệ thuật thơ Trần Huyền Trân, tìm
ra những nét đặc sắc về nguồn cảm hứng chủ đạo cũng như cái tơi trữ tình của
thơ ông.
4.2.

Phương pháp hệ thống

Xuất phát từ quan niệm thế giới nghệ thuật là một chỉnh thể, vì vậy
chúng tơi đặt toàn bộ các sáng tác thơ của Trần Huyền Trân trong một hệ
thống hồn chỉnh để nhận ra tính liên tục và thống nhất của các tác phẩm thơ
ông.
4.3.

Phương pháp phân tích – tổng hợp

Đây là phương pháp cơ bản và phổ biến trong nghiên cứu văn học nói
chung. Chúng tơi vận dụng phương pháp này để phân tích câu thơ, khổ thơ,
đoạn thơ, bài thơ có tính chất tiêu biểu, điển hình để minh họa cho các luận
điểm của luận văn. Qua tập trung và tìm hiểu những quan điểm, cách hiểu về
thơ Trần Huyền Trân, khám phá và khẳng định những nét độc đáo nhất của


13


Lê Thị Hoa

Thế giới nghệ thuật thơ Trần Huyền Trân

thế giới nghệ thuật thơ ông. Tổng hợp kết quả phân tích để chứng minh cho
các luận điểm đó.
4.4.

Phương pháp so sánh, đối chiếu

Chúng tôi tiến hành so sánh, đối chiếu thơ Trần Huyền Trân với thơ
của thi phái “áo bào gốc liễu” nói riêng và thơ Mới nói chung để tìm ra những
nét đặc sắc nhất của thơ ơng. Mục đích của việc sử dụng phương pháp so sánh
là để khẳng định nét độc đáo, đặc sắc của thế giới nghệ thuật thơ Trần Huyền
Trân. Từ đó, khẳng định vị trí, vai trị của thơ ơng trong làng thơ Việt Nam
hiện đại.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn được triển khai trong ba chương:
Chương 1: Trần Huyền Trân và thi phái “áo bào gốc liễu”
Chương 2: Những nguồn cảm hứng chủ đạo và cái tôi trữ tình trong thơ
Trần Huyền Trân
Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật thơ Trần Huyền Trân

14



Lê Thị Hoa

Thế giới nghệ thuật thơ Trần Huyền Trân

NỘI DUNG
Chƣơng 1:
TRẦN HUYỀN TRÂN VÀ THI PHÁI “ÁO BÀO GỐC LIỄU”
1.1.

Vài nét về cuộc đời, sự nghiệp và quá trình sáng tạo thơ ca của
Trần Huyền Trân

1.1.1. Cuộc đời
Trần Huyền Trân tên thật là Trần Đình Kim, sinh ngày 13 tháng 9 năm
1913 tại Hà Nội. Quê quán của nhà thơ ở làng Giang, xã Nhân La, huyện Ân
Thi, tỉnh Hưng n. Ơng xuất thân trong một gia đình nghèo, cha mất sớm
năm ông 13 tuổi. Mẹ ông rất nghèo, chỉ có một cái vó kéo cá kiếm sống qua
ngày. Chính vì vậy, ơng có một tuổi thơ hết sức vất vả: học trung học đến
năm thứ hai phải bỏ học và làm đủ nghề để kiếm sống: thợ nguội, thợ chiếu
phim, dạy học tư, làm báo, viết văn, lập đoàn kịch…
Trước Cách mạng tháng Tám 1945, Trần Huyền Trân làm thơ, viết báo,
viết văn cho Nhà xuất bản Tân Dân, Tiểu thuyết Thứ bảy, đã từng làm chủ bút
báo Bắc Hà, lập đoàn kịch... nhưng những nghề này hầu như khơng đủ để
ni sống nhà thơ và gia đình. Tờ báo Bắc Hà cũng chỉ tồn tại được một thời
gian ngắn do không tiêu thụ được.
Trần Huyền Trân đã sớm tham gia Mặt trận Việt Minh và Hội Văn hóa
Cứu quốc, Báo Cờ Giải phóng, tạp chí Tiên phong (1943). Năm 1945, ơng
tham gia cướp chính quyền tại Hà Nội và hoạt động tích cực trong phong trào
Cách mạng Việt Nam. Trong thời gian này, ông phụ trách công tác kiểm
duyệt của Ban tuyên truyền ca kịch – Sở thông tin tuyên truyền Bắc Bộ và trở

thành Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam vào tháng 7 năm 1946. Trong
kháng chiến, ông làm Trưởng ban ca kịch nha Thông tin Việt Nam, phụ trách
ngành kịch Đồn văn cơng Trung ương.

15


Lê Thị Hoa

Thế giới nghệ thuật thơ Trần Huyền Trân

Hòa bình lập lại, Trần Huyền Trân về Ban Sân khấu – Vụ Nghệ thuật
phụ trách ngành chèo, đồng thời làm cơng tác chỉ đạo nghệ thuật, đạo diễn
đồn kịch nói Hà Nội. Sau đó, ơng về làm việc tại Sở Văn hóa Hà Nội, Hội
Nghệ sỹ Sân khấu Việt Nam. Ông là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Ủy
viên thường vụ Hội Nghệ sỹ Sân khấu Việt Nam, Ủy viên thường vụ Hội Văn
học nghệ thuật Hà Nội.
Trần Huyền Trân mất ngày 22 tháng 4 năm 1989 tại Hà Nội do mắc
bệnh hiểm nghèo.
Năm 2007, Trần Huyền Trân được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về
văn học nghệ thuật.
1.1.2. Sự nghiệp văn học và quá trình sáng tạo thơ ca của Trần
Huyền Trân
Trần Huyền Trân là tác giả có sức sáng tạo bền bỉ. Ông bắt đầu làm thơ,
viết truyện từ năm 20 tuổi và sớm được độc giả biết đương thời biết đến nhiều
bài thơ, truyện ngắn. Các tác phẩm ông để lại cho kho tàng văn học Việt Nam
rất đa dạng, phong phú về thể loại: thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch, kịch
thơ, chèo.
- Trước năm 1945
Bút danh Trần Huyền Trân được độc giả biết đến chủ yếu là một nhà

thơ. Tuy nhiên, trong suốt cuộc đời mình, ơng chỉ dành cho thơ khoảng thời
gian rất ngắn ngủi, khoảng bảy, tám năm, chủ yếu là từ năm 1939 đến 1946.
Trong tổng số 99 bài thơ để lại cho nền thơ ca Việt Nam thì có đến 54 bài thơ
ông sáng tác trong giai đoạn này. Thơ ông thời kỳ này mang những nét đặc
trưng nhất cho cả cuộc đời sáng tác thơ Trần Huyền Trân, sức sáng tạo cũng
dồi dào nhất, như nhà nghiên cứu Lưu Khánh Thơ đã khẳng định: “Cái tinh
anh của Trần Huyền Trân trong thơ đã phát tiết đúng độ của nó rồi. Cái tài
hoa của thơ ông cũng đã đạt đến cõi. Cái bản sắc, giọng điệu riêng của ông

16


Lê Thị Hoa

Thế giới nghệ thuật thơ Trần Huyền Trân

cũng đã định hình”. Chính vì lý do trên, trong luận văn này, chúng tôi đã chia
con đường sáng tác thơ của Trần Huyền Trân thành hai giai đoạn như vậy.
- Sau 1945:
Từ sau năm 1945 trở đi, hoạt động sáng tác văn học chủ yếu của Trần
Huyền Trân là ở lĩnh vực sân khấu. Ơng ít sáng tác thơ hơn thời kỳ trước
(trong hơn 40 năm ông sáng tác 45 bài thơ). Nhưng những bài thơ của ông
vẫn chứa chan tình người, tình đời, vẫn là một mạch cảm xúc nối dài từ thời
kỳ trước Cách mạng.
Trần Huyền Trân là nghệ sỹ có sự nghiệp văn học hết sức phong phú ở
nhiều lĩnh vực: tiểu thuyết, thơ, sáng tác kịch bản sân khấu, đạo diễn sân
khấu, hoạt động báo chí. Các tác phẩm chính của Trần Huyền Trân đã xuất
bản gồm:
Thơ:
- Rau tần – thơ – 1986

- Trần Huyền Trân – Rau tần – 1995
- Thơ mới – 1932 – 1945 (in chung).
- Thơ Trần Huyền Trân tuyển tập – 2001.
Văn:
 Truyện ngắn:
- Chim lồng (Tập truyện ngắn)
- Lẽ sống (Tập truyện ngắn)
-

Phát súng lục, Bài thơ trong chiếc chiến bào, Người trong lau...

 Tiểu thuyết:
- Kẻ phụ tình (1939)
- Sau ánh sáng (1940)
- Bóng người trên gác kinh (1940)
- Tấm lòng người kỹ nữ (1940)

17


Lê Thị Hoa

Thế giới nghệ thuật thơ Trần Huyền Trân

- Người ngàn thu cũ (1942)
Sân khấu:
 Kịch: Phá xiềng, 19-8 (viết chung với Thâm Tâm), Con trâu hai nhà
(đạo diễn), Cái máy chém (đạo diễn), Bài bích báo (đạo diễn),
Đường dây chiến thắng (đạo diễn), Giờ phút quyết định (đạo diễn)...
 Kịch thơ: Lên đường (tác giả), Hoàng Văn Thụ (tác giả), Lam Sơn tụ

nghĩa (đạo diễn), Sơn Tinh – Thủy Tinh (tác giả).
 Chèo:
- Sưu tầm, cải biên, chỉnh lý các vở chèo cổ: Vân dại (kiêm đạo diễn),
Quan âm Thị Kính (kiêm đạo diễn), Trương Viên.
- Ngơi nhà mới (tác giả), Người con dâu (tác giả), Vườn cam (đạo
diễn), Những cô thợ dệt (viết chung với Việt Dung, Xn Bình, Cao
Kim Điển), Tiếng hát bên nơi (tác giả), Tạ Thị Kiều (tác giả), Câu
chuyện ngược dòng (chuyển thể chèo – đạo diễn), Thạch Sanh (đạo
diễn), Lửa Hà Nội (tác giả), Tú Uyên Giáng Kiều (tác giả - đạo
diễn), Bà má vùng cát trắng (đạo diễn), Ni cô Đàm Vân (chuyển thể
chèo – đạo diễn), Cô Thủy (viết chung với Kiều Liên Sơn), Bên sông
Như Nguyệt (tác giả).
1.2.

Trần Huyền Trân và thi phái “áo bào, gốc liễu”

Thi phái “áo bào gốc liễu” bao gồm ba nhà thơ Nguyễn Bính, Thâm
Tâm và Trần Huyền Trân.
Thâm Tâm (1917–1950) tên thật là Nguyễn Tuấn Trình, sinh ngày 12
tháng 5 năm 1917 tại thị xã Hải Dương, tỉnh Hải Dương. Thâm Tâm là nghệ
sỹ đa tài, ngồi tài thơ cịn vẽ tranh, viết truyện, soạn kịch, minh họa cho sách
báo; tuy vậy ông vẫn được người đời biết đến với khả năng làm thơ nhiều hơn
cả. Cũng giống như Trần Huyền Trân, Thâm Tâm chỉ được Hồi Thanh dành
cho hai trang ít ỏi trong Thi nhân Việt Nam, bao gồm cả phần trích dẫn bài thơ

18


Lê Thị Hoa


Thế giới nghệ thuật thơ Trần Huyền Trân

Tống biệt hành. Chỉ với dung lượng ngắn ngủi nhưng nhà phê bình Hồi
Thanh qua một bài thơ cũng đã khái quát được nét độc đáo, đặc trưng nhất
của thơ Thâm Tâm: “Thơ thất ngơn của ta bây giờ thực có khác thơ thất ngôn
cổ phong. Nhưng trong bài thơ dưới đây lại thấy sống lại cái khơng khí riêng
của nhiều bài thơ cổ. Điệu thơ gấp. Lời thơ gắt. Câu thơ rắn rỏi, gân guốc.
Không mềm mại, uyển chuyển như phần nhiều thơ bây giờ. Nhưng vẫn đượm
chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại.” [51, tr.284].
Nguyễn Bính (1918 - 1967) tên thật là Nguyễn Trọng Bính, quê tại xã
Đồng Đội (nay là xã Cộng Hòa), huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Trong suốt
cuộc đời cầm bút của mình, Nguyễn Bính đã sáng tác nhiều thể loại như thơ,
kịch, truyện thơ... Ơng được đơng đảo độc giả cơng nhận như một trong các
nhà thơ xuất sắc nhất của thi ca Việt Nam hiện đại. Nguyễn Bính đã từng tự
bạch "Tơi là thi sĩ của thương yêu". Quả đúng vậy, Nguyễn Bính là thi sĩ khát
khao và trân trọng tình người, Nguyễn Bính trở thành người đồng điệu của
nhiều văn nghệ sĩ chân chính, những người suốt đời phấn đấu vì tình thương
yêu đồng loại, tình yêu nhân dân đất nước, sống và viết với ước vọng nhân
văn cao cả ấy. Khác với Thâm Tâm và Trần Huyền Trân, thơ Nguyễn Bính
ln ngập tràn nét dung dị, mượt mà của ca dao dân tộc.
Trần Huyền Trân là một trong hai nhà thơ hiếm hoi trong Thi nhân Việt
Nam khơng được Hồi Thanh – Hồi Chân trích dẫn ngun vẹn một bài thơ
nào (Trần Huyền Trân và T.T.Kh), đồng thời lại là thi sỹ cuối cùng khép lại
cuốn sách. Có lẽ đó chính là lý do khiến cho Trần Huyền Trân khơng được
nhiều người biết đến. Độc giả thường vẫn nhắc đến Nguyễn Bính và Thâm
Tâm nhiều hơn mặc dù so với Thâm Tâm, số lượng tác phẩm của Trần Huyền
Trân còn lớn hơn nhiều.
Bút danh Trần Huyền Trân khiến rất nhiều người, ngay cả những người
trong giới nghệ sỹ băn khoăn. Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã từng hỏi Trần


19


Lê Thị Hoa

Thế giới nghệ thuật thơ Trần Huyền Trân

Huyền Trân: “Tại sao cậu lại dùng cái bút danh khăn yếm như thế, dẫu cho đó
là tên một tuyệt tác giai nhân?”. Nhà văn Tơ Hồi cũng đã từng nhận xét cái
tên ấy không hợp với dáng dấp nhà thơ “Mày gươm nét mác chữ nhân già –
Hàm bạnh hình đồi, lưng cỗi đa”. Và những khi được hỏi những câu hỏi như
vậy, nhà thơ Trần Huyền Trân chỉ mỉm cười lặng lẽ. Bởi bút danh ấy của ông
gắn với một sự kiện lớn trong đời nhà thơ. Ngày còn làm báo Bắc Hà, Trần
Huyền Trân thuê nhà của mẹ con cơ Trần Nguyệt Hiền. Vì hồn cảnh gia đình
khó khăn, cô gái bị mẹ gả bán cho nhà giàu, khơng bao lâu thì bị trả về nhà
với cái thai trong bụng. Sẵn một trái tim giàu lòng nhân ái, nhà thơ đã lấy tên
mình khai sinh cho đứa bé. “Trần nối với Trân bằng dấu huyền là Trần Huyền
Trân ... đấy là tên đứa bé tội nghiệp và là bút danh” [3, tr.24] của Trần Kim.
Thi phái “áo bào gốc liễu” được tạo nên từ chính sự đồng cảm của ba
con người cùng cảnh ngộ. Trong bài thơ Gió gác Sơn Nam (1943), Trần
Huyền Trân viết về kỷ niệm với Thâm Tâm và Nguyễn Bính, về sợi dây nối
kết họ với nhau. Cuộc sống nghèo khổ của ba thi sỹ gắn kết họ lại với nhau
trong một tình bạn chân thành “Ba ta, ba chiếc bóng gầy... Ngọn đèn trang
giấy cùng chia cái nghèo... Cháo rau ấm bụng thơ gieo ấm lòng”. Bài thơ là
kỷ niệm về một thời khốn khó của ba nhà thơ nhưng đồng thời cũng là một lý
do để chúng ta hiểu sâu hơn về thi phái này. Mẫu số chung của ba nhà thơ bắt
nguồn từ cái nghèo. Đó là dấu nối đầu tiên gắn kết ba nhà thơ lại với nhau và
cũng là tiền đề hình thành nên phong cách cho “hội tam anh”.
Gác Sơn Nam, gác đèo bịng
Có ba mái tóc bồng bềnh bên nhau

Thi phái “áo bào gốc liễu” không thật nổi trội trong phong trào Thơ
Mới nhưng là thi phái góp phần tạo nên bức tranh hết sức đa dạng cho Thơ
Mới. Nét đặc sắc nhất của thi phái “áo bào gốc liễu” đem đến cho người đọc
chính là “dư vị cổ kính”. Thơ Trần Huyền Trân và Thâm Tâm, nhất là ở thể

20


Lê Thị Hoa

Thế giới nghệ thuật thơ Trần Huyền Trân

thơ thất ngôn thường phảng phất vẻ cổ điển trong thơ Đường. Đọc những bài
thơ như Tống biệt hành, Can trường hành, Vọng nhân hành... của Thâm Tâm
hay Lòng chiến sỹ, Lưu biệt, Sầu chung... của Trần Huyền Trân, ta nhận thấy
rất rõ đặc điểm này. Những câu thơ ấy đưa chúng ta như lạc vào một thế giới
khác, một thế giới xa xăm, cổ xưa với một phong cách thơ hòa hợp giữa cổ
điển và hiện đại, thể hiện hào khí rất lớn với nhiều giọng điệu, khi buồn da
diết, khi trầm hùng, bi tráng, ...
Điểm chung của thi phái “áo bào gốc liễu” có lẽ là tâm hồn tù túng, bế
tắc. Thơ “áo bào gốc liễu” sau những tâm sự uất ức đó đây, là một lịng u
nước kín đáo và cả khát vọng "lên đường" - trước hết là để thoát khỏi cuộc
sống bế tắc. Tuy nhiên, trong “hội tam anh”, về sau ta nhận thấy rõ rằng, chỉ
có Trần Huyền Trân sớm dứt khốt và lựa chọn được cho mình con đường đi
để giải thốt cho tâm hồn mình khỏi những bế tắc quẩn quanh ấy – con đường
Cách mạng.
Tuy trong cũng “hội tam anh” nhưng ba nhà thơ Thâm Tâm, Nguyễn
Bính, Trần Huyền Trân lại cũng có những đặc điểm riêng của mình. Thâm
Tâm viết nhiều về những cuộc lưu biệt. Nguyễn Bính say sưa với cảnh nông
thôn quê mùa. Trần Huyền Trân với những tâm trạng cảm khái.

Tơ Hồi trong Tuyển tập Nguyễn Bính đã từng xác nhận khi so sánh ba
nhà trong “hội tam anh” rằng: “Ở trường thơ ấy, mỗi người đã thể hiện một
phong cách độc đáo. Thâm Tâm và Trần Huyền Trân sừng sững và cũng cô
đơn như gốc đa, như con đị một mình”. Quả đúng như thế. Đến với thơ Thâm
Tâm và Trần Huyền Trân, ta luôn thấy xuất hiện ở đó một nhân vật trữ tình
đầy tâm trạng: cô đơn, bế tắc nhưng vẫn luôn kiêu ngạo, ngang tàng, khí
phách, chưa một lần tâm hồn ấy tỏ ra yếu đuối, cần đến một điểm tựa cho tâm
hồn mình.

21


Lê Thị Hoa

Thế giới nghệ thuật thơ Trần Huyền Trân

Nhà nghiên cứu Hoài Việt trong bài “Đây một loài hoa khác hải
đường” đã từng đưa ra nhận xét: “Thơ của nhóm Tam Anh, nhất là Thâm
Tâm và Trần Huyền Trân có ảnh hưởng của tiếng tù và Ronsard (Le cor de
Ronsard), có hình bóng của con chó sói ngồi liếm máu ở vết thương trên thân
mình trong thơ Alfred de Vigny. Lại có cái bức xúc, phẫn nộ trong Tam lại,
Tam biệt của Đỗ Phủ nhưng tung bốc, hào sảng” [3, tr.224]. Như thế có nghĩa
là Hồi Việt khẳng định: do chịu ảnh hưởng của cả văn hóa phương Đơng và
phương Tây nên nét đặc sắc của thơ Thâm Tâm và Trần Huyền Trân chính ở
tâm trạng bi phẫn, cái đau đớn khôn nguôi trong tâm hồn của họ thể hiện
trong thơ.
Trong phong trào Thơ Mới lãng mạn, khi mà hầu hết các nhà thơ say
đắm trong tình yêu với đủ các cũng bậc cảm xúc, hay hịa mình vào thiên
nhiên thơ mộng, hữu tình và những giấc mơ viễn xứ, hay trốn vào hoài niệm
quá khứ để trốn tránh thực tại, thì “Áo bào gốc liễu” lại xuất hiện như một sự

xa lạ. Họ đối diện với hiện thực, chấp nhận hiện thực như nó vốn có. Ngồi
dư vị cổ kính thì “áo bào gốc liễu” được người đọc chú ý vì giọng điệu ngang
tàng và phẫn hận trong lời thơ, một giọng điệu quả thực không mấy phổ biến
trong Thơ Mới.
Cũng như Thâm Tâm, Trần Huyền Trân viết nhiều bài thơ về những
cuộc lưu biệt. Trong bài thơ Xuống đò (Tiễn đưa em trai Trần Tri), ta như
thấy lại khơng khí của buổi tiễn đưa trong Tống biệt hành. Bài thơ khơng dài
nhưng đã có đến bốn câu thơ là lời người anh giục em lên đường. Cũng như
nhân vật trữ tình trong Tống biệt hành, chúng ta chỉ biết nhân vật em ở đây ra
đi nhưng không rõ đi đâu. Chỉ có thể chắc chắn một điều: đó là cuộc ra đi có ý
nghĩa trong cuộc đời, ra đi để thoát khỏi cảnh sống tù túng, bế tắc. Phải chăng

22


Lê Thị Hoa

Thế giới nghệ thuật thơ Trần Huyền Trân

ở đây, người ra đi khơng có được cái dứt khốt trong Tống biệt hành nên nhân
vật anh liên tục giục giã như sợ em thay đổi quyết định của đời mình:
- Thơi em khăn gói xuống đị
- Đi đi! Đất rộng nghĩa đời
- Thơi em khăn gói đi đi
- Thơi em khăn gói nước non
Trần Huyền Trân tuy khơng được nhiều người biết đến như hai người
cịn lại trong nhóm nhưng những sáng tác thơ của ông rất tiêu biểu cho phong
cách của thi phái “áo bào gốc liễu”, điều này thể hiện rất rõ trong thơ ông,
nhất là ở nội dung phản ánh hiện thực, ở cái tôi cảm khái, bi phẫn sẽ được
trình bày ở chương sau của luận văn này.

Thâm Tâm đã viết những câu thơ này cho đề tựa thơ tập thơ Trần
Huyền Trân nhưng chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra được đặc trưng này không
phải chỉ cho thơ Trần Huyên Trân mà là cho cả nhóm thi phái “áo bào gốc
liễu”:
Thơ chàng cho lính thú
Lính thú ngút trùng dương
Thơ chàng cho xuân nữ
Xuân nữ cười đoạn trường
Hôm nay
thơ lên đường
Hồn chàng ra thiên hạ
Ta vừa nghe lã chã dịng sương
Ngâm thơi
quăng bút cười ha hả
Đây một loài hoa khác hải đường.

23


Lê Thị Hoa

Thế giới nghệ thuật thơ Trần Huyền Trân

Như lời Thâm Tâm viết tựa đề cho tập thơ Trần Huyền Trân. Thơ ơng
là sự hịa trộn cả nét cổ điển và hiện đại. Thơ Trần Huyền Trân đa dạng về
mặt nội dung “cho lính thú”, “cho xn nữ”. Đó là hình ảnh của những người
ra đi, của những kiếp giang hồ phiêu bạt. “Lính thú ngút trùng dương ... –
Xuân nữ cười đoạn trường”. Đó là đề tài chủ yếu của thơ ơng. Nhưng đã có
một sự thay đổi lớn: “Hôm nay thơ lên đường”, nhà thơ đoạn tuyệt với con
đường cũ, hịa mình vào dịng chảy mới để có thể bắt đầu một cuộc đời cầm

bút mới. Chỉ ở thi phái “áo bào gốc liễu”, chúng ta mới thấy cái cao ngạo,
ngang tàng, “quăng bút cười ha hả”. Cuối bài thơ, Thâm Tâm đã khẳng định:
“Đây một loài hoa khác hải đường” như một lời nhấn mạnh cái khác biệt ở
con người cũng như thơ Trần Huyền Trân.
Có thể nhận thấy rằng, trên phương diện văn học sử, thơ của thi phái
“Áo bào gốc liễu” không phải bộ phận tác phẩm quan trọng. Nhưng chúng ta
cần thừa nhận “áo bào gốc liễu” rất độc đáo, nó góp phần làm thành sự đa
dạng phong trào Thơ mới lãng mạn 1930 – 1945 nói riêng và cho diện mạo
thơ Việt Nam trước năm 1945 nói chung.

24


Lê Thị Hoa

Thế giới nghệ thuật thơ Trần Huyền Trân

Chƣơng 2:
NHỮNG NGUỒN CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO VÀ SỰ THỂ HIỆN CÁI TƠI
TRỮ TÌNH TRONG THƠ TRẦN HUYỀN TRÂN
2.1. Những nguồn cảm hứng chủ đạo
Thơ là nỗi lòng của người nghệ sỹ, thể hiện những cảm xúc, trạng thái
tinh thần của nhà thơ, những tình cảm say đắm, mãnh liệt nhất. Bê-lin-xki coi
cảm hứng chủ đạo là điều kiện không thể thiếu trong việc tạo ra những tác
phẩm nghệ thuật đích thực, bởi nó “biến sự chiếm lĩnh thuần túy trí óc đối với
tư tưởng thành tình yêu đối với tư tưởng, một tình yêu mạnh mẽ, một khát
vọng nhiệt thành”.
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, các tác giả đã viết: “Thuật ngữ
cảm hứng chủ đạo lúc đầu chỉ yếu tố nhiệt tình say sưa diễn thuyết, sau chỉ
trạng thái mê đắm khi xuất hiện tứ thơ. Về sau lý luận văn học xem cảm hứng

chủ đạo là một yếu tố của bản thân nội dung nghệ thuật, của thái độ tư tưởng
xúc cảm ở nghệ sỹ đối với thế giới được mô tả. Theo nghĩa này, cảm hứng
chủ đạo thống nhất với đề tài và tư tưởng của tác phẩm. Cảm hứng chủ đạo
đem lại cho tác phẩm một khơng khí xúc cảm tinh thần nhất định, thống nhất
tất cả các cấp độ và yếu tố của nội dung tác phẩm” [23, tr.45]. Nhưng ở mỗi
nhà văn, nhà thơ, họ chịu sự ảnh hưởng nhất định của hiện thực khách quan,
bị ấn tượng bởi những hiện tượng nhất định. Vì vậy, cảm hứng chủ đạo là
khác nhau giữa các tác giả.
Cảm hứng chủ đạo chi phối toàn bộ quá trình sáng tác của tác giả. Mọi
cảm hứng của tác giả đều bắt nguồn từ hiện thực khách quan và những tâm tư,
tình cảm ở chính trong lịng tác giả. Qua khảo sát toàn bộ cuộc đời thơ Trần
Huyền Trân, chúng tôi nhận thấy rằng: Hiện thực cuộc sống nghèo khó nơi
“lều gianh Cống Trắng”, hiện thực cách mạng cùng những tình cảm gia đình,

25


×