Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

(Luận văn thạc sĩ) quan hệ việt nam liên bang nga trong lĩnh vực chính trị và an ninh quốc phòng giai đoạn 2001 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (863.02 KB, 96 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRẦN THỊ THỦY

QUAN HỆ VIỆT NAM - LIÊN BANG NGA TRONG
LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ VÀ AN NINH - QUỐC PHÒNG
GIAI ĐOẠN 2001 - 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUỐC TẾ HỌC

Hà Nội - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRẦN THỊ THỦY

QUAN HỆ VIỆT NAM - LIÊN BANG NGA TRONG
LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ VÀ AN NINH - QUỐC PHÒNG
GIAI ĐOẠN 2001 - 2015
Chuyên ngành: Quan hệ quốc tế
Mã số: 60 31 02 06

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUỐC TẾ HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Tất Giáp

Hà Nội - 2016



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, luận văn với đề tài: “Quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga
trong lĩnh vực chính trị và an ninh - quốc phịng giai đoạn 2001 - 2015” là cơng
trình nghiên cứu khoa học của riêng tơi. Luận văn có sự kế thừa, tham khảo các
cơng trình nghiên cứu của những người đi trước và có sự bổ sung những tư liệu, kết
quả nghiên cứu mới. Các số liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, được
sử dụng trung thực.
Tác giả

Trần Thị Thủy


MỤC LỤC

Trang
LỜI NÓI ĐẦU

1

CHƢƠNG 1: NHỮNG NHÂN TỐ CHỦ YẾU TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN
HỆ VIỆT NAM - LIÊN BANG NGA TRONG LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ

11

VÀ AN NINH - QUỐC PHỊNG GIAI ĐOẠN 2001 - 2015
1.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực

11


1.1.1. Bối cảnh quốc tế

11

1.1.2. Bối cảnh khu vực

14

1.2. Khái quát lịch sử mối quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga

15

1.2.1. Quan hệ Việt Nam - Liên Xô kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao
đến trước năm 1991.
1.2.2. Quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga giai đoạn 1991 - 2001.
1.3. Vị trí, vai trị của Việt Nam, Liên bang Nga trong chính sách của mỗi
nƣớc.
1.3.1. Vị trí, vai trị của Liên bang Nga trong chính sách đối ngoại của Việt
Nam
1.3.2. Vị trí, vai trị của Việt Nam trong chính sách đối ngoại của Liên bang
Nga

15
18
23

23

26


CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG QUAN HỆ VIỆT NAM - LIÊN BANG
NGA TRONG LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ VÀ AN NINH - QUỐC PHỊNG

30

GIAI ĐOẠN 2001 - 2015
2.1. Trong lĩnh vực chính trị

30


2.2. Trong lĩnh vực an ninh - quốc phòng
2.3. Đánh giá thực trạng quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga về chính trị
và an ninh - quốc phịng giai đoạn 2001 - 2015

46
57

CHƢƠNG 3: TRIỂN VỌNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƢỜNG
MỐI QUAN HỆ VIỆT NAM - LIÊN BANG NGA TRONG LĨNH VỰC

62

CHÍNH TRỊ VÀ AN NINH - QUỐC PHÒNG ĐẾN NĂM 2030
3.1. Cơ sở dự báo triển vọng quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga trong
lĩnh vực chính trị và an ninh - quốc phịng
3.2. Dự báo triển vọng quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga trong lĩnh vực
chính trị và an ninh - quốc phịng đến năm 2030
3.3. Một số giải pháp nhằm tăng cƣờng mối quan hệ Việt Nam - Liên

bang Nga trong lĩnh vực chính trị và an ninh - quốc phịng đến năm 2030

62

69

75

KẾT LUẬN

79

TÀI LIỆU THAM KHẢO

82


BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Tƣ̀ viế t tắ t

Tiế ng Anh

Tiế ng Viêṭ

Asia - Pacific Economic

Diễn đàn hơ ̣p tác kinh tế Châu Á -

Cooperations


Thái Bình Dương

AFTA

ASEAN Free Trade Area

Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN

ASEAN

Association of South East

Hiê ̣p hô ̣i các nước Đông Nam Á

APEC

Asian Nations
ASEM

The Asia-Europe Meeting

Diễn đàn hợp tác Á - Âu

EAS

East - Asia Summit

Hội nghị cao cấp Đông Á


EU

European Union

Liên minh châu Âu

FDI

Foreign Direct Investment

Đầu tư trực tiếp nước ngồi

GDP

Gross Domestic Product

Tở ng sản phẩ m quố c dân

NATO

North Atlantic Treaty

Khối Bắc Đại Tây Dương

Organization
OSCE

SNG

Oraganization Security


Diễn đàn an ninh và Hợp tác Châu

and Cooperation Europer

Âu

Sodruzhestvo Nezavisimykh

Cộng đồng các quốc gia độc lập

GosudarstvS
WTO

World Trade Organization

Tổ chức thương ma ̣i Thế giới


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quan hệ giữa Việt Nam và Liên Bang Nga ngày nay là sự tiếp nối và kế thừa quan
hệ hữu nghị truyền thống Việt - Xô trước đây (hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao chính
thức vào ngày 31/1/1950). Trong suốt thời kỳ Việt Nam tiến hành các cuộc đấu tranh
giành độc lập, tự do và thống nhất đất nước cũng như trong công cuộc xây dựng lại đất
nước sau chiến tranh, Việt Nam luôn nhận được sự ủng hộ và giúp đỡ tồn diện của Liên
Xơ về các mặt chính trị, kinh tế, kĩ thuật, quân sự,… Trong các kì Đại hội Đảng lần thứ
IV, V, VI, Đảng ta luôn xác định rõ Liên Xơ là “hịn đá tảng” trong quan hệ chiến lược
của Việt Nam.
Tháng 12/1991, Liên Xô sụp đổ, Liên bang Nga tuyên bố độc lập, kế thừa vị trí của

Liên Xơ trong quan hệ quốc tế. Quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga (Việt - Nga) bước
sang một trang mới. Liên bang Nga đã khơng cịn coi trọng vị trí, vai trị của Việt Nam
như trước. Nhà lãnh đạo Yelstin đã đưa ra đường lối chiến lược đối ngoại theo định
hướng Đại Tây Dương thân Mỹ và phương Tây, chứ không chú trọng tới những quốc gia
vừa và nhỏ như Việt Nam. Điều đó được thể hiện qua chiến lược ngoại giao “xuyên Đại
Tây Dương” hay “Chim ưng hai đầu”… nên quan hệ hai nước giai đoạn trước năm 2001
có phần ngưng trệ.
Bước sang những năm đầu của thế kỷ XXI, tình hình chính trị và kinh tế của
thế giới có nhiều biến động, đặc biệt là sự chuyển biến của tình hình mỗi nước đã
tác động không nhỏ tới mối quan hệ này. Công cuộc “Đổi mới” do Đảng Cộng Sản
Việt Nam khởi xướng Đại hội VI (12/1986) được đẩy mạnh và phát triển, bước đầu
đã có những thành tựu làm thay đổi lớn đời sống kinh tế, xã hội ở Việt Nam. Ở
Liên bang Nga, sau khi chính sách thân phương Tây bộc lộ những giới hạn khơng
thể vượt qua, chính giới Nga đã địi hỏi những nhà lãnh đạo phải điều chỉnh để tạo
sự cân bằng trong chính sách đối ngoại vì lợi ích quốc gia. Khi Tổng thống V.Putin
lên cầm quyền (7/5/2000), ông đã đưa ra một loạt các chiến lược về đối ngoại, an
ninh, quốc phòng, kinh tế… nhằm mục tiêu “chấn hưng” nước Nga với mục đích sẽ
lấy lại hình ảnh của nước Nga là một siêu cường như thời Liên Xơ. Chính những
1


thay đổi này của hai nước đã góp phần làm cho vai trò, vị thế trong khu vực và
quốc tế của Việt Nam cũng như Liên bang Nga từng bước được nâng ca o. Đặc biệt,
Liên bang Nga đã từng bước khẳng định mình là một cường quốc có vai trị, vị trí
rất quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề an ninh, chính trị, quân sự của quốc
tế và khu vực.
Tháng 3/2001, hai nước ký Tuyên bố chung về quan hệ đối tác chiến lược trong
chuyến thăm chính thức Việt Nam lần đầu tiên của Tổng thống Nga V.Putin đánh dấu
bước phát triển và tạo lập khuôn khổ pháp lý mới cho hợp tác Việt - Nga trên cơ sở tin
cậy, chặt chẽ và lâu dài. Đây còn là sự kiện có ý nghĩa quan trọng đối với hai nước cũng

như trên phương diện quốc tế, đóng góp vào xu thế hồ bình, ổn định, hợp tác phát triển ở
khu vực và thế giới.
Năm 2015 Việt Nam và Liên bang Nga đã kỷ niệm 65 năm thiết lập quan hệ ngoại
giao (31/1/1950 - 31/1/2015) và cũng là dấu mốc đánh giá 15 năm cầm quyền của Tổng
thống V.Putin. Trên chặng đường hơn một thập niên qua (2001 - 2015), hợp tác chiến
lược Việt - Nga luôn chịu sự chi phối, tác động mạnh của bối cảnh thế giới và khu vực
đầy biến động, đồng thời cũng đứng trước những vận hội và thách thức mới đan xen. Với
quyết tâm chính trị cao của lãnh đạo hai nước và sự gần gũi trong lập trường, quan điểm về
nhiều vấn đề quốc tế quan trọng, hợp tác chiến lược Việt - Nga đã ngày càng phát triển cả về
bề rộng lẫn chiều sâu với những thành tựu trong tất cả các lĩnh vực đặc biệt trong lĩnh vực
chính trị và an ninh - quốc phịng.
Trong những năm gần đây, tình hình Biển Đơng đang có những diễn biến phức tạp
do những mâu thuẫn giữa Trung Quốc và các nước khu vực Đơng Nam Á về vấn đề biển
đảo, trong đó có Việt Nam. Cùng thời điểm đó, Liên bang Nga lại tăng cường phát triển
mối quan hệ “Đối tác chiến lược tồn diện” với Trung Quốc. Vì vậy, việc nghiên cứu
một cách chuyên sâu về mối quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga trong lĩnh vực chính trị
và an ninh quốc phòng để làm rõ sự vận động, phát triển, những vấn đề đặt ra cũng như
triển vọng của nó có ỹ nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn đối với Việt Nam. Kết quả
nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình,
rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ quốc tế, chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Đồng thời, năm 2001 và 2015 là hai dấu
2


mốc quan trọng trong mối quan hệ Việt – Nga như đã trình bày ở trên. Với những lý do
trên, tác giả chọn đề tài: “Quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga trong lĩnh vực chính trị và
an ninh - quốc phòng giai đoạn 2001 - 2015” làm luận văn tốt nghiệp cao học, chuyên
ngành Quan hệ quốc tế.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
2.1. Những cơng trình nghiên cứu về tình hình chính trị, kinh tế, xã hội và

chính sách đối ngoại của Liên bang Nga.
* Các cơng trình trong nước
Trong ấn phẩm “Liên bang Nga: Hai thập niên đầu thế kỷ XXI” do Nguyễn An Hà
(chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội (2011), nhóm tác giả đã nêu ra một số những
vấn đề chính trị và kinh tế nổi bật của Liên Bang Nga trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI
và đưa ra những dự báo về xu thế vận động của Liên bang Nga tới năm 2020. Đồng thời,
nhóm tác giả cũng đánh giá những tác động của Liên bang Nga tới thế giới, khu vực và
Việt Nam, từ đó đưa ra những khuyến nghị nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác đối tác chiến
lược Việt Nam - Liên bang Nga.
Các bài viết “Chính sách của Liên bang Nga đối với Việt Nam sau chiến tranh
lạnh (1991 - 2008) - một số đặc điểm chủ yếu”, Ths. Bùi Thị Thảo, Tạp chí Nghiên cứu
Châu Âu, số 5 (2012) tập trung phân tích và bước đầu rút ra một số đặc điểm chủ yếu về
chính sách của Nga đối với Việt Nam thời kỳ 1991 - 2008; “Thử phân tích chiến lược mới
của Nga đối với ASEAN và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam”, TS. Nguyễn Cảnh
Tồn, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 1 (2010) đã làm rõ vị trí của ASEAN trong chiến
lược của Liên bang Nga và vai trò cầu nối của Việt Nam trong mối quan hệ Nga –
ASEAN; “Chiến lược hướng Đông của Nga”, Lê Xuân Dương, số 21 Quý I (2013) đều
tập trung phân tích sự chuyển hướng trong sách lược của Liên bang Nga trong tình hình
mới và những thành tựu trong quan hệ giữa Việt Nam và Liên bang Nga.
* Các cơng trình nước ngoài
Cuốn sách“From Stalin to Yeltsin” (2000), Baibakov.N.G (Publised by Moscow,
Russia) đã đề cập đến bức tranh chính trị, kinh tế, xã hội… của Liên bang Xô viết (1924)
tới khi Liên bang Nga trở thành một quốc gia độc lập (12/6/1990). Đây là những thập niên
được đánh giá là đầy sóng gió trong lịch sử của nước Nga hiện tại.
3


Trong cuốn“The foreigning policy from Post - Soviet to Russia now. The lesson
from the conflict with Gruzia” (2008), A.V.Lukin, “Russia in global affairs” Magazine,
Vol6, No4, Russia đã phân tích sự thay đổi chính sách đối ngoại của Nga tại các khu vực

trên thế giới.
Trong ấn phẩm “What Russia’s Turn to the East” Means for Southeast Asia”
(2015), ISEAS, No 67, tác giả Ian Storey đã phân tích chiến lược hướng đơng của Liên
bang Nga sau những thất bại trong quan hệ với phương Tây, đặc biệt là sau cuộc khủng
hoảng Ukraina. Nga thực hiện chính sách hướng đơng bằng cách tăng cường với các quốc
gia như Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, tuy nhiên, tác giả cũng đề cập đến những mặt hạn
chế và mâu thuẫn trong từng mối quan hệ này. Đồng thời, Nga nhận thấy vai trò và sự ảnh
hưởng của mình tại khu vực Đơng Nam Á cịn rất khiêm tốn vì vậy Nga cần phải nỗ lực
tăng cường hợp tác với các nước ở khu vực này. Trong chiến lược ấy, Nga khẳng định
mối quan hệ bền chặt và hiệu quả đối với Việt Nam. Thông qua việc nhắc lại lịch sử mối
quan hệ Việt Nam - Liên Xô trong hai cuộc chiến tranh, vấn đề căn cứ quân sự ở Cam
Ranh và một loạt các văn bản, hợp đồng được ký kết giữa Hà Nội và Moscow, Liên bang
Nga khẳng định Việt Nam là đối tác và bạn hàng lớn nhất của Nga tại khu vực này và là
cầu nối giúp Nga có thể mở rộng quan hệ với các nước khác trong khu vực.
Bài viết “Main Trends of Russia’s Foreign policy in Transforming East and
Southeast Asia” (2008), Brookings Institution của tác giả Vladimir N.Kolotov đã phân
tích những xu hướng chính trong chính sách đối ngoại của Nga tại khu vực Đông Á và
Đông Nam Á. Tác giả đề cập đến sự phát triển mạnh mẽ của Trung Quốc, Nhật bản cũng
như sự ảnh hưởng của Mỹ và hai quốc gia trên tại khu vực này. Bài viết nhận định Đông
Nam Á là một khu vực kinh tế năng động, hấp dẫn thu hút nhiều nước lớn tham gia, trong
đó phải kể đến Việt Nam - một quốc gia được đánh giá có vai trị đặc biệt quan trọng ở
khu vực Đông Nam Á không chỉ bởi vị trí địa chiến lược mà cịn là quốc gia có trữ lượng
dầu mỏ lớn ở Biển Đơng. Trước sự nổi dậy về kinh tế, sự bành trướng về lãnh thổ của
Trung Quốc, cả Mỹ và Nga đều muốn quan hệ hợp tác với Việt Nam đề kiềm chế sự phát
triển của Trung Quốc.

4


2.2. Những cơng trình nghiên cứu về mối quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga

trong các lĩnh vực
* Các cơng trình trong nước
Trong cuốn “Quan hệ Việt - Nga trong bối cảnh quốc tế mới” của tác giả Võ
Đại Lược - Lê Bộ Lĩnh, Nhà xuất bản Thế giới (2005), tác giả đã nghiên cứu, phân tích
mối quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga trên nhiều lĩnh vực, dưới tác động của bối cảnh
thế giới và khu vực nhưng tập trung nhất vẫn là về kinh tế.
Tác phẩm “Hợp tác chiến lược Việt - Nga”, PGS.TS Vũ Đình Hịe - PGS.TS
Nguyễn Hồng Giáp, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, (2008), tác giả đã phân tích những
cơ sở cho mối quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam - Liên bang Nga, thành tựu nổi bật
trong quá trình hợp tác và những giải pháp nhằm tăng cường mối quan hệ hợp tác chiến
lược đó.
Tác phẩm “Quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga: 50 năm một chặng đường lớn”,
Bùi Khắc Bút, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 5, (10/2000), đã đề cập và làm nổi bật mối
quan hệ hữu nghị, hợp tác truyền thống giữa Việt Nam với Liên Xô trước đây và sau này
là Liên bang Nga giai đoạn 1950 - 2000. Với sự giúp đỡ to lớn về quân sự, chính trị cũng
như sự ủng hộ ngoại giao quan trọng trên các diễn đàn quốc tế đối với nhân dân Việt Nam
của Liên Xô, Việt Nam hồn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước
(30/04/1975). Trong giai đoạn nhân dân Việt Nam tiến hành sự nghiệp xây dựng CHXH,
Liên Xô đã trở thành đối tác chiến lược chính trị, quân sự hết sức quan trọng. Sau khi
Liên Xô sụp đổ (25/12/1991), mối quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga (quốc gia thừa kế
Liên Xơ) có bị ảnh hưởng do sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Moscow trong
những năm đầu thập niên 90. Tuy nhiên, mối quan hệ hợp tác hữu nghị, truyền thống này
đã được cải thiện vào những năm cuối của thập kỉ này. Đây là nền tảng, cơ sở quan trọng
để hình thành nên mối quan hệ “đối tác chiến lược” Việt - Nga trong những năm đầu thế
kỉ XXI.
Trong ấn phẩm “Quan hệ đối tác chiến lược Liên bang Nga - Việt Nam,(từ tháng
3/2001 đến nay)”, Đinh Cơng Tuấn, tạp chí nghiên cứu Châu Âu, số 3, (2010), tác giả đã
làm nổi bật mối quan hệ hợp tác Việt Nam - Liên bang Nga trong lĩnh vực kinh tế trong
giai đoạn 2001 - 2010. Bên cạnh các lĩnh vực hợp tác truyền thống như khai thác dầu khí,
5



khai khống, luyện kim…hai nước đã có những hợp tác sâu rộng trong lĩnh vực kinh tế.
Sự hợp tác sâu rộng này đã đưa quan hệ hai nước trở nên thực chất hơn.
Bài viết “Nhìn lại quan hệ Liên bang Nga - Việt Nam thời gian qua và một số vấn
đề đặt ra”, Nguyễn Văn Lan, tạp chí nghiên cứu Châu Âu số 3/2004. Tác giả đã nêu lên
bức tranh khái quát về mối quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga trong giai đoạn 19912004 trong lĩnh vực văn hóa. Bài viết đi sâu phân tích những tồn tại và hạn chế trong quan
hệ văn hóa hai nước. Để khắc phục những hạn chế này, hai nước cần tăng cường hơn nữa
các hoạt động truyền đạt những giá trị văn hóa của mỗi nước tới người dân, giúp nhân dân
hai nước hiểu biết lẫn nhau hơn góp phần đưa quan hệ hai quốc gia có những bước phát
triển lên tầm cao mới trong thế kỷ XXI.
Các bài viết: “Một số vấn đề về cách tiếp cận quan hệ đối tác chiến lược Liên Bang
Nga - Việt Nam”, PGS.TS Nguyễn Hồng Giáp, Tạp chí nghiên cứu Châu Âu, số 4
(2007); “Quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga thực trạng và triển vọng”, PGS.TS Nguyễn
Hồng Giáp, Tạp chí đối ngoại, số 10 +11/2014... Tác giả đã đề cập và làm nổi bật mối
quan hệ hữu nghị, hợp tác truyền thống giữa Việt Nam với Liên Xô trước đây, và những
thành tựu trong quan hệ giữa Việt Nam - Liên bang Nga giai đoạn hiện nay. Tác giả phân
tích những hạn chế của mối quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga và đưa ra những giải pháp
của mối quan hệ này trong tương lai.
Bên cạnh đó, cịn có các bài viết: “ Quan hệ đối tác chiến lược Việt - Nga trong
tổng thể quan hệ Việt Nam với các nước SNG: Hiện trạng và triển vọng”, PGS, TS. Vũ
Dương Huân, Tạp chí Nghiên cứu Châu Â, số 4 (2007): tác giả đánh giá thực trạng quan
hệ đối tác chiến lược Việt - Nga, cũng như quan hệ giữa nước ta với các nước SNG, làm
rõ những thành tựu, cũng như những hạn chế, tìm ngun nhân của những thành cơng,
những hạn chế và từ đó dự báo triển vọng của quan hệ đối tác chiến lược Việt - Nga trong
những năm trước mắt; “Quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam - Liên bang Nga: Tiềm
năng và những bước phát triển mới”, TS Nguyễn An Hà, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu,
số 6 (2011) khái quát những thành tựu về kinh tế của Liên bang Nga những năm đầu thế
kỷ XXI và kết quả hợp tác giữa Việt Nam và Liên bang Nga, từ đó khẳng định tiềm năng
mối quan hệ này là vô cùng to lớn.

6


Ngồi ra, cịn có các bài viết được đăng tải trên Tạp chí Quan hệ Quốc phịng như:
“Quan hệ Liên bang Nga - Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI”, Hương Giang, số 18,
Quý II (2012); “Đối tác chiến lược toàn diện - Tầm cao mới của mối quan hệ Việt Nam Liên bang Nga”, Nhữ Quang Nam, số 20, Q IV, 2012;
* Các cơng trình nước ngồi
Trong tác phẩm “Can Russia keep its special ties with Vietnam while moving
closer and closer to China?” (2015), IASR, Vol 18, tác giả Pavel K. Baev đã đưa ra một
vấn đề mà các nhà nghiên cứu và học giả quan hệ quốc tế đều rất quan tâm đó là: Quan hệ
Nga - Trung có ảnh hưởng gì đến mối quan hệ Nga - Việt hay khơng? Bài viết phân tích
đa chiều về những tác động của mối quan hệ Nga - Trung đối với quan hệ Nga - Việt cả
về yếu tố địa chiến lược, lợi ích quốc gia và cả yếu tố cân bằng quyền lực với Mỹ. Cùng
nghiên cứu về vấn đề này có các bài viết: “The China factor in Russia - Vietnam sercurity
ties” (2016), Tony Rima, Foreign Policy journal; “Russia - Vietnam strategic
partnership: between the United States and China” (2014), Anton Tsvetov, Russian
International Affairs Council.
Các bài viết: “Vietnam: Moscow’s Toehold in Southeast Asia” trong cuốn sách
Russia Foreign Policy: Interests, vectors and sectors (2014) của tác giả Nikolas
K.Gvosdev - Christopher Marsh, Sage Press, pg 148-150; “Russia - Vietnam: Building a
strategic partnership” trong cuốn sách ASEAN - RUSSIA Foundations and Future
Prospects (2010), ISEAS Press, pg 173 - 183; “Russian - Vietnamese Relations: Position
and Prospects” (2014), Dmitry Mosyakov; “The Russia - Vietnam comprehensive
partnership” (2012), Thayer C.A, ASIA Times online... đều khái quát mối quan hệ đối
tác chiến lược giữa Liên bang Nga và Việt Nam, vị trí, vai trị của Việt Nam trong chính
sách đối ngoại của Nga trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI, những thành tựu mà hai nước
đã đạt được trong lĩnh vực dầu khí và năng lượng.
Tác phẩm “Russia - Vietnam strategic partnership: The Return of the Brotherhood
in Arms” (2014), Russian Analytical Digest (RAD), CSS Press, pg 8-11 khái quát những
bước thăng trầm trong lịch sử mối quan hệ Việt - Nga trong lĩnh vực kinh tế và năng

lượng. Đồng thời, tác giả phân tích sự phát triển lớn mạnh về quân sự và sự ảnh hưởng
của Trung Quốc tại khu vực và thế giới. Trước bối cảnh đó, Liên bang Nga tăng cường
7


hợp tác với Việt Nam khơng những vì lợi ích kinh tế mà còn nhằm ngăn chặn sự phát
triển của Trung Quốc về mặt quân sự.
Bài viết“Russia strengthens the ties with Vietnam” của tạp chí Fobres (12/2013);
Russia rebuilds ties with Vietnam (2013), ASIA Times online; “Vietnam and Russia
friends in need” (2014), the Economist, “Vietnam is Russia’s bridge to ASEAN” (2016),
ASIA Times online, đã đề cập đến sự điều chỉnh chính sách của Liên bang Nga vào khu
vực Đông Nam Á và khẳng định Việt Nam sẽ là lựa chọn trọng điểm. Các bài viết phân
tích những nỗ lực của Liên Bang Nga trong việc mở rộng thị trường năng lượng tại Đông
Nam Á và cân bằng quyền lực với Trung Quốc tại khu vực này. Với mục đích đó thì Việt
Nam chính là cầu nối để Nga đến với ASEAN.
Trong ấn phẩm “Vietnam and Great Power Rivalries” (2015), The Diplomat, của
hai tác giả Nhina Le và Koh Swee Lean Collin đề cập đến vị trí địa chính trị đặc biệt quan
trọng trong nền kinh tế biển và an ninh quốc phòng của cảng Cam Ranh và mong muốn
của các cường quốc như Mỹ, Nhật, Nga... đặt căn cứ quân sự tại vùng cảng này. Bài viết
phân tích những lợi ích mà Liên bang Nga có được khi quay trở lại cảng Cam Ranh (lợi
ích kinh tế biển và đối trọng về sức mạnh quân sự tại Biển Đông với Mỹ và Trung Quốc).
Tuy nhiên, hai tác giả cũng nhấn mạnh đến lập trưởng quan điểm của Việt Nam về vấn đề
này đó là Việt Nam sẵn sàng quan hệ với tất cả các nước một cách bình đẳng, cho phép
các tầu chiến của tất cả các nước sử dụng các dịch vụ tại cảng Cam Ranh và luôn giữ
nguyên tắc “ba khơng” của mình: khơng để nước ngồi thiết lập căn cứ quân sự tại Việt
Nam, không quan hệ với nước này để chống nước kia và không cho nước khác sử dụng
lãnh thổ của mình để chống lại một nước khác.
Cuốn sách “Quan hệ Nga - Việt: Hiện tại và lịch sử - Cái nhìn từ hai phía” (2014)
được xuất bản bằng tiếng Nga do Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam và ASEAN, Viện
Viễn Đông thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Nga phát hành. Cuốn sách tập hợp 23 bài viết

về mọi mặt của mối quan hệ hữu nghị, hợp tác Nga - Việt trong giai đoạn từ khi cuộc
kháng chiến cứu nước diễn ra đến năm 1991 và từ sự kiện Liên Xô tan rã năm 1991 đến
năm 2013. Cuốn sách đi sâu phân tích mọi khía cạnh của quan hệ Nga - Việt trên tất cả
các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục và triển vọng mối quan hệ song phương
này.
8


Có thể thấy với các cách tiếp cận ở nhiều mức độ khác nhau, tất cả cơng trình trên
đã phân tích những nội dung về mối quan hệ hai nước trong các lĩnh vực. Việc nghiên cứu
một cách chuyên sâu về lĩnh vực chính trị và an ninh - quốc phòng kể từ khi Việt Nam và
Liên bang Nga trở thành “đối tác chiến lược” từ năm 2001 đến năm 2015 để thấy rõ
những thuận lợi, khó khăn, cũng như những hạn chế nhằm thúc đẩy mối quan hệ của hai
nước trong tình hình mới là việc làm cần thiết và mang tính thời sự. Những cơng trình
nghiên cứu của các tác giả nêu trên là nguồn tài liệu quý giá cho tác giả tham khảo để
hoàn thành luận văn của mình.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Luận văn làm rõ thực trạng quan hệ Việt Nam - Liên Bang Nga trong lĩnh vực
chính trị và an ninh - quốc phịng giai đoạn 2001- 2015. Đồng thời dự báo triển vọng quan
hệ Việt Nam - Liên bang Nga trong lĩnh vực chính trị và an ninh - quốc phịng đến năm
2030.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Thứ nhất, phân tích làm rõ những nhân tố cơ bản tác động đến quan hệ Việt Nam Liên Bang Nga trong lĩnh vực chính trị và an ninh - quốc phịng.
Thứ hai, phân tích những kết quả hợp tác giữa Việt Nam - Liên Bang Nga trong
lĩnh vực chính trị và an ninh - quốc phòng giai đoạn 2001- 2015.
Thứ ba, đánh giá những thuận lợi, khó khăn của quan hệ Việt Nam - Liên bang
Nga trong lĩnh vực chính trị và an ninh - quốc phịng từ đó đưa ra các dự báo triển vọng
của mối quan hệ này đến năm 2030 cũng như đề xuất một số giải pháp để tăng cường mối
quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga trong hai lĩnh vực trên.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài
Luận văn nghiên cứu về quan hệ Việt Nam - Liên Bang Nga trong lĩnh vực chính
trị và an ninh - quốc phòng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu về quan hệ Việt Nam - Liên Bang Nga trong lĩnh vực chính trị và an
ninh - quốc phịng giai đoạn 2001 - 2015.
9


5. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả dựa trên phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đề tài luôn bám sát các quan điểm nội dung về chính
sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa của Đảng từ đại hội VI đến nay. Tác giả sử
dụng phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp phân tích, tổng hợp, thống
kê, so sánh, dự báo…
6. Ý nghĩa của đề tài
Về mặt lý luận: Thơng qua phân tích sự vận động của quan hệ giữa hai nước hơn
mười năm qua, đề tài khẳng định triển vọng về xây dựng, phát triển mối quan hệ hợp tác
hai nước theo hướng “Quan hệ đối tác chiến lược toàn diện trong thế kỷ XXI” góp phần
vì hịa bình, ổn định, phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm rõ thêm cơ sở lý luận, củng cố lập
trường, tư tưởng, niềm tin khoa học về đường lối, chính sách đối ngoại đúng đắn của
Đảng và Nhà nước ta.
Về mặt thực tiễn: Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên
cứu, giảng dạy về quan hệ quốc tế hiện đại, đồng thời có thể góp phần cung cấp cứ liệu
cho công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu gồm 3
chương:

Chƣơng 1: Những nhân tố chủ yếu tác động đến quan hệ Việt Nam - Liên bang
Nga trong lĩnh vực chính trị và an ninh - quốc phòng giai đoạn 2001- 2015
Trong chương này, tác giả phân tích: bối cảnh quốc tế và khu vực; khái quát mối
quan hệ lịch sử giữa Việt Nam và Liên Xô trong thời kỳ kháng chiến và thống nhất đất
nước cũng như những giai đoạn thăng trầm của mối quan hệ Việt - Nga đến trước năm
2001; vị trí, vai trò của Việt Nam và Liên bang Nga trong chính sách đối ngoại của mỗi
nước để từ đó thấy được những yếu tố tác động đến mối quan hệ Việt Nam - Liên bang
Nga trong lĩnh vực chính trị và an ninh - quốc phòng giai đoạn 2001- 2015.

10


Chƣơng 2: Thực trạng quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga trong lĩnh vực chính
trị và an ninh - quốc phịng giai đoạn 2001- 2015
Tác giả trình bày những thành tựu hợp tác mà hai nước đã được trong lĩnh vực
chính trị và an ninh - quốc phịng (2001 - 2015) và những mặt hạn chế còn tồn tại trong
mối quan hệ này. Qua đó, tác giả cũng đánh giá, so sánh mối quan hệ Việt - Nga với mối
quan hệ giữa Việt Nam và các nước lớn khác.
Chƣơng 3: Triển vọng và giải pháp nhằm tăng cƣờng mối quan hệ Việt Nam Liên bang Nga trong lĩnh vực chính trị và an ninh - quốc phịng đến năm 2030
Từ việc đánh giá những thuận lợi và khó khăn trong mối quan hệ Việt Nam - Liên
bang Nga, dự báo diễn biến tình hình thế giới, khu vực đến năm 2030, tác giả đưa ra
những kịch bản dự báo triển vọng mối quan hệ này trong tương lai, đồng thời, đề xuất
một số giải pháp nhằm tăng cường mối quan hệ Việt - Nga trong hai lĩnh vực chính trị và
an ninh - quốc phòng đến năm 2030.

11


CHƢƠNG 1
NHỮNG NHÂN TỐ CHỦ YẾU TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ

VIỆT NAM - LIÊN BANG NGA TRONG LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ VÀ
AN NINH - QUỐC PHÒNG GIAI ĐOẠN 2001 - 2015

1.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực
1.1.1. Bối cảnh quốc tế
Quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga (Việt - Nga) giai đoạn 2001 - 2015 vận động
trong bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều biến động rất nhanh chóng và phức tạp, nhất
là sau sự kiện nước Mỹ bị tấn cơng khủng bố ngày 11/9/2001. Nhìn chung, trong hơn hai
thập niên đầu của thế kỷ XXI, sự vận động và phát triển của thế giới chịu sự tác động
mạnh mẽ của các xu hướng sau:
Thế giới phát triển theo xu hướng đa cực: Sau khi Liên Xô và chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, cơ cấu địa - chính trị và sự phân bố quyền lực toàn cầu bị đảo
lộn, tương quan lực lượng thế giới nghiêng hẳn về phía có lợi cho chủ nghĩa tư bản, nhất
là các nước tư bản phát triển hàng đầu. Quá trình hình thành trật tự thế giới mới chứa
đựng nhiều yếu tố bất trắc, khó đốn định, trong đó nổi lên hai khuynh hướng đối nghịch:
Mỹ chủ trương một thế giới đơn cực, trong khi các trung tâm quyền lực khác như Nga,
Trung Quốc, EU, Nhật Bản lại đấu tranh cho một trật tự thế giới đa cực mà ở đó vị trí bá
quyền của Mỹ được kiềm chế, quyền lãnh đạo thế giới được chia sẻ cho các nước lớn.
Những năm đầu thế kỷ XXI, Mỹ có được vị thế siêu cường quốc số một thế giới về kinh
tế, quân sự và chính trị. Mỹ ra sức lợi dụng ưu thế trong so sánh lực lượng mưu toan thiết
lập “trật tự mới”, thực chất là trật tự thế giới tư bản chủ nghĩa do Mỹ đứng đầu. Bởi vậy,
chính quyền Mỹ ráo riết thi hành một chính sách đơn phương mang nặng tính vị kỷ, bất
chấp sự phản đối của nhiều nước lớn và cộng đồng quốc tế. Sau sự kiện 11/ 9/2001, chính
sách của Mỹ được điều chỉnh theo hướng chú ý hơn đến hành động hợp tác đa phương
nhằm giành sự ủng hộ quốc tế để phát động cuộc chiến tranh nhân danh chống khủng bố
ở Afganistan. Tuy nhiên, sự sa lầy trong cuộc chiến ở Iraq và Afganistan, những sai lầm
trong chính sách đối nội lẫn đối ngoại của Mỹ và khủng hoảng tài chính năm 2008 đã đưa
nước Mỹ từ một siêu cường quốc duy nhất tới chỗ đánh mất vị thế gần như độc tôn. Do
12



những khó khăn và hạn chế khơng nhỏ khiến Mỹ khó có thể thực hiện được tham vọng
thiết lập một thế giới đơn cực, trong đó đáng chú ý là mâu thuẫn giữa âm mưu và hành
động của Mỹ với lợi ích của các nước lớn, với lợi ích của hịa bình, độc lập và phát triển
của các quốc gia, dân tộc trên thế giới.
Sự trỗi dậy của Trung Quốc như một trung tâm kinh tế chính trị của Châu Á được
biểu hiện một phần bằng sự chủ động tham gia của nước này vào các tổ chức đa phương
của khu vực và thế giới trong giải quyết các vấn đề kinh tế - chính trị tồn cầu.
Nhật Bản nỗ lực trở lại theo chiều hướng củng cố tiềm lực quốc phịng và nâng cao
vai trị chính trị của mình trên trường quốc tế. Nhật Bản muốn nhanh chóng cường quốc
hóa quân sự để có tiếng nói trọng lượng hơn trên trường quốc tế, nhất là các vấn đề an
ninh ở Đơng Á.
Ngồi ra, sự phát triển của EU, sự trở lại của Nga, sự nổi lên của Ấn Độ, Braxin,
Nam Phi… đã làm nền kinh tế và chính trị thế giới chuyển biến theo hướng đa cực hóa,
bắt đầu hình thành một trật tự thế giới mới, được biểu hiện rất rõ ở vai trò ngày càng quan
trọng của G20 trong giải quyết các vấn đề toàn cầu, dần thay thế G7. Có thể nói cấu trúc
chiến lược quốc tế đã phát triển từ “nhất siêu đa cường” sang “đa cực hóa” vừa có nhân tố
trỗi dậy của EU, Nga, Trung Quốc và Ấn Độ, vừa có sự gia tăng chủ nghĩa đơn cực và bá
quyền của Mỹ. Trật tự này sẽ chi phối lại các định hướng quan hệ quốc tế. Theo các nhà
quan sát, trong bối cảnh đó, cuộc cạnh tranh ảnh hưởng giữa các cường quốc phản ánh
thực tế rằng một thế giới đa cực là một xu thế vận động tất yếu khách quan. Sự vận động
này sẽ tiếp tục được duy trì và phát triển đa dạng, nhiều tầng nấc hơn trong thời gian tới.
Xu thế tồn cầu hóa tiếp tục gia tăng mạnh mẽ. Tồn cầu hóa là xu thế khách quan
vốn đã xuất hiện từ lâu, những năm đầu thế kỷ XXI, xu thế này tiếp tục được mở rộng từ
kinh tế ra mọi lĩnh vực, bao gồm cả chính trị và an ninh, tác động nhiều chiều đến sự vận
động và phát triển của thế giới, làm tăng đáng kể sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước
trên thế giới dưới nhiều hình thức khác nhau, cả trên cấp độ tồn cầu và khu vực, đa
phương và song phương. Tuy nhiên, xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập
đoàn tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực,
vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh. Đứng trước xu thế tồn cầu hóa,

cả Việt Nam và Liên bang Nga đều phải chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế nhằm
13


tranh thủ cơ hội, tìm kiếm vị trí có lợi nhất cho mình, đồng thời hạn chế thấp nhất những
nguy cơ thách thức. Phát triển mối quan hệ hợp tác chiến lược Việt – Nga giúp hai nước
có thể bổ sung, hỗ trợ nhau trong q trình tham gia tồn cầu hóa.
Cách mạng khoa học và cơng nghệ, ngày càng nổi lên là một nhân tố tác động
mạnh mẽ đến sự phát triển và ổn định của thế giới, trong đó kinh tế tri thức có vai trị
ngày càng nổi bật. Việc xuất hiện những phát minh khoa học, làn sóng đổi mới cơng
nghệ, những thành tựu trong các ngành mũi nhọn như điện tử - tin học, vật liệu mới, cơng
nghệ sinh học, tự động hóa…khơng chỉ đóng vai trị quan trọng, yếu tố có tính chất quyết
định như một lực lượng sản xuất trực tiếp trong phát triển kinh tế mà còn trực tiếp đưa
đến sự phát triển, biến đổi trong tồn bộ đời sống chính trị - xã hội ở các quốc gia.
Việt Nam và Liên bang Nga cũng như nhiều quốc gia khác đang phải chạy đua để
gia tăng phát triển khoa học – công nghệ. Việt Nam quyết tâm thực hiện cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển. Để thực hiện nhiệm
vụ này, việc phát triển quan hệ với Nga có một vị trí khá quan trọng, bởi tiềm năng to lớn
của Nga về nhiều mặt, nhất là trên lĩnh vực khoa học – công nghệ hiện đại.
Xu thế hịa bình, hợp tác và phát triển. Chiến tranh lạnh kết thúc gắn liền với việc
sụp đổ trật tự hai cực đã tác động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế nói chung và từng quốc
gia nói riêng. Đặc trưng của thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh là chuyển từ đối đầu sang đối
thoại và hợp tác. Hịa bình, hợp tác và cạnh tranh đan xen là xu hướng chủ đạo trong quan
hệ quốc tế. Sự thịnh vượng của quốc gia này chính là điều kiện, cơ hội phát triển của các
quốc gia khác và ngược lại. Tuy nhiên, ở đâu có chiến tranh là xung đột vẫn đang xảy ra
trong phạm vi cục bộ, bất công trong cách hành xử, xử lý trong các quốc gia vẫn tiếp tục
tồn tại. Nhìn chung, trong vài thập kỷ tới, xu hướng hợp tác cùng phát triển vẫn là xu
hướng chủ đạo. Các nước không kể lớn nhỏ, giàu nghèo, đều lấy nền tảng hịa bình để
phát triển. Việt Nam và Liên bang Nga khơng nằm ngồi xu hướng đó.
Nhân loại đang đứng trước nhiều vấn đề tồn cầu hết sức bức thiết mà không một

quốc gia đơn lẻ nào có thể tự giải quyết được nếu khơng có sự hợp tác đa phương. Mặc
dù xu hướng hịa bình, hợp tác và phát triển vẫn là chủ đạo trong mối quan hệ quốc tế
những năm đầu thế kỷ XXI, nhưng những nhân tố bất ổn định lại có chiều hướng gia tăng
ở các khu vực. Đó là sự nổi dậy của chủ nghĩa khủng bố, với việc tăng cường lực lượng
14


và mở rộng địa bàn hoạt động. Sau khi gây ra sự kiện 11/9 /2001 ở Mỹ dẫn đến các cuộc
chiến ở Afganistan và Iraq, các hoạt động khủng bố liên tiếp diễn ra ở nhiều nơi trên thế
giới. Nguy cơ khủng bố luôn thường trực trong cuộc sống hàng ngày với khả năng tinh vi
hơn, nguy hiểm hơn. Xung đột sắc tộc tôn giáo gia tăng cường độ, đặc biệt với sự xuất
hiện của nhà nước hồi giáo tự xưng IS. Tình hình này diễn ra đặc biệt nghiêm trọng đối
với một số quốc gia Trung Đông và vùng Vịnh đã góp phần làm cho an ninh khu vực thế
giới trở nên bất ổn hơn bao giờ hết. Xu hướng ly khai và tranh chấp lãnh thổ, tài nguyên
cũng có nguy cơ phát triển với cường độ cao. Bên cạnh đó, nguy cơ phổ biến vũ khí giết
người hàng loạt, trước hết là vũ khí hạt nhân, cũng đang là vấn đề đe dọa an ninh quốc tế.
Vấn đề đặc biệt này gây lo ngại là nguy cơ các loại vũ khí này rơi vào các lực lượng
khủng bố. Ngồi ra, cịn hàng loạt các vấn đề nảy sinh từ các thách thức an ninh phi
truyền thống khác nhau như buôn bán ma túy, rửa tiền, tội phạm xuyên quốc gia, buôn
bán phụ nữ và trẻ em,… Sự xuống cấp của mơi trường sống trên tồn cầu, dịch bệnh đối
với con người và động vật lây lan với tốc độ nhanh cũng đang là các vấn đề lớn của thế
giới hiện nay và trong một vài thập kỷ mới như dịch bệnh Ebola. Thêm vào đó, các vấn
đề khủng hoảng kinh tế, an ninh năng lượng và sự biến đổi mơi trường, khí hậu tồn cầu
cũng đang là vấn đề mà cả thế giới phải đối mặt. Những vấn đề có tính thách thức tồn
cầu này đã làm cho tình hình an ninh, chính trị nhiều nơi biến chuyển theo một chiều
hướng bất lợi cho sự phát triển, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của thế giới. Tính
chất nghiêm trọng và phức tạp của những vấn đề tồn cầu đang địi hỏi các nước, nhất là
các nước đang phát triển cần đóng góp tích cực hơn nữa trong sự phối hợp, hợp tác hành
động một cách có hiệu quả thiết thực. Trong lĩnh vực này, Việt Nam và Liên bang Nga
hồn tồn có cơ sở và điều kiện thực tế để tăng cường các quan hệ hợp tác trong khuôn

khổ song phương cũng như đa phương.
1.1.2. Bối cảnh khu vực
Bước sang thế kỷ XXI, với đặc điểm địa lý, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong
phú và tiềm năng phát triển to lớn, khu vực Châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục trở thành
trọng tâm địa chính trị tồn cầu. Hiện nay, Châu Á - Thái Bình Dương có vai trị đặc biệt
quan trọng trên nhiều phương diện của đời sống thế giới, đã và đang là nơi hội tụ, giao
thoa lợi ích chiến lược của tất cả các nước lớn. Đây cũng là khu vực tập trung nhiều nền
15


kinh tế hàng đầu của thế giới như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ… Vì thế, các
cường quốc thế giới đều mong muốn tăng cường ảnh hưởng tại khu vực quan trọng này.
“Chính sách hướng Đơng”, “Chính sách xoay trục” và sự can dự ngày càng sâu của các
cường quốc thế giới vào Châu Á - Thái Bình Dương đã đặt khu vực trước những cơ hội
và thách thức an ninh mới, đồng thời nói lên vai trị chiến lược của khu vực này trong thế
kỷ XXI.
Liên bang Nga được lợi ích gì ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương? Khu vực này
ln chiếm một vị trí quan trọng trong chiến lược toàn cầu của Nga và cũng là nơi mà
Nga có được nhiều lợi ích:
Trong lĩnh vực kinh tế: Châu Á - Thái Bình Dương có vai trò quan trọng trong sự
phát triển nền kinh tế của Liên bang Nga nói chung, đặc biệt là vùng lãnh thổ châu Á rộng
lớn của nước này. Đây là khu vực tập trung nhiều nền kinh tế hàng đầu của thế giới như
Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ… Nhìn chung Châu Á -Thái Bình Dương là khu vực
có thị trường lớn và phát triển năng động, tăng trưởng kinh tế cao và là động lực cho sự
tăng trưởng kinh tế tồn cầu. Do đó, xác lập và tăng cường vai trò của Nga ở khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương sẽ là điều kiện cần nhằm phục vụ cho sự phát triển nước Nga.
Hơn nữa, trong sự trỗi dậy của nhiều nước khu vực Châu Á - Thái Bình Dương hiện nay,
nhiều nước có nhu cầu nhập khẩu lớn về dầu mỏ và khí đốt và Liên bang Nga là nước có
khả năng cung cấp nhu cầu này. Việc Mỹ và EU tiến hành trừng phạt kinh tế đối với Nga
liên quan đến cuộc khủng hoảng Ukraine thì Châu Á - Thái Bình Dương sẽ là khu vực

Liên bang Nga càng tập trung sự ưu tiên nhằm đáp ứng nu cầu phát triển kinh tế của nước
Nga.
Trong lĩnh vực chính trị - an ninh: Châu Á - Thái Bình Dương có vị trí quan trọng
mang tính chiến lược đối với Liên bang Nga. Tuy là nước kế thừa vị trí của Liên Xơ, song
tiềm lực và sức mạnh quân sự của Nga hiện nay đã giảm đi đáng kể. Tiềm năng vũ khí hạt
nhân và địa bàn triển khai của Nga cũng giảm đi đáng kể so với Liên Xơ trước đây (do
một số lượng vũ khí này được triển khai ở Ukraine, Belarut và Cadacstan). Cùng với việc
giải tán khối quân sự Vacsava, Liên bang Nga không những mất đi khu vực đệm chiến
lược giữa Nga và NATO mà còn mất đi nhiều căn cứ quân sự quan trọng ở phía Tây và
16


Nam nước Nga, đặc biệt khi NATO đang mở rộng về phía Đơng và tiến đến sát biên giới
phía Tây và Tây - Nam nước Nga.
Liên bang Nga là nước vốn có rất ít căn cứ qn sự ở nước ngoài so với các nước
lớn khác, cho nên Châu Á - Thái Bình Dương là mơi trường tốt nhất để Liên bang Nga,
khi cần thiết, có thể triển khai lực lượng qn sự của mình nhằm bảo vệ lợi ích của nước
Nga cũng như có thể can dự đến nhiều vấn đề quốc tế khác có liên quan. Nga cho rằng:
“Sự hiện diện của hải quân Nga trên vùng biển quốc tế cần phải được mở rộng và chỉ
trong trường hợp đó, các đối thủ sẽ tơn trọng nước Nga hơn”. Vấn đề này càng có ý nghĩa
hơn đối với Nga, khi vấn đề tranh chấp biển đảo đang diễn ra gay gắt ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương.
Đơng Nam Á nằm ở giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, nối liền đại lục
Châu Á với Châu Đại Dương, hình thành “ngã tư” giữa hai châu lục, không những là con
đường tất yếu cho sự lưu thông giữa Châu Á, Châu Phi, Châu Âu và Châu Đại Dương, mà
còn là khu vực vận tải nhộn nhịp giữa Bắc Mỹ, Nam Mỹ với Nam Á. Nơi đây có nhiều eo
biển quan trọng mang ý nghĩa chiến lược. Với tầm quan trọng của mình, Đơng Nam Á trở
thành một khơng gian địa chiến lược và địa chính trị vào loại nhạy cảm ở Châu Á - Thái
Bình Dương. Đồng thời, khu vực này cũng là nơi mà sự đan xen và tương tác quyền lực
giữa các nước lớn rất phức tạp, với trạng thái cạnh tranh quyết liệt, trong khi sự dung hịa
lợi ích và quyền lực giữa họ cũng thiếu sự ổn định.

Trong những năm đầu của thế kỷ XXI, khu vực Đông Nam Á phải đối diện với hai
tình huống nổi bật. Về phương diện quốc tế, những thách thức do chủ nghĩa khủng bố và
mối lo ngại an ninh phi truyền thống ngày càng gia tăng. Về phương diện khu vực, đó là
sự nổi lên của Trung Quốc cả về kinh tế lẫn quân sự cùng với những hành động gây hấn
của quốc gia này tại khu vực Biển Đông, sự can dự của các cường quốc trong và ngoài
khu vực khiến các nước ASEAN phải đương đầu với những thách thức ở cấp độ quốc gia
lẫn khu vực, bao gồm an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống. Sự can dự ngày
càng một rõ ràng của các cường quốc, nhất là khi cả Trung Quốc, Nhật Bản và Ấn Độ đều
có chung mục tiêu lựa chọn là Đông Nam Á làm sân chơi thử nghiệm quyền lực vươn xa,
xác lập vai trò thế lực toàn cầu. Tương tác quyền lực của các nước lớn chắc chắn sẽ nảy
sinh va chạm hoặc sự thỏa hiệp có thể mang lại cho ASEAN cả thời cơ lẫn thách thức,
17


đồng thời báo trước sự cạnh tranh ảnh hưởng của họ sẽ là một q trình dài, có tính chất
phức tạp, với nhiều cách thức và chiêu thuật khác nhau.
Tất cả các đối tác lớn của ASEAN, như Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Ấn Độ, Nga,
Liên Minh Châu Âu (EU).. đều đang thực hiện các chính sách hướng về Đơng Nam Á với
quy mô và cường độ mới, phù hợp với biến động nhanh chóng của tình hình quốc tế và
khu vực, trong đó dành ưu tiên cao và củng cố thúc đẩy quan hệ với ASEAN, ủng hộ xây
dựng cộng đồng ASEAN cũng như vai trò trung tâm của hiệp hội trong cấu trúc khu vực
đang định hình, tiếp tục đẩy mạnh hợp tác nhằm ứng phó các thách thức đang đặt ra.
Cũng như nhiều cường quốc lớn trên thế giới đang chuyển hướng về Đông Nam Á,
Nga không thể thờ ơ với việc hợp tác và đầu tư phát triển ở một trong những khu vực phát
triển nhanh nhất thế giới hiện nay. Đồng thời, sự xấu đi trong quan hê với Mỹ và phương
Tây do vấn đề về Ukraine làm cho nhu cầu tăng cường hợp tác kinh tế thương mại với các
nước khu vực Đông Nam Á đang trở nên thiết thực với Nga. Ngoài các lợi ích về kinh tế,
tiềm năng và lâu dài, thì vị thế chiến lược của ASEAN chắc chắn không nằm ngồi sự
quan tâm của Nga. Các nước Đơng Nam Á có tiềm năng đóng vai trị đáng kể trong sự
phát triển của Xibiri và Viễn Đơng. Đến lượt mình Nga có vai trị quan trọng đối với việc

duy trì hịa bình, an ninh, ổn định và phát triển trong khu vực tiến trình ASEAN hội nhập
và phát triển cộng đồng chung, sự tham gia của Nga vào các diễn đàn khu vực do ASEAN
đóng vai trị trung tâm đã làm tăng giá trị, tầm quan trọng của ASEAN.

1.2. Khái quát lịch sử mối quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga
1.2.1. Quan hệ Việt Nam - Liên Xô kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao đến
trƣớc năm 1991
Quan hệ Việt Nam - Liên Xô được xây dựng và phát triển trên nền tảng quan hệ về
chính trị giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Liên Xơ. Hai bên đã chính
thức thiết lập quan hệ ngoại giao vào ngày 30/1/1950. Đây là một dấu mốc quan trọng
trong đường lối đối ngoại của Việt Nam. Với việc được Trung Quốc, Liên Xô là những
nước đầu tiên và sau đó là các nước XHCN khác lần lượt cơng nhận và thiết lập quan hệ
ngoại giao, Việt Nam đã phá được thế bao vây cô lập về mọi mặt của đế quốc thực dân,
nhất là về chính trị. Tại các diễn đàn quốc tế như Liên Hợp Quốc, với tư cách là một
cường quốc ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc, một đồng chủ tịch Hội nghị Geneva về
18


Việt Nam, Liên Xô đã quyết lên án hoạt động phá hoại Hiệp định của bọn đế quốc và tay
sai, yêu cầu thực hiện nghiêm chỉnh các điều khoản của Hiệp định, tiến tới Tổng tuyển cử
và thống nhất đất nước. Mối quan hệ chặt chẽ đặc biệt giữa hai nước được thể hiện trong
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, kỹ thuật, quân sự, giáo dục, đặc biệt nhân dân Việt Nam và
thế giới đều biết đến Liên Xô là người anh cả, nhà viện trợ lớn đối với công cuộc kháng
chiến giành độc lập và xây dựng đất nước của Việt Nam.
Sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô, cũng là thời kỳ nhân dân Việt
Nam tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đây là thời kỳ diễn ra nhiều biến
động phức tạp trong quan hệ quốc tế. Đó là sự bất đồng ngày càng nghiêm trọng giữa các
đảng cầm quyền trong các nước xã hội chủ nghĩa về chiến lược và sách lược cách mạng,
sự phát triển mạnh mẽ của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và phong trào khơng
liên kết trong khung cảnh căng thẳng của chiến tranh lạnh Đơng - Tây. Bối cảnh quốc tế

đó đã tác động khá sâu sắc tới quan hệ Việt Nam - Liên Xô. Song nhờ những nỗ lực
chung của lãnh đạo hai nước, đặc biệt là phía Việt Nam, quan hệ Việt Nam - Liên Xô
từng bước được xây dựng vững chắc và phát triển ngày càng toàn diện trên cơ sở các hiệp
định, hiệp ước và nghị định song phương. Ngày 12/7/1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi
thăm hữu nghị chính thức Liên Xô lần đầu tiên với tư cách nguyên thủ quốc gia. Trong
dịp này, hai nước đã ký các hiệp định hợp tác, đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho các quan hệ
hợp tác cụ thể nhiều mặt của Việt Nam với Liên Xơ. Về phía Liên Xơ, chuyến thăm Việt
Nam của Chủ tịch Xô Viêt tối cao Liên Xô Vorosilov năm 1957, chuyến thăm của Bộ
trưởng Liên Xô A.N. Kosyghin ngày 6/2/1965…Trong khoảng 20 năm, từ tháng 7 năm
1955 đến hết năm 1975, Chính phủ Liên Xơ đã ký với Chính phủ Việt Nam 19 Hiệp định,
1 Hiệp ước và 1 Nghị định thư. Trong đó có trên 50% là hiệp định về việc Liên Xô viện
trợ, giúp đỡ Việt Nam trong hầu hết các lĩnh vực đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, văn
hóa và khoa học, kỹ thuật …để Việt Nam thực hiện các kế hoạch khơi phục kinh tế, phát
triển văn hóa, tăng cường tiềm lực quốc phòng, đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước đi đến thắng lợi. [32, tr57-60]
Năm 1975, Việt Nam hồn thành sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, chính
thức xây dựng một nhà nước Việt Nam thống nhất theo con đường XHCN. Quan hệ Việt
Nam - Liên Xô vẫn không ngừng được củng cố và phát triển. Ngày 3 tháng 11 năm 1978,
19


×