Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

(Luận văn thạc sĩ) văn xuôi nguyễn thị kim hòa dưới góc nhìn nữ quyền luận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (917.56 KB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

TRẦN NGỌC ÁNH

VĂN XUÔI NGUYỄN THỊ KIM HÕA DƢỚI GĨC NHÌN NỮ QUYỀN
LUẬN

Chun ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8229030.04

Hà Nội - 2020


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU................................................................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 7
4. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 8
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 8
6. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 8
7. Cấu trúc luận văn .......................................................................................... 9
PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................................................................ 10
CHƢƠNG 1: LỊCH SỬ NỮ QUYỀN VÀ HÌNH TRÌNH NGHỆ THUẬT
CỦA NGUYỄN THỊ KIM HỒ .................................................................. 10
1.1. Khái lược về lịch sử nữ quyền ................................................................. 10
1.1.1. Khái niệm nữ quyền .............................................................................. 10
1.1.2. Sự ra đời và phát triển của nữ quyền luận ............................................ 11
1.1.3. Ý thức nữ quyền trong dòng văn học Việt Nam ................................... 13


1.2. Hành trình nghệ thuật của Nguyễn Thị Kim Hịa .................................... 17
1.2.1. Nguyễn Thị Kim Hịa và hành trình sáng tạo nghệ thuật ..................... 17
1.2.2. Quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Thị Kim Hòa................................. 20
CHƢƠNG 2: Ý THỨC NỮ QUYỀN TRONG VĂN XUÔI NGUYỄN THỊ
KIM HÕA QUA HỆ THỐNG NHÂN VẬT NỮ ........................................ 23
2.1. Nhân vật nữ - hình tượng trung tâm trong sáng tác của Nguyễn Kim Hòa .
……………………………………………………………………………….23


2.1.1. Nhân vật nữ - nhân vật chính trong văn xi Nguyễn Thị Kim Hịa
......................................................................................................................... 23
2.1.2. Những người phụ nữ bất hạnh .............................................................. 25
2.2. Ý thức nữ quyền của nhân vật nữ trong văn xi của Nguyễn Thị Kim
Hịa .................................................................................................................. 33
2.2.1. Ý thức về vẻ đẹp và vai trò của người phụ nữ trong xã hội .................. 33
2.2.1.1. Ý thức về vẻ đẹp thân thể ................................................................... 33
2.2.1.2. Ý thức về thiên chức làm mẹ ............................................................. 37
2.2.2. Tinh thần đấu tranh cho bình đẳng giới .............................................. 408
2.2.2.1. Đấu tranh xóa bỏ quan niệm tòng thuộc và những ràng buộc ......... 408
2.2.2.2. Ý thức bình đẳng về dục tính ........................................................... 453
2.2.2.3. Người phụ nữ tự chủ trong mưu cầu hạnh phúc .............................. 497
CHƢƠNG 3: SẮC THÁI NỮ QUYỀN TRONG VĂN XUÔI NGUYỄN
THỊ KIM HÕA NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN BIỂU HIỆN ..................... 554
3.1. Điểm nhìn trần thuật............................................................................... 554
3.1.1. Điểm nhìn bên ngồi ............................................................................. 55
3.1.2. Điểm nhìn bên trong............................................................................ 620
3.2. Giọng điệu trần thuật .............................................................................. 675
3.2.1. Giọng điệu mỉa mai, châm biếm ......................................................... 675
3.2.2. Giọng điệu chiêm nghiệm, triết lí ....................................................... 742
3.2.3. Giọng điệu đậm chất trữ tình .............................................................. 786

3.3. Ngơn ngữ trần thuật ............................................................................... 842
3.3.1. Ngôn ngữ giàu cảm xúc ...................................................................... 842


3.3.2. Ngơn ngữ mang tính phồn thực .......................................................... 931
PHẦN KẾT LUẬN ..................................................................................................................................... 986
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 99


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Bước ra khỏi mưa bom bão đạn chiến tranh, văn học sau năm 1986 chứng
kiến sự phát triển mạnh mẽ của ý thức cái tơi cá nhân. Khơng chỉ vậy, nhà văn
cịn có cái nhìn đa chiều để khai thác hiện thực ở nhiều góc độ. Với xu hướng
dân chủ hóa, văn học hướng ngịi bút của mình để xác lập sự bình đẳng về
giới. Luồng gió mới của thời đại với những đường lối Đổi mới đã trở thành cú
hích cho sự xuất hiện của hàng loạt những cây bút nữ, đặc biệt ở thể văn xuôi
sau năm 1986: Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Phan Thị Vàng Anh, Y
Ban… Họ muốn trở thành người mang sứ mệnh tự hát khúc nhạc của thân
phận nữ, tự khẳng định vẻ đẹp và vai trò, thiên chức của bản thân trong xã
hội. Qua những trang văn, người cầm bút đã gián tiếp thể hiện “ý thức nữ
quyền”. Và vấn đề về giới là điều văn học đương đại Việt Nam nói chung,
Nguyễn Thị Kim Hịa nói riêng đã và đang cịn trăn trở.
1.2. Nguyễn Thị Kim Hòa là nhà văn giàu nghị lực thuộc thế hệ 8x. Năm
2009, Kim Hòa cho ra đời sáng tác đầu tay. Với nỗ lực không ngừng nghỉ trên
con đường văn chương, nhà văn họ Nguyễn đã dần khẳng định được ví trí của
mình trong lịng bạn đọc.
Nguyễn Thị Kim Hịa ln có những tìm tịi, khám phá để phản ánh lên
trang viết sự đa dạng của cuộc sống con người. Ngoài những “rung động đặc
biệt” dành cho lứa tuổi thiếu nhi, nhà văn cịn dành tình cảm đặc biệt của

mình cho những người phụ nữ: “Tơi hay nghĩ về những người phụ nữ quanh
tôi: Những người thân yêu ruột thịt, bạn bè, hàng xóm, những người quen sơ
hay cả những người chưa gặp một lần. Tất cả họ, dù khác nhau về hồn cảnh
sống, gia đình hay vị trí xã hội, vẫn có chung nhau một khát khao cháy bỏng

1


khôn cùng về hạnh phúc. Câu chuyện về thứ khát khao ấy đeo đẳng tôi.
Những bi kịch hay hạnh phúc từ thứ khát khao ấy ám lấy tôi. Dồn đuổi. Thơi
thúc. Nên tơi viết” [17]. Việc tìm hiểu hình tượng nhân vật nữ trong sáng tác
của Nguyễn Thị Kim Hòa dưới góc độ nữ quyền luận là cơ hội cho chúng tôi
khám phá tư tưởng và nghệ thuật cũng như tâm hồn nhà văn.
1.3. Trong nửa thế kỉ qua, thế giới đã chứng kiến những biến chuyển quan
trọng liên quan đến giới tính. Học thuyết nữ quyền đã ảnh hưởng đến nhiều
ngành khoa học, đặc biệt là trong phê bình văn học. Nghiên cứu văn học dưới
góc độ phê bình nữ quyền là hướng nghiên cứu đầy triển vọng và gợi mở
nhiều hứng nghiên cứu.
Ở Việt Nam, phê bình văn học nữ quyền chưa có bề dày lịch sử phát
triển và trưởng thành. Việc vận dụng lí thuyết nữ quyền vào nghiên cứu tác
phẩm chưa được chú ý đúng mực. Điều đó ảnh hưởng đến q trình tiếp cận
nội dung và nghệ thuật đứa con tinh thần của tác giả.
Thực trạng nghiên cứu văn học đó và sức lơi cuốn của trang văn Nguyễn
Thị Kim Hịa đã thơi thúc chúng tơi chọn lựa đề tài: Văn xi Nguyễn Thị Kim
Hịa dưới góc nhìn nữ quyền luận. Thơng qua đề tài này, chúng tôi muốn mở
thêm một cánh cửa để bước sâu hơn vào thế giới nghệ thuật của Nguyễn Thị
Kim Hịa. Đồng thời, chúng tơi cịn xác định tầm ảnh hưởng của phê bình nữ
quyền tới phương thức nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật nữ trong
sáng tác của nhà văn.
2. Lịch sử vấn đề

2.1. Lịch sử nghiên cứu về nữ quyền trong văn xuôi Việt Nam sau năm
1986

2


Trước sự trỗi dậy của làn sóng nữ quyền, giới nghiên cứu văn học ở Việt
Nam đã có những nhìn nhận khách quan về vấn đề này. Trong bài nghiên cứu
Phê bình văn học nữ quyền, Lý Lan từng khẳng định: “Sự phát triển lực
lượng nhà văn nữ trong gần một thế kỷ qua, nhất là ba thập niên gần đây và
những thành tựu họ đạt được đã khẳng định sự tồn tại và khởi sắc của một
nền văn học nữ Việt Nam đương đại, và thực tế này đòi hỏi những lí thuyết
văn học tương thích để phân tích phê bình và đánh giá” [28]. Sự phát triển
nhanh chóng về lực lượng nhà văn nữ và thành tựu họ đóng góp cho nền văn
học nước nhà đã đặt ra nhiệm vụ mới cho giới phê bình, nghiên cứu.
Mở đầu bài viết Những khúc quành của văn học nữ Việt Nam đương đại,
Đồn Ánh Dương có viết: “Chiến tranh kết thúc, rồi đất nước đổi mới, cùng
với bước ngoặt của cả dân tộc, văn học nữ Việt Nam cũng từng bước chuyển
mình” [9]. Giới phê bình nghiên cứu đã nhìn nhận sự chuyển mình của nền
văn học nói chung và văn học nữ nói riêng. Dấn thân vào cuộc viết, nhà văn
đã tạc tạo nên hình tượng người phụ nữ giữa cuộc sống đời thường ngổn
ngang những âu lo, trăn trở.
Năm 2006, Nguyễn Đăng Điệp trong bài viết Vấn đề phái tính và âm
hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam đương đại đã nhận xét: “Sự phát
triển mạnh mẽ của đất nước và những nỗ lực tạo nên sự bình đẳng về giới kể
từ 1986 đến nay đã tạo nên những tiền đề cơ bản để giúp người đàn bà thốt
khỏi sự áp chế của đàn ơng, khiến cho họ có khả năng tồn tại độc lập và có
khả năng tự quyết số phận của mình. Người đàn bà khơng cịn quanh quẩn
nơi xó bếp mà đã tham gia nhiều hơn vào các hoạt động xã hội” [11]. Nguyễn
Đăng Điệp nhận thấy hình ảnh người phụ nữ trong thời đại mới dám đứng lên

địi thế bình đẳng và khẳng định vị thế mình trong xã hội. Bởi lẽ đó, âm
hưởng nữ quyền ngày càng rõ nét trong văn học Việt Nam đương đại.

3


Bùi Thị Thủy trong bài Dấu hiệu nữ quyền trong văn học nữ Việt Nam
đương đại có viết: “Sự phát triển mạnh mẽ của đất nước và những nỗ lực tạo
nên sự bình đẳng về giới kể từ 1986 đến nay đã tạo nên những tiền đề cơ bản
để giúp người đàn bà thoát khỏi sự áp chế của đàn ông, khiến cho họ có khả
năng tồn tại độc lập và có khả năng tự quyết số phận của mình. Người đàn bà
khơng cịn quanh quẩn nơi xó bếp mà đã tham gia nhiều hơn vào các hoạt
động xã hội. Nhiều phụ nữ được cử giữ những chức vụ cao trong hệ thống
chính trị. Nhưng quan trọng hơn, ý thức về giới một cách tự giác đã ăn sâu
vào tâm thức của đội ngũ cầm bút và tạo nên âm hưởng nữ quyền trong văn
học” [43]. Bùi Thị Thủy đã có những đánh giá về sự thay đổi vai trị của
người phụ nữ trong xã hội. Từ thực tế trong hiện thực cuộc sống đã giúp các
nhà văn tự ý thức được quyền và nghĩa vụ của người phụ nữ. Âm hưởng nữ
quyền đã vang vọng trong các sáng tác làm nên làn sóng thay đổi tư tưởng đã
ăn sâu trong tiềm thức của con người Việt Nam từ xưa đến nay. Cùng chung
hướng nghiên cứu này, chúng ta không thể không kể đến một số bài viết như:
Văn xuôi các nhà văn nữ sau 1975 nhìn từ diễn ngơn giới (Thái Phan Vàng
Anh), Tản mạn về dục tính và nữ quyền (Nguyễn Vy Khanh), Quan niệm về
thân thể người nữ trong văn học Việt Nam – một cái nhìn phác thảo (Mai Thị
Hồng Tuyết – Hoàng Thị Duyên và cơng trình nghiên cứu cơng phu với tên
Nữ quyền luận ở Pháp và tiểu thuyết nữ Việt Nam đương đại (Trần Huyền
Sâm)…
Bước sang đầu thế kỉ XXI, nghiên cứu nữ quyền mới chỉ dừng lại ở
những bài nghiên cứu đơn lẻ. Và đến năm 2008, lần đầu tiên có luận văn
nghiên cứu sâu về phê bình nữ quyền. Với tâm huyết của mình, Hồ Khánh

Vân đã bảo vệ thành cơng đề tài Từ lí thuyết phê bình nữ quyền nghiên cứu
một số tác phẩm văn xuôi của các tác phẩm nữ Việt Nam từ năm 1990 đến
nay. Và sau đó đã xuất hiện nhiều hơn những đề tài nghiên cứu, khóa luận,
4


luận văn nghiên cứu về vấn đề nữ quyền trong văn học. Đặc biệt giới nghiên
cứu chú ý đến hai cơng trình luận án làm về xu hướng này của tác giả Nguyễn
Thị Thanh Xuân và Mai Thị Thu. Đó là Vấn đề phái tính và âm 30 hưởng nữ
quyền trong văn xuôi Việt Nam đương đại (Qua sáng tác của một số nhà văn
nữ tiêu biểu) của tác giả Nguyễn Thị Thanh Xuân (Luận án tiến sĩ văn học –
Học viện Khoa học xã hội – Năm 2013) và Luận án Tinh thần nữ quyền trong
văn xuôi Việt Nam sau 1986 của tác giả Mai Thị Thu (Luận án tiến sĩ Ngữ
văn – Trường Đại học sư phạm Hà Nội – Năm 2015). Đây được xem là hai
cơng trình nghiên cứu khá chuyên sâu về ý thức nữ quyền trong các tác phẩm
văn xuôi.
Như vậy, thông qua các bài viết và cơng trình nghiên cứu, ta có thể thấy
ý thức nữ quyền chỉ mới xuất hiện ở nước ta vào những năm cuối thể kỉ XX
nhưng ảnh hưởng của nó để lại rất lớn. Lí thuyết về nữ quyền với những nội
dung đúng đắn đã trở thành một điểm tựa thúc đẩy hành trình khám phá tác
phẩm văn chương, đặc biệt là văn xuôi nữ. Từ những kết quả nghiên cứu, ta
có thể nhận thấy vấn đề chung trong văn học Việt Nam đương đại là sự xuất
hiện đông đảo của lực lượng các nhà văn nữ, đặc biệt họ đã tự cất tiếng nói
riêng cho giới mình để tìm được sự bình quyền. Và có một sự thật hiển nhiên
không thể chối bỏ là nữ quyền luận đã tác động lớn đến nhận thức của người
cầm bút, đặc biệt là các nhà văn nữ - người tự cầm chìa khóa mở cánh cửa
mới cho chính giới nữ.
2.2. Lịch sử nghiên cứu văn xi Nguyễn Thị Kim Hịa
Với sức viết bền bỉ, Nguyễn Thị Kim Hòa đã cho ra đời hàng loạt
những tác phẩm văn xuôi ghi dấu ấn như: Nho đắng, Đỉnh khói, Ngồi cửa sổ

nắng tan (truyện ngắn); Cơn lũ vẫn chưa qua (truyện dài); Sa mạc & Những
vệt nhớ (tản văn); Tay chị tay em, Thần Cupid có nhầm khơng, Cút cà cút kít,
5


Leng keng Noel, Công chúa nhỏ chăn cừu, Chiếc áo của Gián đất (sáng tác
cho thiếu nhi). Trong cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ Quân đội
năm 2013 – 2014, cô gái trẻ đến từ Ninh Thuận đã xuất sắc giành giải Nhất
cuộc thi với 3 truyện ngắn: Hương thôn dã, Đỉnh khỏi và Thôi mùa cỏ cháy.
Trong buổi trả lời phỏng vấn VanVN.Net, nhà văn Nguyễn Bình Phương –
Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ quân đội đã nhận xét: “Ở chùm truyện đoạt
giải nhất của Nguyễn Thị Kim Hịa thì mỗi truyện có một lối khai thác và
cách đề cập tới thân phận con người riêng, sâu sắc mà cũng rất dữ dội. Đó là
tác giả có kĩ thuật viết rất tốt, nhuần nhuyễn, khơng khiên cưỡng. Với những
điều ấy, tơi nghĩ ban Chung khảo có căn cứ để hy vọng đây là một tác giả có
nội lực đi bền bỉ để tiến tới một sự nghiệp chứ không chỉ là một cây bút trẻ
của thời của đoạn” [19].
Nguyễn Xuân Thủy trong bài viết phần Phụ lục cuốn truyện ngắn Đỉnh
khói từng nhận xét: “Tìm trong chữ nghĩa nhặt ra nụ cười” [19, tr. 173]. Ẩn
sau mỗi câu, mỗi chữ là tình yêu đời, yêu người của nữ nhà văn. Một nụ cười
mãn nguyện, một niềm vui hân hoan của Kim Hòa khi viết nên những điều
đáng viết cho cuộc sống này.
Các bài viết về văn xi Nguyễn Thị Kim Hịa đa phần là những bài
báo điện tử mang tính chất giới thiệu sách, điểm tin, được viết với phong cách
phê bình truyền thơng cập nhật, ngắn gọn nhưng khơng đi sâu phân tích, cắt
nghĩa, lí giải. Dưới đây là những bài viết tiêu biểu:
-

Thân phận và khát khao của người phụ nữ trong Đỉnh khói của Nguyễn
Thị Kim Hòa.


-

Tác giả trẻ Nguyễn Thị Kim Hòa – Vượt qua khiếm khuyết để tỏa sáng.

- Nguyễn Thị Kim Hịa: Đơi tay cày cánh đồng chữ
-

Thân phận người phụ nữ trong huyền ảo lịch sử.

6


Nguyễn Thị Kim Hòa: “Lạc quan và hy vọng là bạn của tơi”.

-

Nhìn chung, các tài liệu nghiên cứu về văn xi Nguyễn Thị Kim Hịa
chưa nhiều và chưa đi sâu nghiên cứu về vấn đề ý thức nữ quyền. Thực tế đó
thơi thúc chúng tơi tiếp tục đi sâu khám phá, làm sáng tỏ vấn đề có ý nghĩa lí
luận và thực tiễn này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là ý thức nữ quyền trong văn xuôi
Nguyễn Thị Kim Hịa dựa trên bình diện nội dung và nghệ thuật. Ở luận văn
này, chúng tôi tập trung làm nổi bật ý thức nữ quyền trong văn xuôi Nguyễn
Thị Kim Hòa dựa trên việc:
- Lược thảo sự xuất hiện của nhân vật nữ theo tiến trình thời gian lịch
sử.
- Phân tích sự ám ảnh về thân phận nhân vật nữ và khẳng định ý thức nữ

quyền ẩn lấp bên trong họ.
- Khám phá nghệ thuật biểu hiện ý thức nữ quyền trong sáng tác
Nguyễn Thị Kim Hòa.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi của luận văn này, chúng tôi nghiên cứu những tác phẩm
văn xi Nguyễn Thị Kim Hịa, tập trung vào 3 tập truyện ngắn và truyện dài
sau:
- Nho đắng (2012), Nxb Văn hóa – Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Cơn lũ chưa qua (2014), Nxb Văn hóa – Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí
Minh.
- Đỉnh khói (2015), Nxb Văn hóa – Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bên cạnh đó cịn có sự mở rộng so sánh với một số tác phẩm khác của
Nguyễn Thị Kim Hòa và các nhà văn đương đại khác.
7


4. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là ứng dụng cơ sở lí luận về phê bình
nữ quyền vào làm sáng tỏ những biểu hiện của nữ quyền qua nhân vật nữ
trong văn xuôi Nguyễn Thị Kim Hịa. Từ đó, chúng tơi xác định vị trí của tác
giả trong dòng văn học Việt Nam sau đổi mới.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài Văn xuôi Nguyễn Thị Kim Hịa dưới góc nhìn nữ
quyền luận, chúng tôi vận dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Trên phƣơng diện phƣơng pháp luận:
Phƣơng pháp loại hình: Sử dụng lí thuyết nữ quyền và trần thuật học để
nghiên cứu văn xi Nguyễn Thị Kim Hịa dưới góc nhìn giới
Phƣơng pháp tự sự học: Vận dụng lí thuyết tự sự để phân tích dấu ấn
nữ quyền trong văn xi Nguyễn Thị Kim Hòa.
Phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành: Để làm sáng tỏ vấn đề xoay

quanh nhân vật nữ, chúng tôi vận dụng phối hợp tri thức của các ngành và
chuyên ngành khác như nhân học, phân tâm học và xã hội học.
- Trên phƣơng diện thao tác khoa học:
Phƣơng pháp thống kê: Sưu tầm, thu thập, tổng hợp tài liệu về văn xi
Nguyễn Thị Kim Hịa và hệ thống sự xuất hiện nhân vật nữ trong tác phẩm
của nhà văn Nguyễn Thị Kim Hịa.
Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp: Phân tích những giá trị nội dung,
nghệ thuật nhằm làm nổi bật ý niệm mà tác giả gửi gắm đằng sau mỗi nhân
vật nữ.
Phƣơng pháp so sánh: Đối chiếu với một số tác phẩm có hình tượng
nhân vật nữ tiểu biểu để thấy rõ những nét độc đáo trong cách thể hiện của
Nguyễn Thị Kim Hịa.
6. Đóng góp của luận văn
8


Nghiên cứu nhân vật nữ trong sáng tác văn xuôi của Nguyễn Thị Kim
Hịa, chúng tơi hi vọng luận văn có thể đem lại một số đóng góp sau:
- Giới thiêu gương mặt mới trong nền văn học Việt Nam đương đại.
- Góp thêm một góc nhìn về nhân vật nữ trong sáng tác Nguyễn Thị Kim
Hòa với những đặc trưng tiêu biểu cho giới nữ.
- Góp thêm một hướng tiếp cận, nghiên cứu đối với hình tượng nhân vật
nữ trong tác phẩm văn xi.
- Góp phần khẳng định giá trị của văn xi Nguyễn Thị Kim Hịa và vị
trí văn học sử của tác giả Nguyễn Thị Kim Hòa.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn gồm có ba chương:
Chƣơng I: Lịch sử nữ quyền và hành trình nghệ thuật của Nguyễn
Thị Kim Hịa

Chƣơng II: Ý thức nữ quyền trong văn xuôi Nguyễn Thị Kim Hòa
qua hệ thống nhân vật nữ
Chƣơng III: Sắc thái nữ quyền trong văn xi Nguyễn Thị Kim Hịa
nhìn từ phƣơng diện biểu hiện

9


PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1:
LỊCH SỬ NỮ QUYỀN VÀ HÌNH TRÌNH NGHỆ THUẬT CỦA
NGUYỄN THỊ KIM HOÀ
1.1.

Khái lƣợc về lịch sử nữ quyền
Chủ nghĩa nữ quyền (Feminism) là một trào lưu tư tưởng chống lại chế

độ nam quyền, địi quyền bình đẳng cho người phụ nữ. Trong văn học, nhà
văn đã lên tiếng bảo vệ người phụ nữ, thể hiện rõ ý thức về bình đẳng giới.
Theo sự vận động và phát triển, lí thuyết nữ quyền đã du nhập vào Việt Nam.
Nhìn về dịng chảy của văn học Việt Nam đương đại, ta thấy xuất hiện ngày
càng nhiều những cây bút nữ mang âm hưởng nữ quyền.
1.1.1. Khái niệm nữ quyền
Theo Từ điển Cambiridge, nữ quyền là niềm tin nữ giới được trao cho
các quyền, cơ hội giống như nam giới và được đối xử theo cùng một cách.
Theo từ điển Oxford, nữ quyền là sự ủng hộ quyền của phụ nữ trên cơ sở
bình đẳng giới.
Năm 2003, K.Bhasin đưa ra quan điểm của mình về nữ quyền như sau:
“Nữ quyền là sự nhận thức về quyền lực lực gia trưởng, sự bóc lột ở các cấp
độ vật chất và tư tưởng về lao động, sinh sản, và tình dục của phụ nữ trong

gia đình, ở nơi làm việc và trong xã hội nói chung; và hành động có ý thức
của phụ nữ và nam giới làm biến đổi tình trạng đó” [42].

10


Năm 2007, Hoàng Bá Thịnh đưa ra nhận định nữ quyền là “đấu tranh
cho quyền bình đẳng của phụ nữ với niềm tin dựa trên nguyễn tắc rằng phụ
nữ phải có các quyền và cơ may trong cuộc sống như nam giới về chính trị,
kinh tế, luật pháp,…” [42].
Hiểu theo nghĩa từ nguyên, nữ quyền là quyền lợi của người phụ nữ. Cụ
thể, nữ quyền là: “Quyền bình đẳng của phụ nữ trên mọi lĩnh vực kinh tế, xã
hội và giáo dục. Khái niệm “nữ quyền” ở cấp độ rộng là quyền lợi của người
phụ nữ trong tương quan với nam giới để đạt đến cái gọi là “nam nữ bình
quyền”. Ở cấp độ hẹp thì “nữ quyền” có mối liên quan với các khái niệm như
“giới tính”, “phái tính” là những cơng cụ để khu biệt đặc tính giữa hai phái
(nam/ nữ) thì khái niệm “nữ quyền” khơng chỉ dừng lại đó mà mục đích của
nó hướng tới là sự bình quyền của nam nữ, đồng thời tạo ra hệ quy chuẩn
riêng của nữ giới.” [43].
Như vậy, nữ quyền là quyền lợi bình đẳng của người phụ nữ so với nam
giới trên mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội. Và nữ quyền trong văn học là
tiếng nói phản kháng mạnh mẽ của những cây bút nữ để đòi quyền sống,
quyền hạnh phúc cho người phụ nữ. Người cầm bút đã giãi bày những trăn
trở, suy tư về hiện thực cuộc sống và thơng qua đó họ thẳng thắn bày tỏ vị trí,
vai trị và quyền lợi của nữ giới. Và đặc biệt, qua văn chương, người phụ nữ
trong xã hội đã cho thấy sự bình quyền giữa nam và nữ. Họ không ngần ngại
để thổ lộ những điều thầm kín, bày tỏ những khát vọng giải phóng những uẩn
ức bên trong sâu thẳm tâm hồn.
1.1.2. Sự ra đời và phát triển của nữ quyền luận
Nữ quyền là môt phạm trù lịch sử. Vào năm 1830, thuật ngữ phong trảo

nữ quyền (Feminism) lần đầu tiên được đưa ra và đến năm 1837, nó chính
thức được đưa vào trong cuốn từ điển Pháp. Trải qua mỗi thời đại, trên mỗi

11


vùng lãnh thổ, vấn đề nữ quyền lại được đề cập tới với những biểu hiện khác
nhau.
Từ khoảng năm 1848 đến 1918, đây là thời kỳ đấu tranh đầu tiên của
phong trào nữ quyền. Cuộc cách mạng Pháp đặt những dấu mốc đầu tiên,
được đánh dấu bằng sự ra đời cuốn Biện minh cho quyền phụ nữ của Mary
Wollstonecraft – “tổ mẫu của chủ nghĩa nữ quyền”. Cuốn sách có nội dung
trọng tâm là hướng sự quan tâm vào giáo dục bình đẳng giới và sự tham gia
tích cực của phụ nữ vào các ngành nghề của nam giới. Những hoạt động bước
đầu của người phụ nữ đã đặt những viên gạch nền móng vững chắc để họ có
thể đi xa hơn trong cuộc đấu tranh dành bình quyền. Đến với nước Mĩ, làn
sóng nữ quyền thứ nhất tập trung vào sự đấu tranh cho quyền phụ nữ về chính
trị, đặc biệt là quyền bầu cử. Người phụ nữ muốn xác nhận vị trí và vai trị
của mình trong xã hội.
Từ năm 1918 đến năm 1968, đây được coi là làn sóng nữ quyền thứ hai.
Những nhà lí luận nổi tiếng ở giai đoạn này là: Saint Simon (1760 - 1825),
Charles Fourier (1772 - 1837) người Pháp và Robert Owen (1772 - 1858)
người Anh. Tiêu biểu hơn cả là Marie olympe de Gouge - tác giả của bản
tuyên ngôn nhân quyền về giới nữ, là người đầu tiên trên thế giới đứng lên
đòi quyền lợi cho người da đen. Ở một số nước phương Tây, do quyết liệt
đấu tranh, người phụ nữ đã được hưởng quyền bầu cử và ứng cử. Sau khi có
quyền cơng dân trong tay, họ nhận thấy bản thân vẫn bị đối xử bất công. Cùng
chung sống trong một xã hội nhưng người phụ nữ phải chịu nhiều thiệt thòi so
với nam giới về tiền lương và bị lạm dụng tình dục… Trước thực trạng đó,
phụ nữ lại một lần nữa cùng nhau đứng lên, đấu tranh liên quan đến vấn đề

cải cách xã hội như: tự do ở trường học cho trẻ; chăm sóc sức khỏe cho phụ
nữ, đặc biệt là phụ nữ nghèo và cần chấm dứt việc lạm dụng tình dục… Chính

12


sự trỗi dậy của các nước phương Tây đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhận thức
của người phụ nữ phương Đơng. Họ bắt đầu thấy rõ mình có quyền bình
đẳng, ngang hàng với nam giới.
Từ năm 1968 đến nay, phong trào đấu tranh cho nữ quyền tiếp tục dậy
sóng nhưng tập trung chủ yếu vào những năm 90 của thế kỉ XX. “Làn sóng
nữ quyền thứ ba” – thuật ngữ xuất hiện dùng để xác định giai đoạn mới trong
lịch sử của thuyết nữ quyền luận. Làn sóng này hướng sự quan tâm đến sự
khác biệt bên trong người phụ nữ. Các lý thuyết thuộc làn sóng thứ ba bao
gồm: Lý thuyết nữ quyền và phát triển, lý thuyết giới và phát triển, lý thuyết
nữ quyền các nước đang phát triển và lý thuyết về nữ quyền phụ nữ da đen.
Tác giả tiêu biểu là Doris Lessing. The Golden Notebook (Cuốn sổ tay
vàng) xuất bản năm 1962 được đánh giá là cơng trình vĩ đại nhất trong sự
nghiệp của bà. Tác phẩm được coi như tuyên ngôn của chủ nghĩa nữ quyền.
Ở Việt Nam, từ cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, tư tưởng dân chủ
phương Tây cùng với lí thuyết nữ quyền đã du nhập vào Việt Nam tạo nên
luồng sinh khí mới. Nếu giai đoạn trước, văn học là mảnh đất riêng dành cho
nam giới, những tài năng nổi bật như Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh
Quan, Đoàn Thị Điểm… được coi là những hiện tượng độc đáo thì đến đầu
thế kỉ XX, các tác giả nữ xuất hiện ngày một nhiều. Vấn đề người phụ nữ và ý
thức nữ quyền trong đã được thể hiện trong văn học và thu hút giới báo chí
vào khoảng nửa đầu thế kỉ XX. Đã xuất hiện hàng trăm tờ báo bằng chữ quốc
ngữ và có nhiều tờ báo dành riêng cho người phụ nữ: Nữ giới chung (1918),
Phụ nữ tân văn (1929 - 1935), Phụ nữ thời đàm (1930 - 1934), Phụ nữ tân
tiến (1932 - 1934), Nữ công tạp chí (1936 - 1938)…

1.1.3. Ý thức nữ quyền trong dòng văn học Việt Nam

13


Yếu tố nữ quyền chưa thực sự phát triển mạnh mẽ để trở thành trào lưu
lớn trong văn chương ở Việt Nam, tuy nhiên, trong những tác phẩm văn học
đã có thể hiện ý thức nữ quyền ở các cấp độ và sắc thái khác nhau. Và kể từ
sau năm 1986, ý thức nữ quyền mới được nói đến một cách trực tiếp.
Tìm về với đời sống tâm linh của người Việt, ta sẽ thấy tín ngưỡng thờ
Mẫu là một trong những tín ngưỡng phổ biến đối với đời sống tinh thần của
nhân dân. Sau khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam, tơn giáo này đã kết hợp
với tín ngưỡng thờ Mẫu tạo nên nét văn hóa sinh hoạt riêng trong cộng đồng
người Việt. Trong những ngôi chùa trên dải đất hình chữ S, ta khơng khó để
bắt gặp hình ảnh của ban thờ Phật và ban thờ Mẫu. Từ đời này qua đời khác,
người Việt vẫn truyền tụng những câu chuyện thần thoại, truyền thuyết về sức
mạnh khởi nguyên, giải thích về sự kiến tạo vụ trụ và nguồn gốc giống nòi
của người phụ nữ như: Nữ Oa đội đá vá trời, Con Rồng cháu Tiên… Có lẽ
bởi vậy, trong sâu thẳm tiềm thức mỗi người dân vẫn ln trân trọng, giữ thái
độ thành kính đối với người phụ nữ.
Bước qua dòng chảy của văn học dân gian với những câu chuyện thần
thoại, truyền thuyết, tìm về với văn học trung đại, ta thấy rõ trong suốt mười
thế kỉ dài đằng đẵng, văn học Việt Nam đã chịu ảnh hưởng của Nho giáo.
Dưới sức ép của Nho giáo với tư tưởng trọng nam khinh nữ, văn học tập trung
hướng tới cái ta chung mang tính quốc gia, dân tộc. Tuy nhiên, vẫn có những
cây bút ghi dấu ấn với một phong cách nghệ thuật riêng, đầy táo bạo và mạnh
mẽ như: Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh Quan... Bên cạnh những tác giả
nữ, những cây bút nam cũng dành nhiều sự quan tâm đến thân phận của người
phụ nữ. Và đến thế kỉ XVIII, trên diễn đàn văn học xuất hiện nhiều sáng tác
của Nguyễn Gia thiều, Nguyễn Du, Trần Tế Xương… đậm tinh thần nhân đạo

và giá trị nhân văn. Bằng tài năng và trái tim của người nghệ sĩ, họ đã sáng

14


tạo nên những hình tượng nghệ thuật có sức sống lâu bền. Những thành tựu
rực rỡ đó đã trở thành tiền đề cho sự xuất hiện ngày một nhiều của người phụ
trên cả phương diện đội ngũ sáng tác và trong cả thế giới nghệ thuật.
Từ năm 1945 đến 1975: Ở miền Bắc, do yêu cầu phục vụ cách mạng, cổ
vũ chiến đấu nên ngòi bút nhà văn chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm
hứng lãng mạn. Bởi lẽ đó, vấn đề nghiên cứu ý thức phái tính hay tiếng nói nữ
quyền khơng thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu. Ở miền Nam, tình hình
nghiên cứu nữ quyền trong văn học cũng hết sức mờ nhạt, mặc dù đời sống
sáng tác cũng phong phú và quan điểm của nhà cầm quyền cũng tỏ ra cởi mở
trong việc du nhập nhiều lí thuyết phê bình văn học phương Tây.
Bước ra khói bụi của cuộc chiến tranh chống đế quốc Mĩ năm 1975, tiếp
nhận tư tưởng Đổi mới, hàng loạt nhà văn nữ đã xuất hiện trên diễn đàn văn
học Việt Nam. Nhà văn Võ Phiến từng nhận xét: “Chúng ta đang có nền văn
chương đổi phái tính”. Sau năm 1986, văn học phần đông gắn liền với các tên
tuổi như: Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo, Nguyễn Ngọc Tư, Phạm Thị
Hoài… Trên những trang văn của mình, nhà văn nữ khai thác số phận người
phụ nữ, hướng sự quan tâm đến khao khát hạnh phúc và quyền sống của họ.
Cùng là phái nữ, nhà văn văn dễ dàng khai thác nội tâm nhân vật. Có những
trăn trở, có những lo toan và có cả những đớn đau, tất cả được người cầm bút
diễn tả tinh tế.
Viết về người phụ nữ, văn học đương đại tập trung nhiều vào đề tài tình
yêu. Trước kia, văn học trung đại thường né tránh để người phụ nữ bộc lộ tình
yêu. Hành động “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” của Thúy Kiều
cũng khiến nhiều nhà nho đương thời khó chấp thuận. Và đến cuối thế kỉ XX,
với cái nhìn hiện đại, sự chủ động đi kiếm tìm tình yêu của Kiều trong tác

phẩm Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du mới nhận được sự ngợi ca. Và
15


những thập kỉ cuối thế kỉ XX, chúng ta không khó để bắt gặp những trang văn
bộc lộc trực tiếp khao khát về tình u trịn đầy và hạnh phúc lứa đơi. Người
phụ nữ giờ đây có thể cất bài ca u đương một cách tự do, khơng gị bó và
ràng buộc.
Khuynh hướng duy nữ không chỉ thể hiện ở sự xuất hiện đông đảo của
lực lượng nhà văn nữ mà còn ở số lượng tác phẩm sáng tác và kiểu nhân vật
phong phú. Người đọc biết đến Người đàn bà trên đảo của Hồ Anh Thái,
Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành của Nguyễn Minh Châu, Bến không
chồng của Dương Hướng, Người đàn bà có ma lực, Người đàn bà đứng trước
gương của Y Ban, Thiếu phụ chưa chồng của Nguyễn Thị Thu Huệ, Xưa kia
chị đẹp nhất làng của Tạ Duy Anh… Mỗi đứa con tinh thần đều sự nỗ lực của
nhà văn trên hành trình sáng tạo. Với số phận riêng, phong cách riêng, tác giả
đã tạo nên những tiếng nói và giọng điệu riêng. Bùi Việt Thắng đánh giá:
“Những cây bút nữ đã góp phần quan trọng làm cho văn đàn sơi nóng lên,
hấp dẫn hơn nhờ vào sự đa hương sắc của tác phẩm” [38]. Trước sự đánh giá
cao của giới phê bình văn học, nhà văn càng ý thức rõ sứ mệnh trên con
đường sáng tạo văn chương: không để đứa con tinh thần của mình có anh em
song sinh với bất kì tác phẩm nào.
Về phương diện nội dung, các nhà văn hiện đại Việt Nam tự thơi thúc
mình mở rộng phạm vi phản ánh về thế giới phụ nữ. Trong văn học trung đại,
người phụ nữ đã trở thành đề tài cho nhiều nhà thơ, nhà văn khai thác, đem lại
thành tựu rực rỡ nhưng phải đến với văn học đương đại, hình ảnh người phụ
nữ mới thực sự được quan tâm và thể hiện một cách phong phú, đa dạng.
Không chỉ dừng lại ở sự đồng cảm, xót thương hay ngợi ca vẻ đẹp giới nữ,
những cây bút đương đại đã có cái nhìn đa chiều khi soi chiếu họ. Trong một
bản thể, ln có cả cái tốt – cái xấu, cao thượng – hèn nhát, mạnh mẽ - yếu


16


đuối… Đứng trước những khó khăn của hồn cảnh, trong những bế tắc của
tình u và hơn nhân, họ đã dám đương đầu và vượt lên để làm chủ cuộc đời
mình. Bước ra khỏi cuộc chiến tranh với đầy những chết chóc và tang thương,
nhân vật Thảo trong Người sót lại của rừng cười đã dũng cảm sống tiếp ở
thực tại và trở thành sinh viên khoa Văn. Xoay quanh những câu chuyện về
tình yêu và gia đình, dấu ấn nữ tính được tác giả thể hiện rõ nét. Nhân vật
được nếm trải nhiều cung bậc của cảm xúc, từ cay đắng đến ngọt ngào. Họ
khát khao hạnh phúc, tự do trong yêu đương nhưng cũng dám chấp nhận hi
sinh, buông bỏ hôn nhân như một cách để tự giải thốt cho chính mình.
Trên phương diện nghệ thuật, ý thức nữ quyền cịn được thể hiện thơng
qua kĩ thuật văn chương.Văn học đương đại Việt Nam đi sâu khai thác vào
thế giới nội tâm nhân vật, đào sâu vào ngõ ngách sâu thẳm trong mỗi con
người. Đặc biệt hơn cả, thế giới ấy dưới ngịi bút nhà văn khơng ngừng
chuyển động, thay đổi sắc thái tâm trạng. Những ám ảnh vô thức luôn trở đi,
trở lại trên trang văn. Cùng với đó, nhà văn cũng rất linh hoạt trong việc xây
dựng kết cấu tác phẩm.
Như vậy, ý thức nữ quyền là một đặc điểm đáng chú ý và quan tâm của
văn học Việt Nam đương đại. Bám rễ từ cội nguồn văn hóa Việt và có sự tiếp
thu lí thuyết nữ quyền từ bên ngoài vào, ý thức nữ quyền ở Việt Nam đến cuối
thế kỉ XX đã được thể hiện đa dạng hơn giai đoạn trước. Bởi lẽ đó, người phụ
nữ trong xã hội hiện đại dần tìm được vị thế và khẳng định được vai trò của
bản thân trong gia đình và xã hội.
1.2.

Hành trình nghệ thuật của Nguyễn Thị Kim Hòa


1.2.1. Nguyễn Thị Kim Hòa và hành trình sáng tạo nghệ thuật

17


Nhà văn Nguyễn Thị Kim Hoà sinh năm 1984 tại vùng biển Ninh Thuận
đầy cát trắng và nắng vàng. Năm hai tuổi, một cơn sốt ác tính đã để lại cho
Kim Hòa một cơ thể khiếm khuyết và yếu ớt. Nhưng với nghị lực vượt lên nỗi
đau bệnh tật, Kim Hòa đã tốt nghiệp Trường Cao đẳng Kinh tế đối ngoại TP.
Hồ Chí Minh và có bằng ngoại ngữ Tiếng Anh trình độ C. Về lại q nhà,
khơng đủ sức khỏe để làm việc tại các cơ quan, doanh nghiệp, Kim Hịa trở
thành cơ giáo dạy kèm Tiếng Anh cho các em nhỏ trong xóm và gửi gắm
buồn vui của mình vào những trang viết. Say mê với những con chữ, đôi tay
tật nguyền của chị vẫn ngày đêm miệt mài trên từng trang giấy để thắp sáng
trong người đọc niềm tin, ước mơ, khát vọng sống và cống hiến.
Bắt đầu sáng tác từ năm 2009 đến nay, Nguyễn Thị Kim Hòa đã để lại
nhiều tác phẩm ở một số thể loại: Nho đắng, Đỉnh khói, Ngồi cửa sổ nắng
tan (truyện ngắn); Cơn lũ vẫn chưa qua (truyện dài); Sa mạc & Những vệt
nhớ (tản văn); Tay chị tay em, Thần Cupid có nhầm khơng, Cút cà cút kít,
Leng keng Noel, Công chúa nhỏ chăn cừu, Chiếc áo của Gián đất (sáng tác
cho thiếu nhi). Sau khi trình làng đứa con tinh thần của mình, nhà văn Kim
Hịa đã được bạn đọc cả nước ghi nhận. Nguyễn Thị Kim Hòa lần lượt “rinh”
về đến ba giải thưởng vào loại danh giá. Trong đó có hai giải truyện ngắn và
một giải sáng tác cho thiếu nhi: giải Tác giả trẻ của Ủy ban toàn quốc Liên
hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam vào năm 2012 dành cho tập
truyện Nho đắng, giải nhất cuộc thi truyện ngắn 2013 - 2014 của tạp chí Văn
nghệ quân đội với chùm truyện Hương thơn dã, Đỉnh khói và Thơi mùa cỏ
cháy… và giải nhất cuộc vận động sáng tác Văn học thiếu nhi Việt Nam Đan Mạch 2013 - 2015. Những giải thưởng là sự ghi nhận tài năng và công
sức sáng tạo của nhà văn, đồng th bóng
đêm bng xuống. Và khép lại câu chuyện, Nhí vẫn cơ đơn với mảnh trăng

cuối mùa trên cao. “Siết chặt tay ga, Nhí tăng tốc. Xe lướt nhanh trên con
đường đêm lạnh ngắt. Sau lưng Nhí, mảnh trăng cuối mùa vẫn chênh chếch,
mỏng manh” [17, tr. 30]. Chỉ bằng những câu văn ngắn cũng đủ để tác giả
truyền gửi đến chúng ta sự cô đơn song cũng đầy mạnh mẽ của người phụ nữ.
Bằng giọng điệu trữ tình, Nguyễn Thị Kim Hịa đã miêu tả thiên nhiên
trong không gian rộng để đánh thức những rung động sâu thẳm bên trong
người phụ nữ. Thiên nhiên không đứng ngồi cuộc sống con người mà nó đã
xuất hiện trong cả những bước ngoặt cuộc đời con người. Nhẹ nhàng mà đầy
cảm xúc, cô gái trong Tái sinh đã nghe thấy giai âm của bình yên và thanh
thản. “Trong lịng ơng, cơ nghe thấy tiếng núi bị bỏ lại sau lưng. Rừng khép
cửa, những cành lá lào xào không cịn vướng víu trên má, trên tay cơ. Chỉ êm
êm trong khơng gian dần trở nên thống đãng tiếng mưa hát trên miên man
những đồng cỏ xanh ngăn ngắt. Bình n và thanh thản, cơ khép mắt trong
vịng tay ơng để mưa rửa trôi lớp ký ức bùn lầy” [17, tr. 62]. Những đớn đau
bị chà đạp nơi rừng sâu cũng dần được xoa dịu. Những quá khứ dữ dội rồi
cũng ngủ yên. Thiên nhiên, cây cỏ và cả những hạt mưa như nghe được niềm
vui trỗi dậy trong lòng cô gái. Mắt Đen đã tái sinh hay cô và người đàn ông
82


cũng đã tái sinh. Người phụ nữ với những khao khát sống và hạnh phúc, họ có
quyền được làm lại cuộc đời mình. Họ sẽ tự chủ để thay đổi bản thân, thay đổi
cuộc sống hiện tại và tương lai của chính mình và cho cả thế hệ mai sau.
Quan tâm và dành nhiều trang viết cho những người phụ nữ đang yêu và
âu lo về hạnh phúc gia đình, Nguyễn Thị Kim Hịa cho thấy giọng điệu trữ
tình có tầm quan trọng khi thể hiện tâm tư, tình cảm. Không chỉ những người
phụ nữ mà ngay cả khi viết về trẻ thơ, nhà văn cũng để giọng điệu ấy khai
thác những sợi dây cảm xúc bên trong. Tựu trường ngày mưa là xúc cảm của
những đứa trẻ trong ngày tựu trường. Mưa xuất hiện từ đầu đến cuối tác phẩm
nhưng không phải mưa trong giông tố mà là hạt mưa của mơ ước, của hi vọng

mới. “Ngày tựu trường khơng rộn ràng tiếng trống, khơng những tràng pháo
tay đón chào học sinh mới. Chỉ có tiếng mưa êm ềm gõ nhịp trên khoảng sân
trường ướt lướt thướt” [17, tr. 116]. Mưa đã đón từng bước chân đến trường
và cũng đưa những đứa trẻ vào giấc mơ có lớp, có trường, có quyển vở thơm
mùi giấy mới. Trên ghế nhà trường, những đứa trẻ sẽ viết nên những dòng
chữ của cuộc đời mình. Ở đó, người phụ nữ tìm được quyền bình đẳng với
nam giới. Đậm chất trữ tình nhưng vẫn đủ sức nặng để viết nên những tiếng
nói khẳng định sự bình quyền cho người phụ nữ. Họ được tiếp cận chân trời
của tri thức mới, được trang bị những hiểu biết về xã hội. Và trong cuộc sống
mới, hình ảnh của cả những đứa trẻ là nam, là nữ sẽ cùng nhau đến trường.
Đó sẽ khơng cịn là giấc mơ đậm chất thơ trên trang văn của Nguyễn Thị Kim
Hịa nữa mà nó là hiện thực ở ngồi đời sống.
Như vậy, giọng điệu giàu chất thơ được tác giả thể hiện khi đi vào thế
giới tâm tưởng của nhân vật nữ, một thế giới đầy những khát khao, đầy những
rung động. Đó là giọng điệu của một tâm hồn nữ giới dịu dàng, mơ mộng và
lãng mạn, là chất nữ tính đằm thắm trong từng hơi thở câu văn, làm nên chất

83


thơ bàng bạc trong từng trang văn, ngân vang mãi trong lòng độc giả. Trong
hiện thực khắc nghiệt, người đọc cuối cùng cũng tìm được sự nhẹ nhõm ở
những trang văn đậm chất trữ tình. Đó là cũng là cách Nguyễn Thị Kim Hòa
khẳng định vẻ đẹp tâm hồn bên trong của phái nữ.
3.3. Ngôn ngữ trần thuật
3.3.1. Ngôn ngữ giàu cảm xúc
Theo Từ điên thuật ngữ văn học, “Ngôn ngữ là công cụ, là chất liệu cơ
bản của văn học, vì vậy văn học được gọi là loại hình nghệ thuật ngôn từ” và
ngôn ngữ “là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo,
phong cách tài năng của nhà văn” [34, tr. 149]. Là chất liệu không thể thiếu

của tác phẩm văn chương, ngôn ngữ đã cấu thành nên tác phẩm hoàn chỉnh,
đồng thời giúp nhà văn truyền tải ý đồ tư tưởng. Qua đó, người đọc thấy sự
riêng biệt của mỗi người cầm bút. Là sản phẩm của giới nữ, đọc trang văn
Nguyễn Thị Kim Hòa, người đọc dễ dàng bắt gặp những yếu tố ngơn ngữ
mang đậm chất nữ tính, gợi đến sự liên hệ những gì gần gũi và liên quan đến
đời sống tâm hồn của người phụ nữ. Đó là việc sử dụng đại từ nhân xưng chủ
yếu trong văn xuôi là “em”, “người đàn bà”, “cô gái” hoặc xưng tên,... kết
hợp với các tình từ chỉ cảm xúc. Nguyễn Thị Kim Hịa đã mang đến lớp ngơn
từ của tâm trạng, tự nhiên và uyển chuyển.
Đi vào thế giới nghệ thuật của Nguyễn Thị Kim Hòa, người đọc thấy lớp
vỏ ngôn ngữ của cảm xúc cứ bàng bạc ở các truyện ngắn với những biểu hiện
phong phú trong vẻ đẹp tự thân của nó. Nhà văn đã sử dụng các từ ngữ miêu
tả trực tiếp tâm trạng của nhân vật nữ. Đó là trường từ vựng liên quan đến
cảm xúc của con người: buồn, vui, yêu, ghét, hạnh phúc, đau khổ... Đây chính
là lớp từ diễn tả thành cơng và trọn vẹn thế giới nội tâm bên trong của nhân

84


vật nữ. Người phụ nữ giờ đây khơng cịn ái ngại, rụt rè khi thổ lộ tâm tư, tình
cảm của mình. Với ngơn từ giàu cảm xúc, người phụ nữ trong văn xi
Nguyễn Thị Kim Hịa đã biết cách tự khẳng định bản thân.
Nói hộ tiếng lịng của người cung nữ họ Đặng, tác phẩm Hương Thôn dã
là những cung bậc cảm xúc của Tuyên phi từ thực tại nhớ về quá khứ. Ngôn
ngữ đã diễn tả những thổn thức trong lòng người phụ nữ trong cung cấm. Lao
vào cuộc tranh giành ngôi quyền, để khi rơi vào cảnh thất thế, Tuyên phi nhận
ra mình đã bị quê hương chối từ. Không giấu nỗi đau của một người con xa
xứ Kinh Bắc từ tuổi mười sáu, Đặng Thị Huệ đã bày tỏ những xúc cảm khi
đón túi chè khơ người em trai mang về. “Ta đã áp lên mũi, cố hít thật sâu
dúm lá chè khơ khét lè, hăng hắt. Ta vờ lâng lâng như trôi giữa mùi vị thân

quen, mà đắng lắm cay lắm trong từng tiếng cười, từng câu reo mừng sung
sướng” [19, tr. 70] và “Quê hương cắt lìa ta như ngàn vạn mũi dao từ lời cha
ký thác cắt lìa ta” [19, tr. 71]. Để có được cuộc sống xa hoa nơi cung nhà họ
Trịnh, nhiều cung nữ đã phải đánh đổi bằng cả cuộc đời mình.Và Đặng Thị
Huệ cũng vậy, cơ đã xa rời q hương, bị người cha cắt lìa và đớn đau bao
nhiêu khi chứng kiến cái chết của con trong tuyệt vọng. Nguyễn Thị Kim Hịa
đã dùng ngơn ngữ giàu cảm xúc để đi sâu vào tâm trạng của Huệ trước những
biến cố của cuộc đời. Bằng những thủ đoạn, Đặng Thị Huệ đã ở trên mn
người nhưng Tun phi liệu có vui khơng? Trả lời cho câu hỏi đó, đọc chậm
từng câu văn trong Hương thôn dã ta sẽ thấy được lời giải đáp. “Vui không,
khi trước ta, sau ta, quanh ta chỉ toàn là những sợ hãi, dè chừng, căm ghét.
Những mũi tên tẩm độc ẩn dưới những cái cúi đầu, khom lưng, những tiếng
cười đãi bôi giả tạo. Ta vui không, khi bàn tay nắm quyền lực mà lại để
buông tuột, để lạc đường mất đứa em ruột thịt” [19, tr. 72]. Đằng sau ngôn
ngữ, đằng sau mỗi câu văn là sự dằng xé của Tuyên phi Đặng Thị Huệ. Người
phụ nữ uy quyền ấy biết trái tim mình đang vang lên những khúc quặn đau
85


×