Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

(Luận văn thạc sĩ) những biểu hiện của chủ nghĩa hậu hiện đại trong thơ việt nam đương đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (896.84 KB, 94 trang )

Những biểu hiện của Chủ nghĩa Hậu hiện đại trong thơ Việt Nam đương đại

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------***---------

NGUYỄN THANH HUYỀN

NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA CHỦ NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI
TRONG THƠ VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành: Lý luận văn học

Hà Nội – 2012
0


Những biểu hiện của Chủ nghĩa Hậu hiện đại trong thơ Việt Nam đương đại

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------***---------

NGUYỄN THANH HUYỀN

NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA CHỦ NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI
TRONG THƠ VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI

Luận văn thạc sỹ Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 60220120



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Khánh Thành

Hà Nội – 2012

1


Những biểu hiện của Chủ nghĩa Hậu hiện đại trong thơ Việt Nam đương đại

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin cảm ơn những chỉ dẫn quý báu của PGS.TS. Trần Khánh Thành và
các thầy cô giáo trong tổ Lý luận văn học, Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn trong q trình tơi thực hiện luận văn này.
Xin cảm ơn những người thân trong gia đình và bạn bè đã ln cho tơi sự
động viên, khích lệ trong suốt thời gian học tập và hoàn thành luận văn.
Do những hạn chế chủ quan và khách quan khó tránh khỏi trong q trình
nghiên cứu, luận văn này có thể vẫn cịn nhiều thiếu sót, tơi rất mong nhận được
sự đóng góp của các thầy cơ và bạn bè để có thể hồn thiện hơn trong những
cơng trình nghiên cứu tiếp theo.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 4 năm 2012
Tác giả luận văn

Nguyễn Thanh Huyền

2


Những biểu hiện của Chủ nghĩa Hậu hiện đại trong thơ Việt Nam đương đại


MỤC LỤC
MỤC LỤC ............................................................................................ ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................................................... 0

1.Lý do chọn đề tài…………………………………………………………………………......6

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề………………………………………………..................9
3.Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu………………………….……….…....12
4. Pương pháp nghiên cứu……………………………………………………………..13
5. Cấu trúc luận văn…………………………………………..………………………..14
NỘI DUNG............................................................................................................................................................ 9
CHƢƠNG 1 KHÁI LƢỢC VỀ CHỦ NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI ...................................................................... 9
VÀ THƠ VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI ................................................................................................................... 9

1.1. Khái lược về chủ nghĩa hậu hiện đại……………………………………………….........15
1.1.1. Khái niệm về Chủ nghĩa Hậu hiện đại.......................................................................................................... 9
1.1.2. Lược sử phát triển của Chủ nghĩa Hậu hiện đại trên thế giới .................................................................... 13
1.1.3. Những dấu hiệu của Chủ nghĩa Hậu hiện đại ............................................................................................ 15

1.2 Thơ việt nam đương đại ( sau 1975 )…………………………………………….........….24
1.2.1. Những dấu hiệu đổi mới của thơ trước 1975 ............................................................................................. 17
1.2.2. Bối cảnh chung của thơ Việt Nam sau 1975 .............................................................................................. 18
1.2.3. Những xu hướng cách tân .......................................................................................................................... 19

1.3. Chủ nghĩa hậu hiện đại và thơ việt nam đương đại…………………………………….………....33
CHƢƠNG 2 NHỮNG BIỂU HIỆN VỀ MẶT NỘI DUNG ............................................................................. 29

2.1 Cái "Tơi" trữ tình…………………………………………………..……………………..37
2.1.1. Định nghĩa cái “tơi” trữ tình ..................................................................................................................... 29

2.1.2. Cái “tơi” trữ tình đương đại ...................................................................................................................... 30
2.1.3. Tiếng nói “nữ quyền” của thơ đương đại .................................................................................................. 33

2.2 Những thay đổi về tư tưởng thẩm mỹ……………………….………………………...….53
2.2.1. Định nghĩa về biểu tượng nghệ thuật ........................................................................................................ .43
2.2.2. Từ tư tưởng thẩm mỹ tới biểu tượng nghệ thuật và phong cách nhà thơ Nguyễn Quang Thiều ................. 45
CHƢƠNG 3 NHỮNG BIỂU HIỆN VỀ MẶT HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT ............................................. 57

3.1. Cấu trúc thơ……………….………………………………………………………..……68
3.1.1. Thơ tự do .................................................................................................................................................... 57
3.1.2. Thơ văn xuôi ............................................................................................................................................... 64

3.2. Ngôn ngữ và cách thức "trình diễn" thơ đương đại……………………………………...78

3


Những biểu hiện của Chủ nghĩa Hậu hiện đại trong thơ Việt Nam đương đại
3.2.1. Ngôn ngữ thơ đương đại ............................................................................................................................ .66
3.2.2. Những cách thức “trình diễn” mới của thơ ................................................................................................ 69
KẾT LUẬN ......................................................................................................................................................... 74
THƢ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................................. 78

4


Những biểu hiện của Chủ nghĩa Hậu hiện đại trong thơ Việt Nam đương đại

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

1.1. Thế giới đang chứng kiến một cuộc đổi thay chóng mặt của cơng
nghệ và truyền thơng. Đi cùng với đó là sự lấn át mãnh liệt của những loại hình
nghệ thuật mang tính cơng nghệ cao như phim ảnh, internet, âm nhạc… đã và
đang khiến cho văn hóa “đọc” bị mất dần tầm ảnh hưởng. Đặc biệt là ở những
nước đang phát triển như Việt Nam, sự “lấn sân” này càng thể hiện rõ nét hơn
bao giờ hết. Ngay cả trong phạm vi “văn hóa đọc” nói chung cũng đã có những
phân định ngày một chênh lệch giữa văn xuôi và thơ. Ở những nước tư bản, nhịp
sống nhanh và hiện đại, người ta dễ dàng bắt gặp trên đường phố, quán café, tàu
điện ngầm, xe buýt, những người cầm trên tay một cuốn sách và say sưa đọc.
Nhưng đó là những cuốn tiểu thuyết, truyện ngắn, hay những cuốn sách “cẩm
nang”… Để tìm được một độc giả trung thành với thơ ca ngày nay quả thật là rất
ít ỏi. Ở một nước có truyền thống yêu thơ ca như Việt Nam, hiện tượng này
cũng không tránh khỏi. Giới trẻ bây giờ dành nhiều thời gian cho những mối
quan tâm khác. Nếu đọc, họ thường tìm đến với văn xi, nhất là văn xi trên
mạng – một loại hình văn học mới nhưng đang được các bạn trẻ hưởng ứng một
cách tích cực. Lý do rất đơn giản, văn xuôi dễ tiếp cận hơn thơ ca!
Điều này xem ra có vẻ lạ lùng bởi từ buổi sơ khai của lồi người, thơ ca
xuất hiện trước tiên. Và văn xi lại được xem là một hình thức phát triển cao
hơn của văn học nghệ thuật. Thế nhưng thực tế là văn xuôi phản ánh đời sống
một cách gần gũi hơn thơ ca. Con người hiện đại khơng cịn nhiều thời gian để
đọc, ngẫm nghĩ và thấu hiểu những tầng ý hàm chứa trong ngôn từ cô đọng, ẩn
dụ của thơ ca, họ dễ dàng tìm được những điều họ muốn trong các tác phẩm văn
xi. Điều đó khiến cho thơ ca hôm nay phải đổi thay, để “giữ chân” người đọc.
1.2. Thế là thơ “hậu hiện đại” ra đời, nó nhanh chóng lan rộng và trở
thành một trào lưu trên khắp thế giới. Khi du nhập vào phương Đơng, nó đã
khẳng định được sức mạnh hấp dẫn thực sự của sự đổi thay. Đặc biệt, khi đến
1


Những biểu hiện của Chủ nghĩa Hậu hiện đại trong thơ Việt Nam đương đại


Việt Nam, trào lưu này tạo nên một thế hệ những nhà thơ trẻ (như chúng ta vẫn
thường gọi) với dòng thơ “đương đại”, đã gây nên nhiều “sóng gió” cho đời
sống văn học Việt Nam.
Tính chất mở rộng, phong phú, không thuần nhất của thơ đương đại đã
dẫn đến sự phức tạp, đa chiều trong cách tiếp nhận. Chưa bao giờ lại có một
khoảng cách lớn giữa sáng tạo và tiếp nhận, giữa các quan điểm tiếp nhận như
bây giờ. Tâm lý hoang mang, nghi ngờ của độc giả khi đứng trước một tác phẩm
thơ mới ra đời khơng cịn là chuyện lạ. Cảm giác về sự hay dở nhiều khi chỉ là
do cảm tính, khó mà giải thích, chứng minh một cách rạch rịi. Giữa nhà thơ,
nhất là những nhà thơ có tham vọng cách tân, và một bộ phận cơng chúng khó
có được tiếng nói chung, khó tìm được sự đồng cảm hơn so với những giai đoạn
trước. Có những người lạc quan và hi vọng, cổ vũ cho cái mới với niềm tin
chúng ta sẽ sớm có được những sáng tác đem đến tiếng vang, sự thành công rực
rỡ cho thơ đương đại. Trong khi một bộ phận khác lại lo lắng cho rằng thơ đang
lạm phát, thậm chí “loạn thơ”, bị thương mại hóa, tầm thường hóa.
Nhưng nhìn chung, trong nhiều xu hướng, quan điểm trái ngược nhau, quá
trình vận động của thơ Việt Nam từ sau 1975 đến nay là những nỗ lực không
mệt mỏi của những người cầm bút. Đây cũng chính là mạch sống của thơ ca
đương đại.
1.3. Bên cạnh đó, trong xu thế hội nhập, tồn cầu hóa, nhu cầu về việc
nhận diện thực trạng sáng tác là vơ cùng quan trọng. Nó khơng chỉ định hướng
cho tồn bộ đời sống sáng tác, mà cịn có ý nghĩa cấp thiết đối với đội ngũ lý
luận, phê bình. Nó có thể kích thích khát vọng sáng tạo và góp phần điều chỉnh
những sự cực đoan, lệch hướng. Vì vậy, một cái nhìn tổng quát về Chủ nghĩa
Hậu hiện đại, vấn đề vẫn thường xuyên được nhắc đến trong đời sống thơ ca
đương đại là vô cùng cần thiết. Có nhận diện được rõ về những gì đang xảy ra
hơm nay, mới có thể chủ động trong tương lai. Bởi thực tế, trong sự phát triển
của mình, thơ hơm nay vẫn còn tồn tại rất nhiều vấn đề - nhất là những vấn đề
về thực trạng sáng tác - cần được nhìn nhận một cách khách quan để thúc đẩy sự

2


Những biểu hiện của Chủ nghĩa Hậu hiện đại trong thơ Việt Nam đương đại

phát triển của nó. Đời sống của thơ ca đương đại dường như ngày càng xa rời
với đối tượng tiếp nhận. Mặc dù tiếp nhận bao giờ cũng đi sau q trình sáng tạo
nhưng nó sẽ có tác động ngược lại đến việc sáng tạo. Trên phương diện tích cực,
nó có thể kích thích khát vọng sáng tạo, góp phần điều chỉnh sự cực đoan, lệch
hướng.
1.4. Mới đây, Viện hàn lâm Thụy Điển đã trao giải Nobel văn học 2011
cho nhà thơ Tomas Transtromer, một nhà thơ Thụy Điển đã có tầm ảnh hưởng
lan rộng ở châu Âu và trên thế giới. Khi tên ông được xướng lên trong khán
phịng, nhiều người đã ồ lên, khơng phải vì kinh ngạc, mà có lẽ bởi niềm hạnh
phúc vì được an ủi. Nhiều người cho rằng Tomas và những sáng tác của ông
dường như đã bị quên lãng. Thế nhưng giải thưởng, sự ghi nhận của thế giới đã
cho thấy những cống hiến của ông là xứng đáng.
Sự vinh danh của một giải thưởng nghệ thuật danh giá nhất thế giới cho
một nhà thơ của chủ nghĩa “hậu hiện đại”, với những sáng tác tương tự những
họa phẩm thuộc trường phái siêu thực chứa đầy các hình tượng, các cám dỗ siêu
hình, sự im lặng và màu trắng – đã cho thấy sức mạnh của thơ “hậu hiện đại”.
Sự vinh danh của cá nhân Tomas cũng dường như là sự vinh danh cho toàn bộ
nền thơ ca hậu hiện đại hôm nay mà đôi khi đã bị đắn đo, đặt câu hỏi giữa “tồn
tại” hay “bị tiêu diệt”.
Trước những lý do trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài Những biểu hiện
của Chủ nghĩa Hậu hiện đại trong thơ Việt Nam đương đại, nhằm có cái nhìn
tổng quan, cụ thể hơn về nền thơ ca Việt Nam hôm nay trong bối cảnh thơ ca
đang có những chuyển mình mạnh mẽ để tìm được lối đi đúng đắn đến với trái
tim độc giả và cũng để khẳng định vẻ đẹp vĩnh cửu của chính mình. Để thấy
được con đường và những đóng góp cho sự phát triển của thơ ca Việt Nam của

các nhà thơ đương đại. Và cũng để nhìn nhận những gì chúng ta cần làm tiếp để
có thể xây dựng một nền thơ ca xứng tầm với khu vực và thế giới, là tiếng nói
tâm hồn của dân tộc Việt. Chúng tôi mong muốn với đề tài này, có thể góp thêm

3


Những biểu hiện của Chủ nghĩa Hậu hiện đại trong thơ Việt Nam đương đại

một tiếng nói mới vào cuộc đối thoại dân chủ vẫn đang cịn tiếp diễn khơng
ngừng về thơ ca giai đoạn này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong phạm vi đề tài Những biểu hiện của Chủ nghĩa Hậu hiên đại trong
thơ Việt Nam đương đại, chúng tôi quan tâm đến những sáng tác của các nhà thơ
sau 1980, đặc biệt là từ cuối những năm 1990 trở lại đây với các nhà thơ trưởng
thành sau chiến tranh, các nhà thơ sinh sau 1975 và lứa nhà thơ trẻ thuộc thế hệ
8X, 9X. Họ là những người đang làm nên diện mạo của nền thơ Việt Nam
đương đại. Cùng với đó là hoạt động nghiên cứu, phê bình.
Từ những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, ý thức
về đổi mới thơ được dấy lên một cách mạnh mẽ. Những cách tân, thể nghiệm
khơng cịn lẻ tẻ, rời rạc mà đã hình thành thành hệ thống. Trong hai năm 1988,
1989, có nhiều tập thơ gây được sự chú ý đặc biệt của cơng chúng như: Lối nhỏ
(Dư Thị Hồn), Ngựa biển (Hồng Hưng), 36 bài tình (Lê Đạt, Dương Tường),
Thơ tình Bùi Chí Vinh (Bùi Chí Vinh), Bến lạ (Đặng Đình Hưng)… Các tập thơ
mang ý tưởng cách tân này đều nằm trong những luồng dư luận trái chiều. Nhìn
chung, phản ứng tích cực thì ít mà tiêu cực thì nhiều, và cũng chưa có hồi ngã
ngũ. Bởi trong thời điểm đó, những quan niệm về thơ ca truyền thống vẫn còn
mãnh liệt. Và thực tế, đội ngũ tiếp nhận vẫn chưa thực sự được “trang bị” đầy đủ
để tiếp cận với những tư tưởng cách tân này. Cho nên nhiều người đã cho rằng
đây là xu hướng tìm tịi đi vào hình thức chủ nghĩa, coi nhẹ nội dung, làm cho

thơ bế tắc, tù mù, khó hiểu và có vẻ chỉ là trò chơi chữ nghĩa.
Đến hai năm 1993 – 1994, khơng khí thi đàn càng trở nên nóng hơn bởi
sự ra đời của hàng loạt các tập thơ cách tân theo hướng hiện đại chủ nghĩa như:
Bóng chữ (Lê Đạt), Người đi tìm mặt (Hồng Hưng), Sự mất ngủ của lửa
(Nguyễn Quang Thiều), Mưa ban mai (Nguyễn Quyến)… Trong số những
người kịch liệt lên án, phê phán phải kể đến Trần Mạnh Hảo. Ông đã viết nhiều
bài nghiên cứu, lên án, đả kích một cách gay gắt lối tìm tòi của những tác giả

4


Những biểu hiện của Chủ nghĩa Hậu hiện đại trong thơ Việt Nam đương đại

trên. Ơng cho rằng đó là xu hướng “phi thơ”, “thơ hũ nút”, “thơ mang nọc trong
mình”.
Từ năm 1995 trở đi thì khơng khí phê bình có phần bớt sóng gió hơn.
Trong khi đó, các nhà thơ vẫn kiên trì với những cách tân và thử nghiệm của
mình như: Nguyễn Quang Thiều với Những người đàn bà gánh nước sông, Văn
Cầm Hải với Người đi chăn sóng biển, Hồng Cầm với 99 tình khúc, Lê Đạt với
Ngỏ lời thơ haiku, Trần Dần với Mùa sạch…
Đời sống thơ ca lại tiếp tục sôi động trở lại vào năm 2001 với sự xuất hiện
của hiện tượng thơ Vi Thùy Linh. Đây được xem là mốc đánh dấu quan trọng
cho sự xuất hiện của làn sóng thơ trẻ những năm sau này, và làm cho đời sống
phê bình trở nên đầy sôi động. Ngay lập tức cũng xuất hiện hai luồng ý kiến trái
ngược nhau khen và chê, hi vọng và phê bình kịch liệt. Những cuộc phê bình,
tranh luận về thơ trẻ từ đó đến nay vẫn là những cuộc tranh luận nảy lửa chưa có
hồi kết thúc. Có người lạc quan, tin tưởng vào một vận hội mới của thơ, nhưng
cũng có khơng ít người lo lắng.
Tóm lại, từ thập niên 80 của thế kỷ XX đến nay, thơ chủ yếu được tiếp
cận dưới góc độ phê bình một tác giả, một vấn đề thời sự văn học, một hiện

tượng mới nổi… Với các vấn đề được quan tâm hơn cả là: truyền thống và hiện
đại, thơ và tính dân tộc, chữ và nghĩa, thơ và sex. Bên cạnh đó là những cơng
trình nghiên cứu đi vào nhận diện, miêu tả những đặc điểm, diện mạo của thơ
như: Nửa thế kỷ thơ Việt Nam 1945 – 1995 (Vũ Anh Tuấn), Thơ trữ tình Việt
Nam 1975 – 1995 (Lê Lưu Oanh), Mấy vấn đề thơ Việt Nam 1975 – 2000 (Phạm
Quốc Ca). Ngồi ba cơng trình có quy mơ và tính chun biệt trên thì cịn có
một số bài viết mang tính tổng kết như: Hành trình thơ Việt Nam hiện đại (Trần
Đình Sử), Về một xu hướng đổi mới thi pháp trong thơ hiện nay (Đỗ Lai Thúy),
Nhìn lại tiến trình thơ Việt Nam hiện đại (Vũ Quần Phương), Mười năm cõng
thơ leo núi (Thanh Thảo), Tổng quan về thơ Việt 1975 – 2000 (Mã Giang Lân),
v.v…

5


Những biểu hiện của Chủ nghĩa Hậu hiện đại trong thơ Việt Nam đương đại

Xu hướng chung khá thống nhất giữa quan điểm của các nhà phê bình
trong việc chỉ ra sự vận động của thơ giai đoạn này trên hai phương diện nội
dung và hình thức nghệ thuật. Về nội dung, đáng chú ý là xu hướng trở về với
cái tơi cá nhân, khẳng định con người cá tính, quan tâm tới những vấn đề nhân
sinh, thế sự. Về nghệ thuật, là sự cách tân ngôn ngữ; sự đa dạng, linh hoạt về
giọng điệu; đa dạng trong cấu trúc thể loại. Tùy thuộc vào tiêu chí đánh giá và
cảm quan thẩm mỹ mà có những thái độ bi quan hay lạc quan, ủng hộ hay phê
phán khác nhau. Nhất là những quan niệm về đổi mới hình thức nghệ thuật có
phần phức tạp, nhiều nhận định, đánh giá trái chiều hơn. Tuy nhiên, trên thực tế,
những cơng trình, bài viết trên hầu như chưa quan tâm nhiều đến sự ảnh hưởng
của Chủ nghĩa Hậu hiện đại đến thơ Việt Nam đương đại để từ đó làm hệ quy
chiếu nhận định những cách tân, những cái được và chưa được trong quá trình
sáng tạo của các nhà thơ trẻ. Bởi thực tế là dù có bị đả kích và phê phán kịch liệt

thì thơ hơm nay vẫn đang vận động trên quỹ đạo tư duy “hậu hiện đại”. Và thơ
truyền thống đang ngày một mất dần tính hấp dẫn mặc dù giá trị nghệ thuật mà
nó đóng góp cho nền thơ ca Việt Nam là không thể phủ nhận. Thời đại đã thay
đổi, con người thay đổi, đòi hỏi thi ca cũng phải có những chuyển mình phù
hợp. Với luận văn này, chúng tơi mong muốn góp thêm một cái nhìn khách quan
về thơ ca trên phương diện lấy Chủ nghĩa Hậu hiện đại để soi chiếu.
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Nền thơ ca đương đại của chúng ta bấy lâu nay vẫn nhắc nhiều đến khái
niệm “hậu hiện đại”, nhưng vẫn chưa thực sự có một cái nhìn đầy đủ về những
“dấu ấn” của nó đến sự cách tân của thơ ca. Trong phạm vi luận văn này, chúng
tôi cố gắng khảo sát, khái quát một vài biểu hiện chính thường gặp của Chủ
nghĩa Hậu hiện đại trong thơ Việt Nam đương đại, nhằm góp phần chỉ ra một
khuynh hướng cách tân của thơ Việt Nam trong thời gian vừa qua.

6


Những biểu hiện của Chủ nghĩa Hậu hiện đại trong thơ Việt Nam đương đại

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những biểu hiện của Chủ nghĩa Hậu
hiện đại trong thơ Việt Nam từ sau 1975 đến nay, đặc biệt chú trọng vào các
sáng tác thơ từ sau 1990.
Chưa bao giờ thơ được in nhiều như hiện nay. Bởi vậy, chúng tơi khó
lịng có thể khảo sát được đầy đủ và bao quát toàn bộ sáng tác thơ đương đại.
Luận văn sẽ chỉ chú trọng đến những tác giả, tác phẩm ít nhiều được coi là sự
kiện trong đời sống văn học, thu hút được sự chú ý của cơng luận, hoặc có giá trị
nghệ thuật cao, hoặc có vấn đề gây tranh cãi, hoặc tiêu biểu cho một khuynh
hướng nào đó. Về cơ bản, đó là những tác phẩm đã được xuất bản thành sách, in
thành tập. Trong q trình khảo sát, chúng tơi chủ yếu tập trung vào một số nhà
thơ trẻ đã gây nhiều sóng gió trong đời sống văn học Việt Nam thời gian qua

như Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư… Và đặc biệt, để đi sâu phân tích, đánh giá
những biểu hiện của Chủ nghĩa Hậu hiện đại của thơ đương đại, chúng tôi quan
tâm nhiều đến tác giả Nguyễn Quang Thiều. Đây là một “hiện tượng thơ”, được
xem là một trong số những nhà thơ có những biểu hiện Hậu hiện đại đậm đặc
trong sáng tác. Bên cạnh đó những sáng tác của Nguyễn Quang Thiều trong suốt
hơn hai chục năm qua đã và đang tác động nhiều đến đội ngũ sáng tác hôm nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu thi pháp thể loại sẽ là phương pháp nghiên cứu
bao trùm mà luận văn lựa chọn. Bởi chúng tôi chọn việc tiếp cận thơ đương đại
Việt Nam thông qua những biểu hiện của Chủ nghĩa Hậu hiện đại. Vì vậy, thi
pháp Chủ nghĩa Hậu hiện đại sẽ là hệ quy chiếu để từ đó nhận diện các sáng tác
thơ đương đại trên hai phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Từ đó,
phân tích, đánh giá những giá trị cách tân mà nó mang lại cho thơ ca Việt Nam
hơm nay cũng như những hạn chế, những vấn đề còn tồn tại trong đời sống sáng
tác của các nhà thơ trẻ.
Bên cạnh đó, chúng tơi cũng sử dụng các phương pháp và các thao tác
khoa học sau:
7


Những biểu hiện của Chủ nghĩa Hậu hiện đại trong thơ Việt Nam đương đại

- Phương pháp so sánh được tiến hành trên nhiều cấp độ: các tác giả, tác phẩm,
nhằm thấy rõ được cái mới và những hạn chế của việc đưa Chủ nghĩa Hậu hiện
đại vào thơ Việt Nam đương đại.
- Phương pháp thống kê phân loại, hệ thống hóa: chúng tơi lựa chọn phương
pháp này áp dụng cho tác giả Nguyễn Quang Thiều – một tác giả được cho là
điển hình trong các sáng tác có khuynh hướng “hậu hiện đại” và ít nhiều cũng đã
đạt được những thành cơng nhất định.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp cũng là phương pháp không thể thiếu để thấy

được hết cái hay, cái đẹp, cái mới của mỗi một biểu hiện, một tác giả mà chúng
tôi lựa chọn trong phạm vi luận văn này. Từ đó cũng nhằm đưa đến một cái nhìn
khái quát, tổng hợp để hình dung rõ hơn những nét lớn đặc trưng cho những
biểu hiện của Chủ nghĩa Hậu hiện đại trong thơ Việt Nam đương đại.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, nội dung của luận văn đề tài
Những biểu hiện của Chủ nghĩa Hậu hiện đại trong thơ Việt Nam đương đại
được cấu trúc gồm ba chương như sau:
Chƣơng 1: Khái lƣợc về Chủ nghĩa Hậu hiện đại và thơ Việt Nam đƣơng
đại
Chƣơng 2: Những biểu hiện về mặt nội dung
Chƣơng 3: Những biểu hiện về mặt hình thức nghệ thuật

8


Những biểu hiện của Chủ nghĩa Hậu hiện đại trong thơ Việt Nam đương đại

NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
KHÁI LƢỢC VỀ CHỦ NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI
VÀ THƠ VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI
1.1. Khái lƣợc về Chủ nghĩa Hậu hiện đại
1.1.1. Khái niệm về Chủ nghĩa Hậu hiện đại
Thuật ngữ “Chủ nghĩa Hậu hiện đại” (Post Modernisime) bắt đầu xuất
hiện từ cuối những năm 70 của thế kỷ XX. Đầu tiên là ở Mỹ, sau đó nhanh
chóng lan sang các nước châu Âu. Cho đến nay thuật ngữ Chủ nghĩa Hậu hiện
đại đã lan tỏa trên khắp thế giới, được thừa nhận và thậm chí được coi như là
một khuynh hướng chủ đạo của nền nghệ thuật đương đại. Chủ nghĩa Hậu hiện
đại trong nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng là một thuật ngữ bao quát

được nhiều người dùng để chỉ các xu hướng văn học – nghệ thuật ngoài chủ
nghĩa hiện thực truyền thống, xuất hiện nửa cuối thế kỷ XX, sau thời kỳ của Chủ
nghĩa hiện đại và có xu hướng tìm tịi đổi mới, thậm chí đổi mới đến cực đoan,
đến mức siêu hiện đại [12, tr.129].
Kể từ khi ra đời cho đến nay, đã có vơ số các cách hiểu thế nào là Chủ
nghĩa Hậu hiện đại. Vì thế mà đã nảy ra hàng trăm, hàng nghìn các cuộc tranh
luận của giới học thuật, nghiên cứu, phê bình, cũng như giới sáng tác để đi đến
cùng một định nghĩa thống nhất trả lời cho câu hỏi Chủ nghĩa Hậu hiện đại là
gì? Federico de Onis coi Chủ nghĩa Hậu hiện đại là giai đoạn từ 1905 đến 1914
9


Những biểu hiện của Chủ nghĩa Hậu hiện đại trong thơ Việt Nam đương đại

là một phiên bản nôm na hơn của Chủ nghĩa Hiện đại trong nghệ thuật. Bernard
Smith quan niệm Chủ nghĩa Hậu hiện đại là một phản ứng mang tính hiện thực
và xã hội chống lại tính trừu tượng của Chủ nghĩa Hiện đại và chống lại các
quan điểm mỹ học nghệ thuật vị nghệ thuật. Sau này, Ihab Hassan coi Chủ nghĩa
Hậu hiện đại là một thứ chủ nghĩa hiện đại muộn – hay là chủ nghĩa hiện đại hậu
kỳ - mang tính phi lý tính, phi xác định, hỗn loạn, nhưng cũng mang tính nhập
cuộc. Cịn Jean Francois Lyotard thì ngồi quan điểm triết học chính trị, coi Chủ
nghĩa Hậu hiện đại là nỗ lực chống lại các “đại tự sự” (tức các “lý thuyết phổ
biến”) của chủ nghĩa duy lý thời thế kỷ Ánh Sáng cùng các di sản của nó, trong
đó có chủ nghĩa Mác. Hậu hiện đại là ý chí tuyệt giao với lý tính và với sự biểu
hiện, là việc phải ám chỉ cái không thể diễn đạt được thông qua những điều diễn
đạt bằng thị giác, là phải làm cho người ta thấy rằng có một cái gì đó mà người
ta có thể quan niệm được nhưng khơng thể nhìn thấy được. Như vậy, theo
Lyotard, Chủ nghĩa Hậu hiện đại là đỉnh cao của Chủ nghĩa Hiện đại, hay là
“cơn kịch phát của Chủ nghĩa Hiện đại” [12, tr.111]. John Barth và Umberto
Eco, hai tên tuổi lớn tiêu biểu cho Chủ nghĩa Hậu hiện đại thế giới, cùng với

nhiều tác giả khác định nghĩa Chủ nghĩa Hậu hiện đại như một cách viết trong
đó người ta có thể dùng các hình thức truyền thống một cách châm biếm hay
hốn vị để diễn tả các chủ đề bất diệt. Nó hi vọng vượt thoát khỏi những phương
tiện và độc giả giới hạn vốn là những đặc trưng của tiểu thuyết hiện đại. Ở Việt
Nam, trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học Việt Nam, các tác giả Lê Bá Hán,
Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, cho rằng Chủ nghĩa Hậu hiện đại với tư cách
là một khuynh hướng phê bình văn học hiện đại, có ý đồ khám phá, phát hiện ở
cấp độ tổ chức văn bản nghệ thuật tập hợp tư tưởng – tình cảm mang nội dung
vũ trụ quan. Dựa vào các cơng trình nghiên cứu của các tên tuổi lớn như
J.F.Lyotard (Pháp), I.Hassan, P.Jamerson (Mỹ),… các tác giả này khái quát hệ
thống quan điểm của Chủ nghĩa Hậu hiện đại thành bốn điểm lớn, như sau:

10


Những biểu hiện của Chủ nghĩa Hậu hiện đại trong thơ Việt Nam đương đại

Thứ nhất, nói tới Chủ nghĩa Hậu hiện đại, người ta hồn tồn có thể
khẳng định sự tồn tại của một tập hợp quan điểm mang tính phổ quát của chủ
nghĩa cấu trúc – chủ nghĩa giải cấu trúc – chủ nghĩa hậu hiện đại.
Thứ hai, các nhà lý luận của Chủ nghĩa Hậu hiện đại thường xuyên nhấn
mạnh vào tình trạng khủng hoảng của ý thức Hậu hiện đại chủ nghĩa. Chủ nghĩa
Hậu hiện đại hoàn toàn phủ nhận cái gọi là “truyền thống châu Âu”, đúng hơn là
“truyền thống duy lý – tư sản”. Việc chối bỏ chủ nghĩa duy lý, phủ nhận truyền
thống và mọi đức tin tôn giáo được cả xã hội thừa nhận, sự nghi ngờ tính chính
xác của các tri thức khoa học, làm nảy sinh cái gọi là hoài nghi nhận thức luận
của Chủ nghĩa Hậu hiện đại.
Thứ ba, từ sự hoài nghi khoa học tự nhiên, khoa học chính xác, cũng như
triết học truyền thống… các nhà Hậu hiện đại cho rằng muốn chiếm lĩnh thế giới
như nó vốn có chỉ có cách duy nhất là dựa vào trực giác, vào “tư duy thơ ca” với

những liên tưởng, hình tượng, ẩn dụ.
Thứ tư, các nhà phê bình văn học hậu hiện đại thường sử dụng những khái
niệm công cụ cơ bản như: vũ trụ như sự hỗn độn, tri giác hậu hiện đại, thế giới
như một văn bản, ý thức như một văn bản, tính liên văn bản, khủng hoảng uy
tín, hồi nghi nhận thức luận, mặt nạ tác giả, mã kép, phương thức trần thuật
giễu nhại, ngắt đoạn, đoạn trần thuật, hố giao tiếp, siêu trần thuật.
Như vậy có thể thấy rằng, các quan niệm về Chủ nghĩa Hậu hiện đại là vô
cùng phong phú. Nhưng xét cho cùng, giữa quan niệm về Hậu hiện đại trong
nghệ thuật với quan niệm về Hậu hiện đại trong các lĩnh vực hoạt động xã hội có
một sự khác biệt nhất định. Nghĩa là nếu trong nghệ thuật, người ta chú ý nhiều
đến các thuộc tính biểu đạt của nó thì trong các lĩnh vực khác, khái niệm Hậu
hiện đại hầu như chỉ là một tiêu chí chỉ thời gian để phân kỳ lịch sử.
Từ đó, chúng ta có thể phân ra ba nhóm quan niệm chính về Chủ nghĩa
Hậu hiện đại trong nghệ thuật như sau:
Một là, Chủ nghĩa Hậu hiện đại như là đỉnh cao của Chủ nghĩa Hiện đại,
là “cơn kịch phát của Chủ nghĩa Hiện đại” (Lyotard, Hassan…)
11


Những biểu hiện của Chủ nghĩa Hậu hiện đại trong thơ Việt Nam đương đại

Hai là, Chủ nghĩa Hậu hiện đại như là sự quay trở về với truyền thống để
chống lại Chủ nghĩa Hiện đại (Smith, Lipovetsky…), đặc biệt là trong kiến trúc
và tạo hình.
Ba là, Chủ nghĩa Hậu hiện đại như là một sự vượt khỏi Chủ nghĩa Hiện
đại, một phong trào lai tạp mới và tương phản với Chủ nghĩa Hiện đại (Jencks,
Koehler…)
Nhìn chung hầu hết các ý kiến đều lấy Chủ nghĩa Hiên đại làm hệ quy
chiếu để xác định cái gọi là Hậu hiện đại. Theo Giáo sư nghiên cứu về Văn học
Mary Klages (Đại học Corolado, Mỹ), Chủ nghĩa Hậu hiện đại là một từ ngữ

phức tạp bao gồm một hệ thống tư tưởng rất khó để có thể đưa ra một định nghĩa
chính xác và hàm súc. Vì bản thân khái niệm này xuất hiện trên rất nhiều lĩnh
vực nghiên cứu khác nhau bao gồm cả văn học, kiến trúc, âm nhạc, phim ảnh,
chính trị, xã hội, truyền thơng, khoa học kỹ thuật, và thậm chí cả quân sự.Tuy
nhiên, dù là trên phương diện nào, thì khái niệm Chủ nghĩa Hậu hiện đại vẫn
liên quan mật thiết đến Chủ nghĩa Hiện đại. Và trong phạm vi luận văn này,
chúng tôi cố gắng đưa ra một định nghĩa xác đáng nhất về Chủ nghĩa Hậu hiện
đại trong văn học.
Xét trên góc độ ngơn ngữ Chủ nghĩa Hiện đại – Modernisme và Chủ
nghĩa Hậu hiện đại – Postmodernisme, tiền tố Post – hậu, đã mặc định sự liên
quan giữa hai khái niệm này. Có thể coi Hậu hiện đại như là một sự phản ứng lại
với chủ nghĩa hiện đại (cái hiện đại), phản ứng lại những mô thức định sẵn. Post
(hậu, sau) ở đây khơng chỉ đơn thuần mang nghĩa chỉ một tiến trình lịch sử, cái
này ra đời thì cái kia biến mất, mà là sự phản ứng ngược trở lại. Vì vậy, một bộ
phận các nhà nghiên cứu trên thế giới xem Hậu hiện đại như là một khái niệm
phi thời. Tức là trong bất cứ một thời kỳ nào mà có sự khủng hoảng tinh thần
cũng có thể tồn tại tinh thần hậu hiện đại. Có chăng là sự khác biệt ở những giai
đoạn gần đây, tinh thần ấy trở nên nổi trội, đậm đặc và ở nhiều nơi trở thành chủ
đạo mà thôi. Nếu coi Hậu hiện đại là một trạng thái tâm thức thì khó có thể định

12


Những biểu hiện của Chủ nghĩa Hậu hiện đại trong thơ Việt Nam đương đại

nghĩa Hậu hiện đại là gì, bởi nó chống lại những khái niệm tuyệt đối, chống lại
những nguyên lý bất di bất dịch… và chống lại hay phá dỡ, dỡ bỏ đại tự sự [66].
Mặc dù vậy khơng có nghĩa rằng Hậu hiện đại hồn tồn độc lập với Hiện
đại. Đưa hai khái niệm trên lên hệ quy chiếu các đặc tính thì người ta nhận thấy,
các tính phi lý tính, tính phi chủ thể, tính phân mảnh, tính phi xác định về khơng

gian và thời gian, tính đại chúng, tính chiết trung giữa hiện đại và truyền thống
là các đặc tính tiêu biểu của Chủ nghĩa Hậu hiện đại thì đều đã có mầm mống ở
Chủ nghĩa Hiện đại. Như vậy, cùng lúc song song tồn tại hai quan niệm về Chủ
nghĩa Hậu hiện đại. Một là cho rằng nó rồn tại trong tất cả các thời kỳ xã hội –
những thời kỳ có sự khủng hoảng tinh thần. Hai là cho rằng nó là đỉnh cao của
Chủ nghĩa Hiện đại, xuất hiện sau khi Chủ nghĩa Hiện đại kết thúc. Sở dĩ có sự
khác nhau này là do bề mặt ngôn ngữ của khái niệm có chứa đựng yếu tố chỉ
thời, trong khi nội hàm của khái niệm lại bao quát quá rộng. Đây cũng chính là
một biểu hiện rất hậu hiện đại bởi tính chất giải trung tâm, hồi nghi lý tính, khó
nắm bắt bằng những kết luận chắc chắn. Cho dù có khác nhau thế nào đi nữa,
người ta cũng không thể phủ nhận rằng Chủ nghĩa Hậu hiện đại, Cảm quan Hậu
hiên đại, Hoàn cảnh Hậu hiện đai, Tâm thức Hậu hiện đại… đang tồn tại thực sự
trong xã hội ngày nay và càng ngày càng giữ vai trò chủ đạo.

1.1.2. Lƣợc sử phát triển của Chủ nghĩa Hậu hiện đại trên thế giới
Ở vào nửa đầu thế kỷ XX, bối cảnh chung của triết học phương Tây là sự
ra đời của nhiều khuynh hướng nghệ thuật, khả dĩ đáp ứng nhu cầu, tâm trạng,
hồi vọng của cơng chúng. Đồng thời nó cũng là sự phản ánh thực trạng xã hội
khủng hoảng sau hai cuộc chiến tranh thế giới tàn khốc. Tất cả đều đặt ra nhiều
câu hỏi với câu nói bất hủ của Hamlet “Tồn tại hay không tồn tại?” thời hậu
chiến. Và nếu tồn tại thì sẽ tồn tại như thế nào? John Dewey đã chỉ ra trong cuốn
Nghệ thuật như sự trải nghiệm vào năm 1934, rằng nghệ sĩ phải cung hiến hết
mình cho sự mới lạ để phản ứng lại với thị trường. Ngành công nghiệp đã được
13


Những biểu hiện của Chủ nghĩa Hậu hiện đại trong thơ Việt Nam đương đại

cơ giới hóa và một nghệ sĩ khơng thể làm việc theo kiểu máy móc để phục vụ
nền sản xuất đại chúng… Nghệ sĩ thấy ra phận sự của mình ở chỗ đưa bản thân

vào tác phẩm để biến nó thành một phương tiện tự biểu lộ biệt lập. Để khước từ
góp mình vào các xu hướng bị chi phối bởi quyền lực kinh tế, họ thường xuyên
cảm thấy buộc phải cường điệu sự riêng biệt của mình cho tới mức lập dị [83,
tr.50]. Nhiều quan niệm mới về vị thế của triết – mỹ hiện đại. Nhà triết học
không phải là người nắm giữ chân lý mà chỉ là người bạn của chân lý đang đi
trên con đường dẫn tới chân lý bằng các phương tiện đối thoại, tiếp biến văn
hóa, giao lưu, hội nhập. Tri thức, thơng tin, sản phẩm trí tuệ, giá trị đạo đức, kỹ
thuật tư duy… khơng cịn là của riêng ai. Tất cả đều được mang ra quảng
trường, chịu sự phê bình và tranh cãi của cơng luận. Vào thời điểm này, hội họa
bị thách thứ đặc biệt bởi thế giới hiện thực của một hình thức mới xuất hiện –
nhiếp ảnh. Cuối thế kỷ XIX, sự mô phỏng dường như đã ngày càng ít được coi
là mục tiêu của nhiều trào lưu nghệ thuật như chủ nghĩa ấn tượng, chủ nghĩa
biểu lộ, chủ nghĩa siêu thực, tranh trừu tượng. Lý thuyết mô phỏng đã nhường
chỗ cho sự nhấn mạnh mang màu sắc hiện đại của chúng ta vào giá trị của một
cảm thức cá nhân và quan điểm sáng tạo của nghệ sĩ. Những đóa hoa diên vĩ của
O’Keeffe và tranh Van Gogh gây ấn tượng với chúng ta khơng phải bởi chúng
được mơ phỏng chính xác, mà bởi họ đã sáng tạo nên một hình ảnh về cái đẹp
thuần túy – nỗ lực tuyệt vọng cạnh tranh với một điều gì bất khả tường giải hay
thuộc về thế giới ý niệm. Do đó, nghệ thuật được chờ đợi, hi vọng và được xem
như là sự gợi về trong bản thân một cảm xúc người ta từng trải nghiệm và từng
quen thuộc nhờ vào các phương tiện như chuyển động, đường nét, màu sắc, âm
thanh hay các hình thái của sự viết để rồi truyền đạt lại cảm xúc ấy tới người
khác sao cho họ cũng sẽ có những trải nghiệm y như thế. Từ tinh thần đó, vào
những năm 60 của thế kỷ trước, đã xuất hiện một trào lưu với tên gọi Pop Art –
trào lưu nghệ thuật đại chúng. Chủ nghĩa Hậu hiện đại ra đời trong bối cảnh đó.
Leslie Fiedler là nhà văn đầu tiên đã sử dụng tiếp đầu ngữ “hậu” – post,
một cách tích cực vào năm 1965, khi ơng lặp đi lặp lại nó và gắn nó với nhiều
14



Những biểu hiện của Chủ nghĩa Hậu hiện đại trong thơ Việt Nam đương đại

khuynh hướng cấp tiến đương thời như: hậu nhân văn, hậu nam tính, hậu da
trắng, hậu anh hùng… Vào giữa thập niên 70, Ihab Hassan, người tự xem mình
là phát ngơn viên của Chủ nghĩa Hậu hiện đại, quan niệm rằng nghệ thuật cần
phải đến với tầng lớp bình dân nhiều hơn, cần những chất liệu tầm thường, thô
nhám, những biện pháp đa thanh, đa sắc, nhiều sân chơi và trị giải trí để dễ đi
vào lịng người. Đây cũng chính là quan niệm mà Andy Warhol, người khởi
xướng trào lưu Pop – Art, đi theo. Đến những năm 80, khi mà số đông cho rằng,
thế giới xung quanh ta không phải lúc nào cũng bất biến, thì trong nghệ thuật bắt
đầu hình thành một giai đoạn “nổi loạn” mới của chủ nghĩa tiên phong, tức là
khi Chủ nghĩa Hậu hiện đại bắt đầu phổ biến rộng và có nhiều xu hướng. Để lý
giải cho khuynh hướng nghệ thuật này, cho đến nay đã có hàng trăm nghìn cuộc
tranh luận chưa ngã ngũ bởi từ khi người ta đặt câu hỏi “Chủ nghĩa hậu hiện đại
là gì?” thì sự phát triển và vận động liên tục của bản thân khuynh hướng này đã
bao hàm ý nghĩa là khơng thể tìm được một câu trả lời xác định nào khả hữu cho
đến khi nó ngừng vận động.
Ngày nay, hậu hiện đại nếu nhìn từ góc độ phương Tây, thì là sự tự hủy
của nền văn hóa châu Âu cũ, như là sự từ bỏ quá khứ vĩ đại của mình và sự chế
nhạo q khứ đó. Nhưng khi Chủ nghĩa Hậu hiện đại đến phương Đông, nơi mà
hầu như q trình Hiện đại cịn chưa hồn tất thì nó lại mang ý nghĩa hồn tồn
ngược lại. Chủ nghĩa Hậu hiện đại đem lại cho con người phương Đơng cơ hội
chiến thắng văn hóa Tây phương trong mình, chiến thắng tính duy lý Tây
phương đã bóp méo ý thức hẳn, nhờ chính thuốc trị Tây phương. Khơng tốn quá
nhiều thời gian, dưới mặt nạ cuộc trình diễn hậu hiện đại, logic học tự nhiên của
phương Đông đã được tỏa sáng [48]. Cho nên, khi nhận định nền thơ ca đương
đại của Việt Nam dưới ánh sáng của Chủ nghĩa Hậu hiện đại, chúng tơi suy xét
dưới góc độ Chủ nghĩa Hậu hiên đại trong bối cảnh triết – mỹ học phương
Đông.
1.1.3. Những dấu hiệu của Chủ nghĩa Hậu hiện đại


15


Những biểu hiện của Chủ nghĩa Hậu hiện đại trong thơ Việt Nam đương đại

Một trong những đặc điểm phổ quát nhất của Chủ nghĩa Hậu hiện đại là
sự giải cấu trúc bao trùm mọi bình diện văn hóa. Chủ nghĩa Hậu hiện đại bao
gồm nhiều xu hướng phi hiện thực, là kết quả phủ định của phủ định. Nghệ thuật
hậu hiện đại từ chối nghệ thuật hàn lâm, nghệ thuật cổ điển. Nhưng đến cuối thế
kỷ XX, thì chính hậu hiện đại lại trở thành truyền thống. Một số nghệ sĩ hậu hiện
đại quay trở lại với nghệ thuật tiền hiện đại và sáng tác theo phong cách mới.
Điều này có thể thấy rõ nhất chính là trong sự phối khí của các tác phẩm âm
nhạc. Nói đến Chủ nghĩa Hậu hiện đại, không thể bỏ qua nghệ thuật bình dân,
đại chúng – Pop Art, một đặc điểm nổi bật nhất của hậu hiện đại. Pop Art là một
xu hướng của hậu hiện đại chủ trương dân chủ hóa việc thưởng thức, giải trí, tơn
trọng nhu cầu giao tiếp hàng loạt, nhu cầu đám đơng. Nó là sự đối lập giữa cái
đại chúng và cái thượng lưu, là sự phản ứng đối với các tác phẩm phi vật thể.
Thẩm mỹ hóa thế giới đồ vật bình thường, tìm kiếm những giá trị nghệ thuật ở
bất cứ vật thể nào như: chiếc lốp oto cũ, những mảnh giấy báo, những chiếc máy
điện thoại, bếp gas, những mảnh quảng cáo gắn trên những chiếc hộp… Tác
phẩm Những chiếc hộp xà phòng Brillo trưng bày năm 1964 của Andy Warhol
được coi là tác phẩm tiêu biểu cho trào lưu Pop – Art. Sau khi xem triển lãm
này, nhà phê bình Arthur Danto đã tun bố rằng “khơng có một cách riêng nào
để quy định cho một tác phẩm nghệ thuật cả” – đây cũng đã trở thành một trong
những quan niệm cơ bản về nghệ thuật hậu hiện đại.
Đứng trên bình diện quan niệm Chủ nghĩa Hậu hiện đại là dù thế nào đi
nữa, vẫn liên quan một cách mật thiết tới Chủ nghĩa Hiện đại, thì có thể thấy,
những biểu hiện cơ bản của hậu hiện đại là: tính phi lý, tính phi chủ thể, tính
phân mảnh, tính phi xác định về khơng gian, thời gian và tính chiết trung giữa

hiện đại – truyền thống. Văn học hậu hiện đại nổi bật lên với những sáng tác tiểu
thuyết hư cấu, cùng với kỹ thuật phá vỡ trật tự thời gian. Văn chương hư cấu
hậu hiện đại không những xáo trộn trật tự thời gian quá khứ mà còn làm sai lệch
cả hiện tại. Những cuốn tiểu thuyết hậu hiện đại như Bữa tiệc của Gerard (1986)
của Robert Coover mô tả một khối lượng to lớn của những sự kiện tình cờ cùng
16


Những biểu hiện của Chủ nghĩa Hậu hiện đại trong thơ Việt Nam đương đại

xảy ra trong một đêm – các vụ sát nhân và đánh đập, vụ cảnh sát tra tấn vợ của
Gerard, chuyện toàn ban kịch cùng kéo đến bàn tiệc [12, tr.240]. Thủ pháp
phỏng nhại, nhại văn cũng là một biểu hiện của văn chương hậu hiện đại. Chữ
pasticcio được hiểu là sự nhại văn. Việc nhại theo một nhà văn nào đó thì giống
như sáng tạo một sự đảo tự, không phải đảo các chữ cái mà đảo những thành
phần cấu tạo của một văn phong. Nhại văn là một loại hoán vị, một cách xáo
trộn những kiểu viết cũ thành thói về văn phong nói chung và văn phạm. Thi
pháp hậu hiện đại còn được biểu hiện trong tính cách lỏng lẻo giữa các sự liên
kết ý tưởng. tính đa nghi hoang tưởng, sự rối loạn ngơn từ, tính liên văn bản.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, chúng tôi sẽ dần dần chỉ ra những
biểu hiện mang tính Chủ nghĩa Hậu hiện đại trong thơ Việt Nam đương đại xét
theo hệ quy chiếu những đặc tính đã nêu trên.
1.2. Thơ Việt Nam đƣơng đại (sau 1975)
1.2.1. Những dấu hiệu đổi mới của thơ trƣớc 1975
Trước 1975, đỉnh cao của thơ ca Việt Nam phải kể đến phong trào Thơ
Mới với thắng lợi rực rỡ đã được Hồi Thanh tổng kết: Chữ tơi, với cái nghĩa
tuyệt đối của nó đã thống lĩnh trên thi đàn cùng với những tên tuổi lớn cho đến
nay vẫn là những cây đại thụ của thơ ca Việt Nam như Thế Lẽ, Lưu Trọng Lư,
Huy Thông, Nguyễn Nhược Pháp, Nguyễn Bính, Huy Cận, Chế Lan Viên, Xn
Diệu… Dịng thơ ca kháng chiến có nhiều ý kiến cho rằng là sự tiếp nối dịng

mạch Thơ Mới trong một hồn cảnh lịch sử mới. Cái tơi trữ tình thời kỳ này là
cái tôi sử thi. Tuy nhiên thực tế về mặt hình thức thơ chưa tạo được những bước
đột phá lớn. Nhưng thực tế, những nhận xét này mới chỉ là ứng với mảng thơ
“chính thống” đã được thừa nhận và đánh giá cao. Bên cạnh đó vẫn cịn có
những hướng cách tân quyết liệt hơn và do vậy cũng còn chịu nhiều luồng phán
xét bất đồng.
Thời kỳ Thơ Mới phải kể tới những đóng góp của Xuân Thu Nhã Tập, Dạ
Đài, Giác Linh Hương. Đặc biệt là những đóng góp về mặt lý luận của nhóm
17


Những biểu hiện của Chủ nghĩa Hậu hiện đại trong thơ Việt Nam đương đại

Xuân Thu Nhã Tập như quan niệm về văn bản thơ, tính đa nghĩa của thơ, mối
quan hệ giữa sáng tác – tác phẩm – tiếp nhận… Đến thời kỳ kháng chiến chống
Pháp, xu hướng thơ tự do – tự do hóa hình thức thơ cũng là một hướng đi nhằm
đáp ứng yêu cầu mở rộng khả năng phản ánh hiện thực rộng lớn và phong phú
của đời sống chiến tranh. Trong xu hướng đó phải kể đến những tên tuổi lớn như
Nguyễn Đình Thi, Trần Mai Ninh, Quang Dũng, Văn Cao, Chính Hữu… Đến
những sáng tác của nhóm Sáng tạo ở miền Nam với Thanh Tâm Tuyền, Bùi
Giáng, Đuynh Trầm Ca… thơ ca Việt Nam đã có những vận động đáng kể, “đã
bắt đầu làm rạn nứt nếp quen sáng tạo và thưởng thức thơ tiền chiến, đã hé mở
cho thơ một lối tìm mình” (Phạm Xuân Nguyên).
Ở bất kỳ giai đoạn nào, thơ cũng có khát vọng cách tân. Trước 1975, thơ
Việt Nam dù chính thống hay khơng chính thống, vẫn có một mạch ngầm khơng
ngừng vận động tự đổi mới. Chỉ có điều bởi những hạn chế của điều kiện lịch
sử, những hướng đi ấy vẫn cịn dang dở, chưa hồn thiện, chưa đến độ kết tinh.
Cái mới bao giờ cũng chịu nhiều thử thách, nhưng đó mới chính là con đường
sống của nghệ thuật.
1.2.2. Bối cảnh chung của thơ Việt Nam sau 1975

Sau năm 1975, cuộc sống mới với xu hướng đô thị hóa, cơng nghiệp hóa
và hiện đại hóa cao đã mang đến những thách thức cũng như thời cơ mới cho
một cuộc cách tân nữa trong thơ ca Việt Nam hiện đại. Nhất là sau năm 1986,
với xu hướng “mở cửa”, “hội nhập”, xã hội Việt Nam có nhiều chuyển biến trên
mọi phương diện. Nền kinh tế thay đổi, kéo theo những thay đổi lớn về xã hội.
Việc giao lưu rộng rãi về văn hóa xã hội góp phần đem đến những thay đổi trong
lối sống và quan niệm của người Việt Nam. Đồng thời, những phát triển của
khoa học kỹ thuật và truyền thông cùng những biến động về chính trị trên thế
giới cũng làm nảy sinh nhu cầu nhận thức lại các vấn đề của xã hội. Đời sống
kinh tế - chính trị - văn hóa – xã hội thay đổi, dẫn đến những chuyển biến về thị
hiếu thẩm mỹ, chuẩn mực sống… Những giá trị cũ mất đi, thay vào đó là những
giá trị mới, linh hoạt, uyển chuyển hơn. Cùng với đó, văn học thời kỳ này cũng
18


Những biểu hiện của Chủ nghĩa Hậu hiện đại trong thơ Việt Nam đương đại

có nhiều biến động với việc xuất hiện những khuynh hướng phê bình mới do các
sách Lý luận phương Tây bắt đầu được dịch và xuất bản ở Việt Nam. Các sáng
tác kinh điển của những bậc thầy văn chương trên thế giới như F.Dostoievsky,
Kafka, A.Camus, G.Marquez, Milam Kundera, John Ashbery, Keneth Koch…
như những luồng gió tư tưởng mới thổi vào đời sống văn học Việt Nam. Sự du
nhập của nền văn học và lý luận phương Tây, châu Mỹ thời gian này đã ảnh
hưởng lớn đến phong trào cách tân thơ những năm 80, 90. Giờ đây, thơ mới tràn
đầy những năng lượng tư tưởng lớn lao trong nhiều dạng thức, chối bỏ những
quy luật nghiêm ngặt, những tư tưởng xưa cũ… đánh dấu sự vận động khơng
ngừng của dịng chảy văn học.
1.2.3. Những xu hƣớng cách tân
Các nhà thơ xuất hiện sau 1975 là một thế hệ đổi mới quan trọng của văn
học đương đại Việt Nam. Trong số họ có những người đã cầm bút trước đó,

nhưng thành tựu tho ca chính lại xuất hiện và được ghi nhận sau cái mốc 1975.
Do vậy, chúng tôi tạm chia những nhà thơ Việt Nam sau 1975 thành hai nhóm
như sau: nhóm thứ nhất là các nhà thơ thuộc thế hệ hậu chiến từ 1975 đến 1990
– đây là những gương mặt tiêu biểu làm nên diện mạo của thời kỳ đổi mới trong
thơ Việt Nam đương đại. Nhóm thứ hai là những tác giả trẻ hơn xuất hiện từ
1990 đến nay với những tìm tòi, phát hiện bước đầu đã được ghi nhận. Thế hệ
những nhà thơ này đã đạt được thành tựu nổi bật là đã có những bước chuyển
mới rất cơ bản về nội dung phản ánh, về nghệ thuật và thi pháp. Thơ của họ gần
gũi hơn với cuộc đời, với thiên nhiên, gần gũi với tâm sự buồn vui của con
người, nghiêng về phía những cá thể và là tiếng nói thân phận. Ngịi bút thơ của
họ chủ động, tìm tòi vươn tới bề sâu của những địa tầng còn ẩn khuất trong đời
sống tinh thần của con người để khai thác và hướng tới những hiệu quả nghệ
thuật mới.
1.2.3.1. Nhóm những nhà thơ sau 1975 đến 1990
Cho đến nay, sau rất nhiều tranh cãi, bất đồng… thì hầu như tất cả chúng
ta đều nhìn nhận thẳng thắn và cơng bằng rằng trên hành trình cách tân thơ, Trần
19


Những biểu hiện của Chủ nghĩa Hậu hiện đại trong thơ Việt Nam đương đại

Dần chính là tên tuổi đi đầu, hứng khởi, quyết liệt với những tìm tịi rất có giá
trị. Trần Dần đã kiên nhẫn thầm lặng triển khai “cuộc – chơi – thể - nghiệm –
thơ ”. Có thể xem Trần Dần là một hiện tượng độc đáo và lạ lùng mà đến nay
chúng ta vẫn chưa hiểu hết được. Có nhiều nhà phê bình hiện nay đánh giá thơ
Trần Dần đã chạm đến được tư duy thơ hậu hiện đại. Có lẽ bởi vậy, vùng ảnh
hưởng của Trần Dần tới các nhà thơ trẻ đương đại khá lớn. Về cuộc cách tân thơ
đầy “khổ đau” của đời mình, Trần Dần đã có những lời tun ngơn:
Tơi có thể mặc thây
ngàn tiếng chửi tục tằn

Trừ tiếng chửi:
Sống không sáng tạo.
Hay:
Tôi vẫn nâng chiếc đầu lâu nặng nề sáng tạo
như nâng một viễn vọng đài.
Hiếm có một nhà thơ nào coi công cuộc làm thơ là công cuộc “làm tiếng Việt”
như Trần Dần. Trong suốt cuộc đời thơ của mình, Trần Dần đã liên tục thử
nghiệm, sáng tạo không ngừng. Mùa sạch là một thử nghiệm về thơ độc âm, hay
lối chơi vần độc đáo trong những Lịch xuân, Ao ta, Trên quả đất mùa… Quan
niệm làm thơ làm chữ - làm tiếng Việt như là một ám ảnh trong tư tưởng thơ
Trần Dần. Người đọc ln tìm thấy cách làm vần, vận âm, biến tấu âm… rất lạ
của ông.
Ao ta…
Nước quê thàn thạt
Đầm mùa con vịt ngoạt
Trong trời thoàn thoạt
Bèo sen thuyền sạch mạc
Lành chiều sao mát nhoạt
Gái trai đi thào thạt gió phèn.
(Ao ta)
20


×