ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGÔ THỊ THỦY
QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ
VÀ THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI
Ở PHÚ THỌ HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Hà Nội - 2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGÔ THỊ THỦY
QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ
VÀ THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI
Ở PHÚ THỌ HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Triết học
Mã số:
60 22 80
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Phạm Văn Đức
Hà Nội - 2013
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chƣơng 1: QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ VÀ THỰC HIỆN
CÔNG BẰNG XÃ HỘI: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN .................. 7
1.1. Các quan niệm khác nhau về tăng trưởng kinh tế và thực hiện công
bằng xã hội ............................................................................................. 7
1.1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế và các yếu tố quyết định sự tăng
trưởng kinh tế ......................................................................................... 7
1.1.2. Quan niệm về công bằng xã hội ........................................................ 13
1.1.3. Tiêu chí của cơng bằng xã hội ........................................................... 24
1.2. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ........................ 28
1.2.1. Một số quan niệm về kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và cơng
bằng xã hội ở một số mơ hình kinh tế tiêu biểu trên thế giới .............. 28
1.2.2. Nhận thức và quan niệm của Đảng ta về kết hợp tăng trưởng
kinh tế và thực hiện công bằng xã hội ................................................. 33
Chƣơng 2: TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ VÀ THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ
HỘI Ở PHÚ THỌ HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ............. 40
2.1. Tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội ở Phú Thọ hiện nay
- thực trạng và vấn đề đặt ra ................................................................ 40
2.1.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và thực hiện công bằng xã hội ở Phú Thọ ............................... 40
2.1.2. Thực trạng quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã
hội ở Phú Thọ trong giai đoạn 1976 - 1985 ......................................... 46
2.1.3. Thực trạng quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công
bằng xã hội ở Phú Thọ trong giai đoạn 1986 đến nay ......................... 48
2.1.4. Những vấn đề nảy sinh trong q trình tăng trưởng kinh tế và
thực hiện cơng bằng xã hội ở Phú Thọ hiện nay ................................. 60
2.2. Các giải pháp kết hợp tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã
hội ở Phú Thọ hiện nay ........................................................................ 64
2.2.1. Nhóm giải pháp về kinh tế và chính trị ..................................................64
2.2.2. Nhóm giải pháp về văn hóa và xã hội ............................................... 69
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 74
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BBĐ
:
Bất bình đẳng
BĐXH
:
Bình đẳng xã hội
CBXH
:
Cơng bằng xã hội
CNCS
:
Chủ nghĩa cộng sản
CNH, HĐH
:
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNTB
:
Chủ nghĩa tư bản
CNXH
:
Chủ nghĩa xã hội
KT - XH
:
Kinh tế - xã hội
KTTT
:
Kinh tế thị trường
PTBV
:
Phát triển bền vững
PTKT
:
Phát triển kinh tế
TBCN
:
Tư bản chủ nghĩa
TTKT
:
Tăng trưởng kinh tế
XHCN
:
Xã hội chủ nghĩa
XHTB
:
Xã hội tư bản
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phú Thọ là tỉnh trung du miền núi, diện tích tự nhiên 3.528,4 km2, cách
Thủ đơ Hà Nội 85 km về phía Tây Bắc, theo đường Quốc lộ 2. Phía Bắc giáp
Tuyên Quang và n Bái; phía Nam giáp tỉnh Hồ Bình, phía Đơng giáp tỉnh
Hà Tây và Vĩnh Phúc; phía Tây giáp tỉnh Sơn La. Có 3 dịng sơng lớn chảy qua
và hợp lưu tại Bạch Hạc (thành phố Việt Trì) là sơng Hồng, sơng Đà, sơng Lơ.
Là tỉnh cịn nghèo, Phú Thọ có nhiều dân tộc thiểu số với tiềm lực kinh tế còn
hạn chế; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, tiềm năng đất đai, nguồn nhân lực và
cơ sở vật chất chưa được khai thác triệt để. Kinh tế của Phú Thọ thuộc vào loại
chậm phát triển, chủ yếu dựa trên sản xuất nông nghiệp và trồng rừng.
Trước Cách mạng tháng 8, kinh tế Phú Thọ chủ yếu là sản xuất nơng nghiệp độc
canh cây lúa. Sau hồ bình lập lại, Phú Thọ dần hình thành cơ cấu kinh tế nông công - lâm nghiệp và dịch vụ thương mại. Các khu cơng nghiệp lớn ra đời như:
Việt Trì, Bãi Bằng, Lâm Thao, Thanh Ba đã tạo cho Phú Thọ một diện mạo mới
trong phát triển kinh tế - xã hội.
Những năm gần đây, thực hiện công cuộc đổi mới, tình hình kinh tế - xã
hội của tỉnh Phú Thọ đã có bước phát triển đáng kể. Tốc độ GDP đạt 10,6%/năm
(giai đoạn 2005 - 2010); GDP bình quân tăng 2,2 lần so với giai đoạn (20012005); giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp tăng 5%/năm, công nghiệp, xây dựng
tăng 12,3%/năm, dịch vụ tăng 12,6% năm, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 295
triệu USD, tăng 2,34 lần; thu hút vốn cho đầu tư huy động đạt 29,9 nghìn tỷ
đồng, tăng bình quân 21,4%/năm và tăng 2,6 lần so với giai đoạn 2001 - 2005.
Đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện. Tình hình an ninh,chính trị, quốc
phịng được giữ vững, trật tự an tồn xã hội nhìn chung được đảm bảo.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cựu mà nhân dân tỉnh Phú Thọ đã đạt
được thì hàng loạt những vấn đề tiêu cực với tư cách là mặt trái của kinh tế thị
trường đã nảy sinh và tạo nên một sức ép lớn. Trong đó, tình trạng bất bình đẳng
1
(BBĐ) xã hội, phân tầng xã hội, phân hoá giàu nghèo giữa các miền, các vùng
và thậm chí ngay trên cùng một địa bàn dân cư đang trở thành vấn đề nổi cộm,
gây bức xúc cho toàn xã hội.
Như vậy, sau hơn 20 năm đổi mới, hoà cùng với diện mạo chung của cả
nước, nền kinh tế Phú Thọ đã bước sang một giai đoạn mới - giai đoạn đẩy
mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phú Thọ phấn đấu hoàn thành mục tiêu tổng quát mà toàn Đảng, toàn dân ta
đang phấn đấu là Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Thực hiện “Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ xã hội và cơng
bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển”.
Do đó, vấn đề được đặt ra là làm thế nào kết hợp được tăng trưởng kinh tế
(TTKT) với công bằng xã hội (CBXH) ngay trong từng bước phát triển. Đây
đang là bài tốn khó đặt ra cho những người làm cơng tác lý luận và chỉ đạo
thực tiễn ở Phú Thọ hiện nay. Trên phương diện lý luận, có thể khẳng định rằng,
việc giải quyết tốt mối quan hệ này ở nước ta nói chung và Phú Thọ nói riêng là
vấn đề cấp bách bởi vì kết hợp TTKT gắn liền với tiến bộ và CBXH chính là
mục tiêu, lý tưởng, đồng thời, cũng là một trong những tiêu chí cơ bản để chỉ ra
bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Với những lí do trên, tơi mạnh dạn chọn đề tài: Quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội ở Phú Thọ hiện nay làm đề tài
luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề tăng trưởng, phát triển kinh tế và thực hiện CBXH là vấn đề cấp
bách, là bài tốn khó của mỗi quốc gia, của các nhà lãnh đạo, quản lý và giới lý
luận trong và ngoài nước.
Một số tác giả trong các bài viết của mình đã đề cập đến vấn đề TTKT,
các yếu tố tác động đến TTKT, đồng thời có nhiều bài viết đã xây dựng những
giải pháp nhằm thúc thúc đẩy TTKT ở nước ta hiện nay như:
2
+ PGS. PTS Vũ Hiền với: “Tăng trưởng kinh tế và nghịch lý của sự tăng
trưởng”, Tạp chí Thơng tin lý luận, số 12/1999.
+ GS. TS Tào Hữu Phùng: “Việt Nam tăng trưởng kinh tế và các nhân tố
ảnh hưởng”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 7/1995.
+ GS. PTS Vũ Đình Bách với: “Các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế ở Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1998.
+ GS. PTS Vũ Đình Bách cùng Nguyễn Tơn Trường: “Mơ hình phát triển
kinh tế - xã hội đảm bảo sự tăng trưởng bền vững ở nước ta”, Tạp chí Kinh tế
Phát triển, số 7/1995.
Bên cạnh đó một số tác giả đã tập trung nghiên cứu CBXH, CBXH trong
giai đoạn CNH, HĐH và qua lăng kính CBXH để nhìn nhận sự phân hố giàu
nghèo trong xã hội:
+ GS. PTS Lê Hữu Tầng: “Về công bằng xã hội”, Tạp chí Cộng sản, số
19/1996.
+ GS. PTS Lê Hữu Tầng: “Phân hố giàu nghèo xét từ góc độ cơng bằng
và bình đẳng xã hội”, Tạp chí Triết học, số 4/1993.
+ Trịnh Duy Luân và Bùi Thế Cường: “Về phân tầng xã hội và công bằng
xã hội ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Xã hội học, số 2/2001.
+ PGS. TS Nguyễn Tấn Hùng và TS Lê Hữu Ái “Thực hiện công bằng xã
hội ở Việt Nam hiện nay: Mâu thuẫn và phương pháp giải quyết”.
Ngoài ra, trong các bài viết khác, các tác giả đã nghiên cứu mối quan hệ
giữa TTKT với các vấn đề xã hội, chính sách xã hội, từ đó đi đến việc giải quyết
những mâu thuẫn giữa TTKT với CBXH:
+ GS Bùi Đình Thanh: “Cơng bằng xã hội và sự nghiệp cơng nghiệp hố,
hiện đại hóa”, Tạp chí Cộng sản, số 19/1996.
+ GS. TS Phạm Xuân Nam: “Công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị
trường và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, Nxb. KHXH Việt
Nam 12/2008.
Trong quy mô một tỉnh nhỏ như ở Phú Thọ thì vấn đề này vẫn chưa có tác
3
giả nào quan tâm nghiên cứu sâu. Trên phương diện lí luận chung thì vấn đề
tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội được Đảng bộ tỉnh hoạch định
trong từng giai đoạn phát triển.
Như vậy, vấn đề quan hệ giữa TTKT và thực hiện CBXH ở Phú Thọ vẫn
chưa có tác giả nào nghiên cứu một cách cơ bản và hệ thống dưới góc độ Triết
học, đây là vấn đề còn bỏ ngỏ. Với tư cách là người con của quê hương Đất Tổ,
tôi chọn vấn đề này để nghiên cứu với sự mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc
luận giải những vấn đề lí luận và thực tiễn đang đặt ra ở Phú Thọ. Những tài liệu
trong các văn kiện Đảng bộ, các báo cáo Chính phủ thường kỳ về tình hình kinh
tế - xã hội tỉnh Phú Thọ là những nguồn tư liệu quý báu giúp cho tôi tiếp thu làm
cơ sở cho đề tài nghiên cứu của mình. Đây là một vấn đề khó khăn, phức tạp,
địi hỏi nghiên cứu kỹ lưỡng có thời gian dài, cho nên những vấn đề luận văn
nghiên cứu cũng chỉ là những xem xét ban đầu.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở phân tích những vấn đề
nảy sinh trong quá trình thực hiện kết hợp tăng trưởng kinh tế và thực hiện công
bằng xã hội trên địa bàn tỉnh Phú Thọ hiện nay, luận văn đề xuất một số giải
pháp chủ yếu nhằm kết hợp TTKT và thực hiện CBXH trong các giai đoạn tiếp
theo ở Phú Thọ.
Để đạt được mục đích đó, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ chủ
yếu sau:
Thứ nhất, tập trung trình bày các quan niệm khác nhau về TTKT và
CBXH; nhận thức và quan điểm của Đảng ta về mối quan hệ TTKT và thực hiện
CBXH đồng thời, phân tích mối quan hệ giữa chúng trên bình diện lý luận chung.
Thứ hai, làm rõ một cách khái quát thực trạng mối quan hệ TTKT và thực
hiện CBXH trong thời gian vừa qua ở Phú Thọ.
Thứ ba, luận văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt mối
quan hệ giữa TTKT và thực hiện CBXH ở Phú Thọ hiện nay.
4
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận xung quanh mối quan
hệ giữa TTKT với CBXH. Trên cơ sở đó, luận văn tiến hành phân tích thực trạng
của việc thực hiện mối quan hệ này và tìm ra những giải pháp chủ yếu cho chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn từ 1975
đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước ta về việc giải quyết mối quan hệ giữa TTKT và thực hiện CBXH.
- Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở thực tiễn tình hình kinh tế - xã hội
của tỉnh Phú Thọ, đặc biệt là thực tiễn từ khi đổi mới đến nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu phổ biến, như phương pháp
lịch sử và logic; phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, v.v..
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần hệ thống các quan niệm về TTKT, CBXH và quan
điểm của Đảng ta về kết hợp TTKT và CBXH.
- Luận văn góp phần phân tích thực trạng việc thực hiện mối quan hệ này
và đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm giải quyết mối quan hệ giữa TTKT và
thực hiện CBXH ở Phú Thọ trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy và
nghiên cứu một số chuyên đề trong chương trình trung cấp lí luận chính trị.
- Ở một mức nhất định, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng
làm tư liệu tham khảo cho việc hoạch định, thực thi chính sách nhằm thúc đẩy
TTKT gắn với CBXH ở tỉnh Phú Thọ.
5
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 2 chương, 4 tiết:
Chương 1: Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã
hội: Một số vấn đề lý luận cơ bản.
Chương 2: Kết hợp tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Phú Thọ Vấn đề và giải pháp.
6
Chƣơng 1
QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ VÀ THỰC HIỆN CƠNG
BẰNG XÃ HỘI: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN
1.1. Các quan niệm khác nhau về tăng trƣởng kinh tế và thực hiện
công bằng xã hội
1.1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế và các yếu tố quyết định sự tăng
trưởng kinh tế
1.1.1.1. Tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế
* Tăng trưởng kinh tế
Ngày nay, tất cả các quốc gia trên thế giới không phân biệt chế độ chính
trị, khi đã giành được độc lập và có chủ quyền, đều xác lập cho mình chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội riêng.
Những mục tiêu phát triển phải dựa vào khả năng khai thác nguồn lực
trong và ngoài nước. Tuỳ theo điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mà mỗi quốc gia có
sự kết hợp và khả năng khai thác nguồn lực khác nhau. Song quan niệm chung
nhất là phải tạo cho được sự tiến bộ toàn diện cả về kinh tế và xã hội, đồng thời
coi tăng trưởng kinh tế (TTKT) là tiền đề cần thiết cho sự phát triển.
Tăng trưởng (growth) theo nghĩa chung nhất, là khái niệm dùng để chỉ sự
vật trong quá trình vận động của nó, tăng thêm, mở rộng về quy mơ của sự vật
hay một “hệ thống” sự vật trong quá trình vận động của nó. Trong ngơn ngữ sử
dụng hàng ngày chúng ta có thể dùng khái niệm "tăng”, "sự gia tăng" để chỉ sự
tăng trưởng.
Tăng trưởng kinh tế là một khái niệm kinh tế học được dùng để chỉ sự gia
tăng về quy mô, sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định và thường
được đo bằng một số đại kượng trong đó GDP (tổng sản phẩm quốc nội) và GNP
(tổng sản phẩm quốc dân) là những thước đo thường được sử dụng nhất.
Trong kinh tế, thuật ngữ TTKT được sử dụng rộng rãi và có nhiều cách
tiếp cận khác nhau:
7
- TTKT là “sự gia tăng sản lượng thực tế của một nền kinh tế theo thời
gian”.
- TTKT là “sự thay đổi về lượng các kích thước vật chất của sản xuất và
kinh doanh”.
- TTKT là “sự tăng lên của sản lượng hàng hóa, dịch vụ trong một nước
do sự tăng lên của thu nhập quốc dân và sản phẩm bình qn đầu người”.
- TTKT là “mức tăng quy mơ và tốc độ sản phẩm”.
- TTKT là “sự tăng thêm về quy mơ, sản lượng sản phẩm hàng hóa và
dịch vụ trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). Nếu tổng sản phẩm
hàng hóa của một quốc gia tăng lên, nó được coi là TTKT.
Từ những sự khác nhau về TTKT có thể rút ra điểm chung: TTKT là khái
niệm chỉ mức tăng về lượng của nền kinh tế trong một thời gian nhất định.
Để biểu thị sự TTKT, người ta thường dùng mức tăng lên của GNP hay
GDP. Mức tăng đó thường tính trên tồn bộ nền kinh tế quốc dân, hay tính bình
qn theo đầu người của thời kỳ sau so với thời kỳ trước đó. Ngày nay nền kinh
tế hiện đại với hai yếu tố cơ bản có tác động thúc đẩy phát triển kinh tế rất
nhanh là thể chế chính trị đặc biệt như (đổi mới, cải tổ kinh tế) và tiến bộ khoa
học - kỹ thuật. Vì vậy, người ta có thể rút ngắn việc so sánh kết quả kinh tế lại
sáu tháng, một quí, một tháng thậm chí hàng ngày tuỳ theo lĩnh vực quản lý kinh
tế. Sự TTKT được so sánh theo các thời điểm liên tục trong một giai đoạn nhất
định sẽ cho ta khái niệm tốc độ TTKT. Như vậy, tốc độ TTKT là sự tăng thêm
sản lượng nhanh hay chậm so với thời điểm gốc.
* Phát triển kinh tế
Quan niệm về phát triển kinh tế (PTKT) có nhiều ý kiến khác nhau:
Theo giáo sư Phạm Xuân Nam, PTKT là “sự thay đổi về chất của nền
kinh tế tạo cơ sở cho một trạng thái xã hội tiến bộ, công bằng và văn minh hơn”
Giáo sư Ewayne Nafziger cho rằng: PTKT nói đến TTKT kèm theo
những thay đổi về phân phối sản lượng, về cơ cấu kinh tế. Những thay đổi này
có thể bao gồm việc nâng cao mức của cải vật chất của một nửa dân cư nghèo
8
hơn, một sự giảm sút về tỉ phần của nông nghiệp trong GNP và sự gia tăng
tương ứng tỉ phần GNP trong cơng nghiệp, tài chính, xây dựng và quản lý nhà
nước, một sự gia tăng về giáo dục và kỹ năng của lực lượng lao động và những
tiến bộ kỹ thuật đáng kể được tạo ra trong nền kinh tế”.
Trong cuốn “Kinh tế phát triển” của Đại học Kinh tế quốc dân năm 1997
có định nghĩa PTKT có thể hiểu là một quá trình lớn lên (hay tăng tiến) về mọi
mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định trong đó bao gồm cả sự tăng lên
về quy mô sản lượng (tăng trưởng) và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế - xã hội”.
Như vậy, PTKT là một khái niệm KT - XH rộng nó phản ánh đầy dủ
những nội dung sau:
- Thứ nhất: PTKT bao gồm cả sự thay đổi về khối lượng của cải vật chất,
dịch vụ và sự biến đổi tiến bộ về cơ cấu kinh tế và đời sống xã hội.
- Thứ hai: sự tăng thêm quy mô sản lượng và tiến bộ về cơ cấu KT - XH
là hai mặt có mối quan hệ vừa phụ thuộc, vừa độc lập tương đối của lượng (quy
mô, số lượng của cải vật chất) và chất (cơ cấu kinh tế và đời sống xã hội).
- Thứ ba: Sự phát triển kinh tế là quá trình tiến hóa theo thời gian do
những nhân tố nội tại của bản thân nền kinh tế quyết định.
- Thứ tư: PTKT phản ánh sự vận động của nền kinh tế từ trạng thái thấp
lên trạng thái cao hơn.
Như vậy, khái niệm PTKT bao hàm cả sự TTKT
Trong giai đoạn hiện nay, khái niệm PTKT được đặt ra trong mối quan hệ
với phát triển xã hội, bảo vệ môi trường hợp thành nội dung của khái niệm phát
triển bền vững (PTBV). Đây là khái niệm mới nhằm định nghĩa một sự phát
triển về mọi mặt trong hiện tại mà vẫn phải đảm bảo sự tiếp tục phát triển trong
tương lai xa. Khái niệm này hiện đang là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia
trên thế giới, mỗi quốc gia sẽ dựa theo đặc thù kinh tế, xã hội, chính trị, địa lý,
văn hóa… riêng để hoạch định chiến lược phù hợp nhất với quốc gia đó.
Qua sự phân tích trên cho thấy, TTKT và PTKT là hai khái niệm vừa có
tính độc lập, vừa có mối liên hệ với nhau. Khái niệm PTKT rộng hơn khái niệm
9
TTKT. PTKT bao hàm cả TTKT và sự đổi mới về cơi cấu kinh tế theo hướng
tăng tỉ trọng trong sản xuất công nghiệp, dịch vụ và giảm tỉ trọng sản xuất nông
nghiệp trong tổng sản phẩm quốc dân; tăng dân số thành thị, giảm dân số nông
thôn; đổi mới cơ cấu tiêu dùng; cải thiện và nâng cao trình độ văn hoá, giáo dục,
y tế... Như vậy, PTKT trong nó đã bao hàm cả những mặt xã hội và sự đổi mới
về cơ cấu kinh tế theo hướng các thành phần kinh tế.
Đặc trưng chủ yếu của TTKT là sự biến đổi về lượng, trong khi PTKT
chủ yếu là đặc trưng biến đổi về chất của nền kinh tế. TTKT là điều kiện, tiền đề
cho phát triển. Bởi vì, nền kinh tế có tăng trưởng thì mới có khả năng tăng ngân
sách nhà nước, tăng thu nhập dân cư. Nhờ có TTKT nhà nước mới có thể giải
quyết được các vấn đề xã hội, đầu tư phát triển lại kinh tế. TTKT là điều kiện
cần để làm thay đổi mọi mặt của đời sống xã hội và tác động trực tiếp tới sự
hình thành cơ cấu kinh tế. TTKT là điều kiện, tiền đề cho phát triển, nhưng bản
thân nó chỉ là một đại lượng khơng hồn hảo của sự tiến bộ. TTKT có thể thúc
đẩy phát triển xã hội, mà điều này lại lệ thuộc vào chế độ xã hội, vào quan niệm
giá trị và hệ thống giá trị. Một nền kinh tế có tăng trưởng nhưng nếu lấy lợi
nhuận làm mục tiêu duy nhất, mà xem nhẹ yếu tố xã hội thì khơng thể coi đó là
sự tăng trưởng mang tính tích cực, tiến bộ. Về mặt lý thuyết, có thể cho rằng có
sự phát triển nhưng khơng có sự tăng trưởng trong trường hợp GNP đầu người
không tăng, nhưng thực hiện CBXH tốt hơn, giảm bớt những lãng phí để mang
lại lợi ích cho nhân dân.
Như vậy, xét từ góc độ triết học thì TTKT và PTKT là hai khái niệm có
điểm giống nhau, nhưng khơng hoàn toàn đồng nhất. Điểm giống nhau là cả hai
đều nói lên sự chuyển dịch, vượt khỏi trạng thái trì trệ dậm chân tại chỗ. Điểm
khác nhau là một bên nói lên sự chuyển dịch về số lượng, cịn một bên nói lên
tính định hướng, chất lượng của sự chuyển dịch đó.
1.1.1.2. Các yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế
Các lý thuyết về TTKT cho đến nay đều nhằm mục đích xác định những
yếu tố chủ yếu quyết định sự tăng trưởng và vai trò của những yếu tố đó. Vai trị
10
của các yếu tố này thường khác nhau (có thể rất xa) giữa các nước và trong một
nước cũng có thể khác nhau giữa các thời kỳ. Vì thế nhiều nhà kinh tế cho rằng:
cho đến nay khơng có một tập hợp thống nhất các ngyuên lý có thể gọi là TTKT.
Tuy nhiên cũng thừa nhận rằng có một số yếu tố chắc chắn giữ vai trò quan
trọng đối với TTKT: số lượng và chất lượng nguồn nhân lực, số lượng và chất
lượng nguồn tài nguyên, mức độ tích luỹ vốn và sự đổi mới công nghệ.
Số lượng và chất lượng nguồn nhân lực.
Mọi của cải của xã hội đều do con người sáng tạo ra. Ngay từ thế kỷ
XVIII, các nhà kinh tế học (như Adam smith) đã nhận ra rằng: nguồn lực để sản
xuất ra của cải vật chất là lao động và tài nguyên (đất đai). Khi dân số cịn ít, tài
ngun đất đai chưa khan hiếm, sản xuất nơng nghiệp cịn là chủ yếu, thì yếu tố
quyết định PTKT là lao động. Lao động là sáng tạo và quyết định, tất cả các chi
phí lao động cũng trở thành thước đo giá trị hàng hoá. Ngày nay, trình độ phát
triển đã khác xa thế kỷ XVIII, nhưng lao động vẫn là một trong những yếu tố
quyết định. Nguồn lao động đề cập ở đây bao gồm cả số lượng và chất lượng.
Chất lượng nguồn lao động khơng chỉ phụ thuộc vào trình độ giáo dục, sức
khoẻ, mà còn phụ thuộc vào số lượng, chất lượng những công cụ, thiết bị sản
suất trang bị cho người lao động. Tóm lại, quy mơ nguồn nhân lực bao gồm: số
lượng lao động; độ dài thời gian làm việc (số giờ làm việc trong một tuần) và
chất lượng nguồn nhân lực, đây là một trong những yếu tố quyết định sản lượng
và năng xuất. Đối với các nước đang phát triển lao động là một nguồn lực dồi
dào và là một thế mạnh đặc biệt.
Số lượng và chất lượng nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Tài nguyên thiên nhiên bao gồm: Đất đai; khống sản; nguồn nước; khí
hậu… được coi là một trong những nguồn lực quan trọng cho sự PTKT. Những
quốc gia giàu có về tài nguyên thiên nhiên sẽ rất thuận lợi trong quá trình đẩy
nhanh tố độ tăng trưởng.
Số lượng và chất lượng nguồn tài nguyên thiên nhiên của một quốc gia
không phải là cố định. Nếu chuyển một phần lao động và tiền vốn vào đầu tư
11
cho việc nghiên cứu thì quốc gia đó có thể phát hiện hoặc khai thác được các
nguồn tài nguyên thiên nhiên mới trong phạm vi lãnh địa của mình để nâng cao
tốc độ TTKT trong tương lai.
Mức độ tích luỹ vốn.
Nguồn vốn gồm: Máy móc; thiết bị; nhà xưởng; đường xá; cầu cống; đê
điều; phương tiện thông tin liên lạc; vận tải… được dùng như là các công cụ
(phương tiện) cho lao động để tạo ra những hàng hoá và dịch vụ đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng ngày càng cao của xã hội. Quá trình sản xuất là quá trình tiêu hao
dần về vốn (khấu hao), vì thế tỷ lệ tích luỹ trước hết là để bù đắp phần vốn hao
mòn và phần còn lại là để mở rộng năng lực sản xuất của nền kinh tế - cơ sở cho
tăng trưởng nhanh. Muốn có nguồn vốn mới thì cần phải giảm một phần tiêu
dùng trước mắt, nghĩa là phải tiết kiệm. Ở những nước nghèo, thu nhập thấp, tiết
kiệm khơng đáng kể thì tỷ lệ tích luỹ thấp (thậm chí khơng thể bù đắp một phần
bộ phận vốn đã hao mịn) cho nên q trình sản xuất ln trong tình trạng kém
phát triển và khó có khả năng thốt khỏi cảnh nghèo khổ. Nhiều quốc gia đang
phát triển đã mạnh dạn vay vốn nước ngồi để tiến hành cơng nghiệp hố nhằm
đưa đất nước thốt khỏi tình trạng nghèo khó, lạc hậu. Tuy nhiên mức độ thành
cơng cịn tuỳ thuộc và khả năng kết hợp vốn với các nguồn lực khác cũng như
chiến lược sử dụng vốn đã vay.
Yếu tố công nghệ.
Yếu tố này bao gồm những tiến bộ về khoa học kỹ thuật cũng như về
quản lý. Mấy thập niên qua, loài người đã chứng kiến những tiến bộ to lớn và
nhanh chóng trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật như: tin học, sinh học, vật liệu
mới… Công nghệ mới đã giúp nhiều quốc gia nhanh chóng mở rộng quy mơ sản
xuất, hạ thấp chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh của
hàng hoá, giúp con người khai thác có hiệu quả nhất nguồn tài nguyên thiên
nhiên vốn khan hiếm. Trong thế kỷ XXI này, đối với những nước phát triển một
trong những yếu tố quyết định thành cơng trong q trình phát triển kinh tế là
việc ứng dụng cơng nghệ mới. Cịn đối với các nước đang phát triển lại đòi hỏi
12
phải nhanh chóng đổi mới cơng nghệ, tiến hành cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá
(CNH, HĐH) đất nước.
Vấn đề học hỏi, nghiên cứu và lựa chọn cơng nghệ thích hợp có ý nghĩa
quyết định đến tốc độ TTKT. Với chiến lược khơn khéo, nắm cơ hội trong và
ngồi nước, tận dụng mọi lợi thế sẽ làm cho đất nước có đà TTKT nhanh. Lịch
sử tăng trưởng của các nước trên thế giới cũng cho thấy vai trò lãnh đạo của
đảng chính trị cũng như việc điều hành nền kinh tế của chính phủ là hết sức
quan trọng.
Ngồi những yếu tố trên, vấn đề tăng trưởng kinh tế của các nước đang
phát triển có được thuận lợi và diễn ra nhanh chóng hay khơng lại cịn chịu ảnh
hưởng bởi các điều kiện vĩ mơ khác như:
- Sự ổn định về chính trị - xã hội;
- Hệ thống pháp luật phải ngày càng hồn thiện;
- Có kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội tốt và đồng bộ (giao thông; thông
tin, giáo dục, y tế…).
- Có hệ thống ngân hàng, tài chính hoạt động hiệu quả.
Bên cạnh đó, mức TTKT nhanh hay chậm còn phụ thuộc vào đặc điểm
của mỗi dân tộc (truyền thống văn hố, tính cách, tâm lý, tập quán sản xuất, nghị
lực…) cũng như vị trí địa lý của mỗi quốc gia.
Các yếu tố trên là những nguồn lực chủ yếu quyết định tốc độ TTKT, nó
được coi là những yếu tố sản xuất - “Nguyên liệu đầu vào” của quá trình sản
xuất. Khi gia tăng các “nguyên liệu đầu vào” thì sản lượng đầu ra chủ yếu sẽ
tăng lên. Mức TTKT nhanh hay chậm phụ thuộc vào mức tăng của các “nguyên
liệu đầu vào”. Vì vậy việc đo lường mức tăng trưởng đầu vào (lao động, vốn…)
thể hiện bằng việc xây dựng các mơ hình tăng trưởng là hướng cố gắng của
nhiều nhà kinh tế trên thế giới.
Như vậy TTKT là khái niệm chỉ mức tăng lên về lượng, quy mô sản
lượng của một nền kinh tế trong một thời gian nhất định. TTKT là cơ sở, điều
kiện cho sự phát triển. Các yếu tố như: số lượng và chất lượng nguồn nhân lực,
13
tài nguyên, mức độ tích luỹ vốn và sự đổi mới cơng nghệ đóng vai trị hết sức
quan trọng đối với TTKT, tuỳ từng giai đoạn lịch sử, từng điều kiện cụ thể mà
các quốc gia có thể ưu tiên cho yếu tố nào trước.
1.1.2. Quan niệm về công bằng xã hội
1.1.2.1. Quan niệm về công bằng xã hội trước chủ nghĩa Mác-Lênin
Vấn đề công bằng xã hội (CBXH) đã được con người quan tâm từ lâu.
Tuy nhiên, trong những thời kỳ lịch sử khác nhau quan niệm về CBXH cũng
khác nhau.
Ở xã hội cộng sản nguyên thuỷ, con người sinh hoạt và lao động mang tính
cộng đồng nhằm thoả mãn nhu cầu của mình. Xã hội này tồn tại trên nguyên tắc:
cùng làm, cùng hưởng. Do lực lượng sản xuất hết sức thấp kém làm cho sản phẩm
lao động quá ít ỏi, chỉ đảm bảo cho sự tồn tại của cộng đồng ở mức tối thiểu, do
vậy sản phẩm đó phải được chia đều cho mọi thành viên trong cộng đồng. Như
vậy ở thời kỳ này CBXH là phương thức để đảm bảo cho sự tồn tại của cộng đồng
xã hội nguyên thuỷ - phương thức tối ưu và duy nhất. Sự công bằng thời kỳ này
được đồng nhất với chủ nghĩa bình quân. Ở cuối thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ, do
lực lượng sản xuất phát triển, của cải làm ra không những đủ nuôi sống cộng đồng
mà cịn có tích luỹ. Song, chính phần của cải dư thừa này đủ “kích thích” cho sự
nảy sinh xung đột về lợi ích của những nhóm người trong cộng đồng. Tư hữu, giai
cấp và nhà nước ra đời làm cho CBXH lại bị vi phạm ở mức độ “văn minh hơn”.
Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra ngày càng gay gắt và CBXH trở thành một trong
những nội dung chính trị của cuộc đấu tranh đó.
Trong các thời đại khác nhau, con người đều quan tâm đến vấn đề CBXH
và đã có nhiều cách nhận thức, đánh giá và giải quyết khác nhau:
Platon (427 - 347 tr CN). Trong học thuyết triết học của mình, Platon cho
rằng: xã hội được chia làm ba hạng người tương ứng với ba phần của linh hồn
con người. Nhà nước xuất hiện từ sự đa dạng của nhu cầu con người và từ đó
xuất hiện các dạng phân công lao động để thoả mãn nhu cầu ấy. Vì vậy trong xã
hội cần phải duy trì các hạng người khác nhau, và do đó khơng thể có sự hồn
14
tồn bình đẳng giữa mọi người được. Cơng lý là ở chỗ mỗi hạng người làm hết
trách nhiệm của mình, biết sống đúng với tầng lớp của mình, nói cách khác là
phải biết phận mình.
Arixtot (384 - 322 tr CN) cho rằng: Luật pháp là tiêu chí của sự cơng
bằng. Trên cơ sở luật pháp, tùy theo sự cống hiến của mỗi người mà xem xét họ
được hưởng quyền lợi một cách tương xứng. Như vậy, CBXH là sự đối xử
ngang nhau trên cơ sở pháp luật. Tuy nhiên, Arixtot quan niệm việc đối xử
ngang nhau này chỉ xét trong cùng một giai cấp chứ không phải với mọi thành
viên ở các gai cấp khác nhau. Điều đó có nghĩa là CBXH không phải là chung
cho mọi thành viên trong xã hội, nơ lệ khơng thể có cùng tiêu chí cơng bằng với
chủ nơ. Đó chính là lẽ đương nhiên, là sự công bằng (của tự nhiên).
T.Hốpxơ (1588-1679) cho rằng: con người là giống nhau, nghĩa là theo
tạo hoá, con người phải bình đẳng, phải được hưởng sự cơng bằng. Nhưng do
lịng tham lam tính ích kỷ và dục vọng của bản thân nên khơng thể có sự bình
đẳng và cơng bằng với nhau được. Từ sự phân tích đó ông chỉ ra: để đi đến sự
hoà hợp công bằng giữa con người vời con người thì phải có một lực lượng
đứng lên trên dàn xếp các lợi ích cá nhân, đó là nhà nước. Như vậy Hốp-Xơ đã
có tư tưởng duy vật về các hiện tượng xã hội. Tuy nhiên ông không thấy được
nhà nước cũng mang bản chất giai cấp của nó, trong xã hội có đối kháng giai
cấp, nhà nước không thể nào thiết lập được sự cơng bằng chung cho tồn xã hội.
J.J Rútxơ (1712-1778) đã phê phán các quan hệ đẳng cấp và chế độ
chuyên chế. Theo ông, chế độ sở hữu tư nhân làm cho xã hội phân chia thành kẻ
giàu và người nghèo, làm cho kẻ giàu ngày càng giàu lên và người nghèo càng
nghèo đi khiến công bằng xã hội bị hủy hoại. Theo ơng, để xóa bỏ tình trạng này
phải làm sao kiềm chế được lịng tham và tính ích kỷ của con người, muốn vậy
phải có “Khế ước xã hội”. Ở đây, J.Rútxô đã chú ý đến sự công bằng xã hội
trong lĩnh vực kinh tế nhưng giải pháp ông đưa ra để thực hiện lại dựa trên quan
điểm duy tâm về xã hội, cụ thể là dựa trên những thỏa thuận có tính chất chủ
quan của con người mà không căn cứ vào những điều kiện vật chất khách quan
của đời sống xã hội.
15
Cantơ (1724-1804) có những đóng góp hết sức to lớn vào tư tưởng
CBXH. Theo ông, CBXH bao gồm công bằng về bảo hộ, công bằng trong trao
đổi và công bằng trong phân phối. Trong đó cơng bằng trong phân phối là quan
trọng nhất. Theo ông trạng thái không pháp luật là một xã hội không công bằng
về phân phối, thông thường gọi đó là trạng thái tự nhiên… Đối lập với trạng thái
tự nhiên là trạng thái văn minh, bởi vì xã hội này xây dựng trên sự cơng bằng về
phân phối. Tư tưởng của Cantơ về công bằng sau này được nhiều người chấp
nhận và vận dụng.
Các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng: Xanh-Xi-Mông (người Pháp),
Phu-Rie (người Pháp), và Ô-Oen (người Anh) đã phê phán xã hội đương thời
được xây dựng trên nền tảng tư hữu - nguyên nhân của mọi bất công xã hội.
Đồng thời các ông đề ra việc xây dựng một xã hội mới mà trong đó nguyên tắc
tối cao là mọi người đều phải lao động, mọi người đều được hưởng thụ như
nhau, xoá bỏ hết mọi đặc quyền đặc lợi, xây dựng một xã hội công bằng. Xã hội
công bằng là điều kiện để đem đến sự công bằng cho tất cả mọi thành viên. Tuy
nhiên, mơ hình xã hội mà các ơng xây dựng ngay từ đầu đã biến thành những
điều không tưởng (cả về lý luận lẫn thực tiễn).
Như vậy, vấn đề CBXH được đề cập trong suốt quá trình lịch sử của nhân
loại, nó phản ánh sự đấu tranh của các giai cấp về quyền sở hữu tư liệu sản xuất;
tổ chức và quản lý sản xuất xã hội; phân phối và sử dụng sản phẩm lao động.
Các nhà tư tưởng trong lịch sử nhân loại đã trình bày những quan niệm khác
nhau về CBXH mặc dù chưa đầy đủ và hệ thống, song những tư tưởng đó là tiền
đề lý luận quan trọng làm cơ sở cho việc nghiên cứu về CBXH cho các nhà tư
tưởng sau này.
1.1.2.2. Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về công bằng xã hội
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng cùng với việc kế thừa,
phát triển một cách sáng tạo những yếu tố hợp lí trong tư tưởng về CBXH trong
lịch sử, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin đã đưa ra quan niệm mới, khoa
16
học và tồn diện hơn về cơng bằng xã hội. Hơn nữa, các ơng cịn chỉ ra thực
chất, vai trị và phương thức thực hiện CBXH trong đời sống xã hội hiện nay.
Trước hết, chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, CBXH là sản phẩm của đời
sống xã hội, là quan hệ giữa con người với con người hình thành trong quá trình
con người hoạt động, sinh sống. Quan hệ đó khơng phải do sư sáng tạo thuần túy
chủ quan của con người, hay do một lực lượng thần thánh, siêu nhiên nào đó
sinh ra. Là sản phẩm của đời sống xã hội mà đời sống xã hội luôn vận động,
biến đổi, nên CBXH cũng phải biến đổi cùng với những điều kiện tồn tại xã hội
và đời sống xã hội. Trong “Về vấn đề nhà ở”, khi bàn đến cơ sở kinh tế của
những quan niệm về công lý của con người, Ph.Ăngghen viết: “Công lý luôn
luôn chỉ là biểu hiện trên lĩnh vực quan niệm và siêu hình của những quan hệ
kinh tế hiện có, khi thì về phương diện bảo thủ, khi thì về phương diện cách
mạng của những điều kiện kinh tế đó. Cơng lý của người Hy Lạp và người La
Mã cho rằng chế độ nô lệ là công bằng; công lý của những nhà tư sản năm 1789
địi hỏi thủ tiêu chế độ phong kiến, vì chế độ ấy không công bằng”. Luận điểm
trên cho thấy, quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin khơng cho rằng có công
bằng xã hội chung cho mọi xã hội. Mỗi xã hội có điều kiện kinh tế - xã hội khác
nhau, các giai cấp gắn với các điều kiện kinh tế đó có địa vị khác nhau nên quan
niệm về CBXH cũng khác nhau và mang tính giai cấp rõ rệt.
Thứ hai, CBXH thực chất là mối quan hệ về mặt lợi ích của con người
trong xã hội. Lợi ích của con người biểu hiện trên nhiều lĩnh vực như lợi ích
kinh tế, lợi ích chính trị, văn hóa, xã hội, khoa học, nghệ thuật… trong đó, lợi
ích về kinh tế là cơ bản nhất. Vì vậy, việc thực hiện CBXH trên lĩnh vực kinh tế
có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện CBXH trên các lĩnh vực khác của
đời sống xã hội.
Thứ ba, để giải quyết vấn đề CBXH trước hết phải giải quyết vấn đề
CBXH trên lĩnh vực kinh tế và phải thực hiện từng bước, xuất phát từ những
điều kiện thực tế của sự phát triển sản xuất. Nghiên cứu nền sản xuất TBCN, các
nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ rõ cơ sở khách quan của sự bất công trên
lĩnh vực kinh tế trong CNTB, đó chính là chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản
17
xuất và sản phẩm lao động của CNTB. Chế độ sở hữu đó quyết định chế độ phân
phối trong CNTB, làm cho của cải, sự giàu có và quyền lực ngày càng tập trung
trong tay giai cấp tư sản còn sự bần cùng, nghèo nàn ngày càng tập trung về phía
giai cấp vơ sản, về phía những người lao động. Để xóa bỏ sự bất cơng này cần
phải xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân TBCN, thiết lập chế độ sở hữu mới, sở hữu
XHCN về tư liệu sản xuất. Nhưng làm thế nào để xóa bỏ được chế độ sở hữu tư
nhân TBCN? Điều này không đơn giản chỉ dựa vào mong muốn chủ quan của
con người, mà phải bằng những lực lượng vật chất thực tế của xã hội và phải
thực hiện từng bước. Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ rõ lực lượng vật chất thực tế đó
chính là giai cấp công nhân, sản phẩm của nền đại công nghiệp cơ khí trong
CNTB, được tổ chức một cách khoa học để lơi cuốn, đồn kết đơng đảo nhân
dân tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng, thay thế xã hội tư bản bằng xã hội
XHCN. CBXH xẽ được giải quyết từng bước cùng với việc xóa bỏ quan hệ sản
xuất TBCN và xây dựng, phát triển quan hệ sản xuất XHCN.
Trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gôta” khi phê phán quan điểm mơ
hồ, tiểu tư sản của Latxan về các giải pháp xây dựng xã hội mới trong đó đảm
bảo sự công bằng tuyệt đối giữa con người với nhau, Mác đã chỉ ra rằng không
thể thực hiện ngay sự công bằng xã hội một cách tuyệt đối. Trong giai đoạn đầu
của CNCS do mới thoát thai từ xã hội tư bản, CNCS chưa phát triển trên cơ sở
của chính mình nên cịn chịu ảnh hưởng của XHTB. “Cái xã hội mà chúng ta nói
ở đây khơng phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên những cơ
sở của chính nó, mà trái lại là một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã
hội tư bản chủ nghĩa, do đó một xã hội về mọi phương diện - kinh tế, đạo đức
tinh thần còn mang dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lịng ra” [43, tr. 33]. Thực
hiện phân phối theo lao động trong giai đoạn đầu của CNCS là một bước tiến
lớn trong thực hiện CBXH. Tuy nhiên, chế độ phân phối đó vẫn dựa trên tiêu
chuẩn của CNTB, chấp nhận sự bất công nhất định. Theo Mác đó là điều khơng
thể tránh vì trình độ phát triển kinh tế chưa cho phép. Ơng viết, “Nhưng đó là
những thiếu sót khơng thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản
chủ nghĩa, lúc nó vừa mới lọt lòng từ xã hội tư bản chủ nghĩa ra sau những cơn
18
đau đẻ kéo dài. Quyền khơng bao giờ có thể ở một mức cao hơn chế độ kinh tế
và sự phát triển của văn hóa của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định” [46, tr.
35-36]. Mác cịn chỉ rõ, khi lực lượng sản xuất chưa phát triển đến trình độ cao,
con người chưa phát triển tồn diện, cịn phụ thuộc vào phân cơng lao động xã
hội thì chưa thể thực hiện được đầy đủ nguyên tắc công bằng xã hội - khẩu hiệu
làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu. Địi hỏi thực hiện cơng bằng xã hội ở
mức quá cao so với trình độ phát triển của kinh tế là ảo tưởng, là không thực tế
và điều đó sẽ cản trở sự phát triển của xã hội.
Thứ tư, CBXH xét theo xu hướng vận động của nó, ln đối lập với bất
cơng xã hội, ln hướng tới giải quyết tốt hơn những nhu cầu căn bản của con
người, đảm bảo tốt hơn những điều kiện cho sự tồn tại và phát triển toàn diện
của con người. Do vậy, công bằng vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát
triển xã hội.
Như vậy, chúng ta có thể trình bày một cách khái qt CBXH theo quan
niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin như sau: CBXH là một phạm trù lịch sử, phản
ánh mối quan hệ giữa con người với con người trong việc đảm bảo các điều
kiện, cơ hội phát triển, trong việc thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi, cống hiến và
hưởng thụ trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
1.1.2.3. Một số quan niệm về công bằng xã hội ở nước ta
* Trong thời kỳ trước đổi mới
Giai đoạn trước năm 1975, ở miền Bắc nhiệm vụ giải phóng dân tộc,
thống nhất Tổ quốc được đặt lên trên hết, với khẩu hiệu: “Tất cả cho tiền tuyến,
tất cả vì miền Nam ruột thịt’’. Thời gian này nền kinh tế miền Bắc mang nặng
“tính chất thời chiến”, cùng với sự viện trợ lớn từ các nước bên ngoài nhằm tập
trung phục vụ cho sự nghiệp thống nhất đất nước. Vì vậy những vấn đề phát
triển kinh tế trở thành vấn đề thứ yếu sau nhiệm vụ cấp bách là đánh đuổi giặc
ngoại xâm, thống nhất đất nước. CNXH là thực hiện phân phối theo nguyên tắc
“Cộng sản thời chiến”. Các chính sách xã hội phải chú ý thỏa đáng đến lợi ích
của các đối tượng, gia đình có chồng, con đi làm nhiệm vụ chiến đấu.
19
Sau khi miền Nam hồn tồn giải phóng, non sơng thu về một mối, cả
nước bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH. Từ hàng loạt những khó khăn và bề
bộn của chiến tranh, với tinh thần “lạc quan” của người chiến thắng chúng ta bắt
tay vào kiến thiết đất nước. Cùng với việc “giữ vững” cơ chế kế hoạch hóa tập
trung bao cấp chúng ta tiếp tục duy trì chế độ công hữu về tư liệu sản xuất dưới
hai hình thức sở hữu quốc doanh và hợp tác xã. Trong giai đoạn này kinh tế
nước ta tăng trưởng chậm. Hàng hóa thiếu về số lượng, kém về chất lượng và
chính từ việc thiếu thốn đó mà dẫn đến quan niệm phân phối khơng dựa theo
ngun tắc mức độ đóng góp lao động mà vẫn duy trì phương thức phân phối
bình quân theo kiểu bao cấp. Quan niệm này đã được triển khai trong việc thực
hiện chế độ tiền lương của khu vực nhà nước, chế độ phân phối sản phẩm trong
lĩnh vực sản suất nông nghiệp, chế độ học phí, viện phí trong lĩnh vực giáo dục
và y tế. Cơng bằng của cơ chế hành chính, bao cấp trong giai đoạn này được
hiểu và thực hiện theo chủ nghĩa bình qn nhưng đó lại là sự bình qn trong
nghèo khó. Chính vì biết “chia đều sự nghèo khó” nên số đông người lao động
vẫn chấp nhận được trong một thời gian dài.
Điều này được giáo sư - Tiến sĩ Lê Hữu Tầng đánh giá: “trong cơ chế
quản lý tập trung bao cấp mà chúng ta lầm tưởng duy nhất là đúng, là cái duy
nhất đảm bảo xây dựng thành cơng CNXH, khái niệm cơng bằng được đồng
nhất hồn tồn với khái niệm bình đẳng cịn khái niệm bình đẳng được hiểu là
sự ngang bằng nhau hoàn toàn giữa người với người về phương diện kinh tế,
chính trị, văn hóa - xã hội… Kết quả là khái niệm công bằng về thực chất bị đem
đồng nhất với khái niệm cào bằng một cách bình quân chủ nghĩa. Mọi sự đi lệch
khỏi sự bình qn đó đều bị coi là khơng cơng bằng. Chính quan điểm sai lầm
đã làm suy giảm, thậm chí triệt tiêu mất động lực của sự phát triển kinh tế - xã
hội và việc thực hiện quan điểm đó trong cuộc sống về thực chất là bóc lột người
có cơng với sản xuất và phát triển xã hội”. Ở thời kỳ này, người ta nhầm lẫn
giữa CBXH và bình đẳng xã hội. CBXH được quan niệm là sự ngang bằng về
mọi phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… giữa mọi thành viên trong
20
xã hội. Chính từ chỗ quan niệm sai lầm đó đã làm triệt tiêu động lực phát triển
kinh tế, xã hội làm cho người lao động thờ ơ với quyền làm chủ của mình.
Về điều này, Ăngghen đã từng cảnh báo: “Cho rằng luận điểm bình đẳng
= cơng bằng là một nguyên tắc tối cao và một chân lý cuối cùng thì thật là ngu
xuẩn. Bình đẳng chỉ tồn tại trong khn khổ đối lập với bất bình đẳng, cơng
bằng chỉ tồn tại trong khuôn khổ đối lập với bất công bằng” [42, tr. 840].
Như vậy, trước thời kỳ đổi mới chúng ta đã có cách hiểu chưa đầy đủ về
cơng bằng và bình đẳng xã hội, đã đồng nhất cơng bằng với bình đẳng, đó là sự
ngang nhau hồn toàn giữa mọi thành viên trong xã hội về mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội. Và thực chất công bằng ở thời kỳ này là cào bằng, chia đều bình
qn chủ nghĩa, chủ nghĩa bình qn chính là “kẻ tịng phạm” với bất cơng xã hội.
* Trong thời kỳ đổi mới
Đại hội Đảng VI (1986) chúng ta đã mạnh dạn chuyển nền kinh tế từ cơ
chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Việc tiếp nhận nền
KTTT là một sự lựa chọn hoàn toàn đúng đắn của Đảng và nhân dân ta. Trong
những năm qua KTTT đã mang lại sự TTKT cao; đời sống các tầng lớp nhân
dân được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên bên cạnh đó, những vấn đề thuộc mặt trái
của kinh tế thị trường đang len lỏi và tác động mạnh mẽ tới mọi mặt của đời
sống xã hội. Trong các vấn đề xã hội thì vấn đề cơng bằng xã hội gây chú ý
nhất, nó trở thành tâm điểm của mọi vấn đề được bàn bạc, đề cập sôi nổi trên
các diễn đàn từ các góc độ khác nhau.
Ở góc độ triết học cho rằng: CBXH và bình đẳng xã hội (BĐXH) là hai
khái niệm khác nhau. BĐXH là nói tới sự ngang nhau giữa người với người
trong xã hội về một, một số hay mọi phương diện nào đấy về kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội…có nghĩa là chưa thể có được BĐXH hồn tồn khi nền kinh tế
cịn ở mức thấp. Trong khi đó, nói tới CBXH là nói tới sự ngang bằng nhau giữa
người với người không phải về một phương diện nào đấy bất kỳ mà chính là về
một phương diện hoàn toàn xác định: phương diện quan hệ giữa nghĩa vụ và
21