Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

(Luận văn thạc sĩ) vận dụng tư tưởng hồ chí minh về công tác cán bộ trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ ở huyện từ liêm hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1014.4 KB, 112 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐH KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------

VŨ THỊ KIỀU LY

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
CƠNG TÁC CÁN BỘ TRONG VIỆC XÂY
DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ Ở HUYỆN
TỪ LIÊM, HÀ NỘI HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI - 2012

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐH KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------

VŨ THỊ KIỀU LY

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
CƠNG TÁC CÁN BỘ TRONG VIỆC XÂY DỰNG
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ Ở HUYỆN TỪ LIÊM,
HÀ NỘI HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH HỒ CHÍ MINH HỌC


Mã số: 60.31.27

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Doãn Tiến

HÀ NỘI - 2012

2


LỜI CAM ĐOAN!
Tôi xin cam đoan bản luận văn là cơng trình nghiên cứu độc lập của
tơi. Các tài liệu, số liệu được sử dụng trong luận văn hoàn toàn trung thực,
khách quan và có xuất xứ rõ ràng. Nếu sai tơi hồn tồn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày…..tháng…..năm 2012
Học viên: Vũ Thị Kiều Ly

3


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................7
NỘI DUNG ..............................................................................................................17
Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CƠNG TÁC CÁN BỘ ................17
1.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về công tác cán bộ...........................................17
1.1.1 Khái niệm cán bộ .........................................................................................17
1.1.2 Khái niệm công tác cán bộ ...........................................................................20
1.1.3 Về vị trí, vai trị của cơng tác cán bộ ...........................................................23
1.2. Những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ ............25
1.2.1 Về tiêu chuẩn cán bộ. ...................................................................................25

1.2.2 Về đánh giá cán bộ.......................................................................................29
1.2.3 Về đào tạo cán bộ.........................................................................................32
1.2.4 Về sử dụng cán bộ .......................................................................................36
1.2.5 Về quy hoạch cán bộ ....................................................................................41
Chương 2: CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ HUYỆN TỪ LIÊM THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ................................................45
2.1. Thực trạng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ huyện Từ Liêm. Những
thành tựu và hạn chế ...............................................................................................45
2.1.1 Đặc điểm tự nhiên - xã hội và vai trò của đội ngũ cán bộ ...........................45
2.1.2 Tình hình cán bộ và cơng tác cán bộ ...........................................................51
2.1.3 Những thành tựu và hạn chế ........................................................................63
2.2. Nguyên nhân và những vấn đề đặt ra trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ
huyện Từ Liêm thời gian qua. ................................................................................67
2.2.1 Nguyên nhân ................................................................................................67
2.2.2 Những vấn đề đặt ra trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ ...................71
2.2.2.1 Về cơ cấu độ tuổi của cán bộ chưa đảm bảo theo yêu cầu ......................71

4


2.2.2.2 Sự hạn chế, bất cập về trình độ năng lực cơng tác của cán bộ .................73
2.2.2.3 Sự suy thối về phẩm chất, đạo đức, lối sống và phong cách .................74
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN XÂY DỰNG ĐỘI
NGŨ CÁN BỘ HUYỆN TỪ LIÊM DƯỚI ÁNH SÁNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CNH, HĐH .........................................77
3.1 Phương hướng, mục tiêu và quan điểm xây dựng đội ngũ cán bộ của huyện
Từ Liêm dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH ..........................................................................................................................77
3.1.1 Phương hướng xây dựng đội ngũ cán bộ .....................................................79
3.1.2 Mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ ..............................................................77
3.1.3 Quan điểm xây dựng đội ngũ cán bộ ...........................................................79

3.2. Những giải pháp cơ bản xây dựng đội ngũ cán bộ huyện Từ Liêm dưới ánh
sáng tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH .....................82
3.2.1 Đổi mới nhận thức về công tác cán bộ ........................................................82
3.2.2 Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng ............................................84
3.2.3 Xây dựng và hoàn thiện kế hoạch tổng thể về công tác cán bộ huyện Từ
Liêm đến năm 2020. .............................................................................................86
3.2.3.1 Nâng cao chất lượng cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng gắn với đẩy
mạnh việc thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW và NQ TW 4 khóa XI. ..........................86
3.2.3.2 Thực hiện tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ các cấp ....................................89
3.2.3.3 Đổi mới, tạo bước “đột phá” về công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ
công chức trong sạch, vững mạnh. .......................................................................92
KẾT LUẬN ............................................................................................................103
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................106

5


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BCH: Ban chấp hành
BCT: Bộ chính trị
CNH, HĐH: Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
NQ: Nghị quyết
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
UBND: Ủy ban Nhân dân
ĐH, CĐ: Đại học, cao đẳng
CN, CC: Cử nhân, cao cấp
TC, SC: Trung cấp, sơ cấp
Tr.

: Trang


QLNN: Quản lý Nhà nước
NXB: Nhà xuất bản

6


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Cán bộ và công tác cán bộ luôn là nhân tố quyết định việc xây dựng bộ
máy Nhà nước trong sạch, vững mạnh và hoạt động có hiệu quả. V.I.Lênin người lãnh tụ vĩ đại của giai cấp vơ sản đã từng nói: “Trong lịch sử chưa có
một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó khơng đào tạo ra được
hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ
khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”[48, tr.473]. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “công việc thành công
hay thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém”..., “vấn đề cán bộ là một vấn đề
trọng yếu, rất cần kíp”[22, tr.240, 269].
Sinh thời, Người ln quan tâm đến công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ
cán bộ đủ đức, đủ tài, vừa “hồng” vừa “chuyên” đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
của sự nghiệp cách mạng. Những tư tưởng của Người về công tác cán bộ vẫn
còn nguyên giá trị và là những chỉ dẫn đối với công tác xây dựng Đảng hiện
nay.
Thấm nhuần tư tưởng của Người, trong 82 năm qua và đặc biệt là hơn 25
năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta luôn coi cán bộ và công tác cán bộ
“là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của
Đảng, của đất nước và chế độ”[4, tr.113]. Trong nhiều Văn kiện của Đảng
khẳng định công tác cán bộ đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Mới đây
nhất, NQ Hội nghị lần thứ 4 BCH Trung ương Đảng khóa XI “Một số vấn đề
cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã chỉ rõ: “Đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý các cấp đã cơ bản trưởng thành và tiến bộ về nhiều mặt. Đa số cán bộ,

đảng viên có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối
sống, có ý thức phục vụ nhân dân, được nhân dân tin tưởng”[14, tr.21]. Tuy
nhiên, công tác cán bộ của Đảng vẫn còn nhiều khuyết điểm, yếu kém. Đặc

7


biệt là “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng
viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cấp cao suy thối về
chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý
tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh
lợi, tiền tài, kèn cựa, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện...”[14, tr.22]. Nghị
quyết cũng đã chỉ rõ nguyên nhân dẫn đến hạn chế trên. Đó là: “Việc đánh
giá, sử dụng, bố trí cán bộ còn nể nang, cục bộ, chưa chú trọng phát hiện và
có cơ chế thật sự để trọng dụng người có đức, có tài. Khơng kiên quyết thay
thế người vi phạm, uy thế giảm sút, năng lực yếu kém” [14, tr.25]. Vì vậy,
Đảng ta ln chú trọng tới u cầu xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ, toàn
diện, đặc biệt tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ (chủ chốt) các cấp là “công
việc gốc của Đảng”, coi đây là vấn đề mấu chốt, quyết định toàn bộ sự nghiệp
cách mạng và quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Trong những năm gần đây, cán bộ và công tác cán bộ của Đảng bộ
Thành phố Hà Nội nói chung và huyện Từ Liêm nói riêng cũng đã đạt được
những bước chuyển biến tích cực về chất lượng. Cơng tác tổ chức cán bộ
khơng ngừng được đổi mới và kiện tồn; đội ngũ cán bộ trưởng thành rõ rệt,
có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với mục đích lý tưởng của Đảng,
khơng ngừng nâng cao trình độ, ý thức trách nhiệm với công việc, đáp ứng
với yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương. Tuy nhiên, bên cạnh những
mặt đạt được công tác cán bộ của huyện Từ Liêm cũng còn bộc lộ nhiều hạn
chế, yếu kém, dẫn đến sự bất cập, sự hụt hẫng, chắp vá, không đồng bộ trong
đội ngũ cán bộ. Đặc biệt là trong “cơng tác quy hoạch cán bộ cịn lúng túng ở

một số đơn vị cơ sở; cịn có cán bộ, đảng viên, cơng chức chưa phát huy được
vai trị thực hiện nhiệm vụ, năng lực chuyên môn yếu, thiếu ý thức trách
nhiệm...”[16, tr.39], cơ cấu độ tuổi cán bộ chưa đảm bảo theo yêu cầu của
thời kỳ mới. Vì vậy, một số cán bộ các cấp đã gặp khó khăn và vi phạm trong

8


thực thi nhiệm vụ, suy thoái về đạo đức, lối sống, quan liêu,..., làm giảm sút
lòng tin của nhân dân đối với Đảng; đồng thời đặt ra yêu cầu bức thiết phải
đổi mới, nâng cao hiệu quả thực hiện công tác cán bộ ở địa phương.
Trước tình hình đó, địi hỏi các cấp ủy Đảng của huyện Từ Liêm phải
quán triệt sâu sắc hơn tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ
và vận dụng một cách sáng tạo để mang lại hiệu quả thiết thực trong việc xây
dựng, nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất, phong cách công tác tốt cho đội
ngũ cán bộ đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH.
Chính từ những lý do trên, tác giả chọn công tác cán bộ, vấn đề “then
chốt” của “nhiệm vụ tiên chốt”, với quan điểm hướng về “xây dựng đội ngũ
cán bộ” theo tinh thần NQ Hội nghị lần thứ 4 BCH Trung ương Đảng khóa
XI, đồng thời xuất phát từ thực tiễn của quá trình xây dựng và phát triển
huyện Từ Liêm để nghiên cứu đề tài: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
cơng tác cán bộ trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ ở huyện Từ Liêm - Hà
Nội hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên
ngành Hồ Chí Minh học.
2. Tình hình nghiên cứu của luận văn
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ là vấn đề quan
trọng, thu hút sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu. Đã có nhiều cơng
trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ dưới nhiều góc độ
khác nhau như:

2.1. Về sách chuyên khảo, chuyên đề, đề tài khoa học, kỷ yếu hội thảo
khoa học, tiêu biểu là các cơng trình:
- Võ Ngun Giáp (1997) với cơng trình Tư tưởng Hờ Chí Minh và con
đường cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách
gồm ba phần với mười chương. Trong chương V, tác giả bàn đến vấn đề Đảng

9


cách mạng, vấn đề đảng viên, cán bộ, về phẩm chất và tiêu chuẩn của người
cán bộ, về công tác cán bộ.
- Trần Văn Giàu (1993) khi viết bộ sách “Sự phát triển của tư tưởng ở
Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng tháng tám”, Nxb TP. Hồ Chí Minh, đã
dành riêng tập III để viết về sự “thành công của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh”. Tác giả đã đề cập đến một số vấn đề về công tác cán bộ.
- Nguyễn Phú Trọng và Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên) (2000), tác
phẩm: “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong
thời kỳ đẩy mạnh Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, đã phân tích, lý giải, hệ thống hóa các căn cứ khoa học của
việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo. Đặc biệt là đội ngũ cán bộ
lãnh đạo chủ chốt các cấp đáp ứng với yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI.
- Bùi Đình Phong (2006) với cơng trình nghiên cứu: “Tư tưởng Hờ Chí
Minh về cán bộ và công tác cán bộ”, Nxb. Lao Động, Hà Nội cũng đã khẳng
định giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và cơng tác cán bộ trong thời
kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
- Nguyễn Thế Thắng (2010) với cơng trình nghiên cứu: “Vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo,
quản lý ở nước ta hiện nay”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội đã đề cập đến
tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo, quản lý

và vận dụng tư tưởng đó vào xây dựng phong cách làm việc của cán bộ lãnh
đạo, quản lý ở nước ta hiện nay.
- Đặng Xuân Kỳ (1995) với công trình: “Tư tưởng Hờ Chí Minh về cán
bộ”, chun đề khoa học cấp nhà nước KX.02. Tác giả đề cập đến vị trí, vai
trị của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng, vấn đề cán bộ, tư cách của người

10


cán bộ, những tiêu chuẩn để đánh giá cán bộ và những vấn đề trong công tác
cán bộ.
- Kỷ yếu hội thảo khoa học (2010): Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và
công tác cán bộ, do Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh
đã tổ chức gồm hàng trăm bài nghiên cứu, đề cập nhiều khía cạnh trong cơng
tác xây dựng đội ngũ cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Phân viện Thành phố Hồ
Chí Minh (1997) về: “Vận dụng tư tưởng Hờ Chí Minh về vấn đề cán bộ và
công tác cán bộ trong sự nghiệp đổi mới hiện nay”, Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội...
2.2. Những cơng trình nghiên cứu đăng trên các Tạp chí:
- Hồng Chí Bảo (2012): “Thực hiện chính sách cán bộ - giải pháp động
lực góp phần đẩy lùi suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống”, Tạp chí
Tuyên Giáo, số 5, đã khẳng định ý nghĩa sâu xa cũng như trực tiếp của nhóm
giải pháp này là ở chỗ, đây là giải pháp động lực, góp phần ngăn ngừa, phịng
chống tham nhũng, lãng phí, đẩy lùi suy thối tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo,
quản lý các cấp.
- Lại Quốc Khánh (2012): “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và cơng tác
cán bộ”, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 4. Tác giả đã đề cập đến phẩm chất của
người cán bộ trên hai phía: Chính diện và phản diện; đồng thời nêu lên những

nội dung cơ bản về công tác cán bộ như biết cán bộ, dùng cán bộ, cất nhắc
cán bộ, yêu thương cán bộ, phê bình cán bộ theo quan điểm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Tác giả nhấn mạnh tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và cơng tác
cán bộ có sự thống nhất giữa tính khoa học, tính nghệ thuật, và vượt lên trên
tất cả là tính nhân văn sâu sắc.

11


- Tô Huy Rứa (2011): “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán
bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới”, Tạp chí Cộng sản, số 823, tác giả khẳng
định đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán bộ vừa là nhiệm vụ trước mắt và
lâu dài vừa là mục tiêu, yêu cầu tất yếu, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng để
nước ta thực hiện thành công công cuộc đổi mới.
- Nguyễn Thành Phong (2011): “Đổi mới công tác cán bộ - Bước đột phá
mới trong nhiệm kỳ 2010 - 2015 của Đảng bộ tỉnh Bến Tre”, Tạp chí Cộng
sản, số 823 đã viết: Việc đổi mới công tác cán bộ phải đặt trong tổng thể của
công tác xây dựng Đảng, đồng bộ với đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh”. Coi đây là khâu then chốt, đòi hỏi các cấp ủy Đảng và tồn bộ hệ
thống chính trị trong tỉnh phải thống nhất quan điểm, quyết tâm, tạo ra những
chuyển biến mạnh mẽ, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn
mới.
- Đặng Thị Ngọc Thịnh (2012): “Vĩnh Long phát huy, nâng cao vai trị
cán bộ, cơng chức nữ trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí
Cộng sản, tháng 3/2012.
- Trần Đình Thắng (2012): “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức Nhà nước theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI”,
Tạp chí Lịch sử Đảng, số 3 (256), đã tập trung vào một số vấn đề như: Tiếp
tục bổ sung hoàn thiện thể chế, tăng cường cải cách chế độ công vụ, quản lý

và sử dụng đội ngũ cán bộ theo hướng đồng bộ; có trọng tâm, trọng điểm; đổi
mới công tác đào tạo, bồi dưỡng theo hướng cơ bản, nâng cao phẩm chất năng
lực cho cán bộ; đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng trong đội
ngũ cán bộ....
2.3. Một số luận văn:

12


- Võ Châu Thịnh (2003): “Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ với
vấn đề đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH, HĐH ở Việt
Nam”, Luận văn Thạc sĩ Triết học, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân
văn. Tác giả luận văn đã phân tích và khái qt hóa tư tưởng Hồ Chí Minh với
những luận điểm mang tính hệ thống để vận dụng vào việc đào tạo và sử dụng
nguồn nhân lực, cán bộ trong sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta.
- Lê Thị Lan Hương (2006): “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
vào việc đổi mới phương thức lãnh đạo và phong cách làm việc của đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Hưng Yên”, Luận văn thạc sĩ Khoa học Chính
trị, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Nguyễn Thị Lương Uyên (2007): “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ với
việc nâng cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở tỉnh
Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Khoa học Chính trị,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Trần Thị Ngọc (2012): “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực hiện
công tác đào tạo cán bộ, công chức cấp xã ở tỉnh Nam Định”, Luận văn thạc
sĩ Hồ Chí Minh học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Tác giả luận văn
đã hệ thống hóa và luận giải những quan điểm cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về đào tạo cán bộ; vận dụng quan điểm đó vào thực hiện cơng tác đào
tạo cán bộ, công chức cấp xã ở tỉnh Nam Định...
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu trên đã phân tích sâu sắc tư tưởng

Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ, luận giải những vấn đề lý luận
và thực tiễn đặt ra ở nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, việc nghiên cứu
và vận dụng quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ vào địa
bàn huyện Từ Liêm thì vẫn chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách có hệ
thống. Song, kết quả nghiên cứu từ các cơng trình nghiên cứu khoa học trên là
những tiền đề quan trọng để tác giả luận văn tiếp cận, tiếp tục nghiên cứu ở

13


góc độ chuyên sâu, sát hợp với đề tài luận văn. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa có
chọn lọc các kết quả nghiên cứu đã được công bố này, tác giả hy vọng góp
phần khẳng định vai trị và giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác cán
bộ đối với thực tiễn nói chung và xây dựng đội ngũ cán bộ ở huyện Từ Liêm
nói riêng để tìm ra những giải pháp cụ thể, mang tính hệ thống nhằm xây
dựng đội ngũ cán bộ các cấp ở Huyện Từ Liêm đáp ứng với yêu cầu của thời
kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.
* Mục đích
Nghiên cứu, làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về
cơng tác cán bộ và thực trạng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ ở huyện Từ
Liêm, từ đó, tác giả đề xuất một số giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ huyện
Từ Liêm đáp ứng với yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
* Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu, làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh
về cơng tác cán bộ.
- Phân tích tình hình, đánh giá một cách khách quan thực trạng và những
vấn đề đặt ra trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp ở huyện Từ
Liêm - Hà Nội.

- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ huyện
Từ Liêm đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH theo tư tưởng Hồ
Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn.
4.1 Đối tượng nghiên cứu
- Những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ
- Thực trạng cán bộ và công tác cán bộ của huyện Từ Liêm.

14


4.2 Phạm vi nghiên cứu
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, luận văn tập trung nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ. Nội dung những luận điểm cơ bản
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác cán bộ sẽ làm cơ sở lý luận cho việc
đánh giá đúng thực trạng và đề ra những giải pháp cơ bản nhằm xây dựng đội
ngũ cán bộ huyện Từ Liêm đáp ứng với yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở lý luận
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
cán bộ và công tác cán bộ, đồng thời kế thừa có chọn lọc một số cơng trình
nghiên cứu liên quan.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương
pháp lịch sử, lơgíc; phương pháp thu thập, phân tích tài liệu; phương pháp
phân tích, tổng hợp, thống kê số liệu nghiên cứu; phương pháp nghiên cứu tác
phẩm, văn bản...
6. Đóng góp của luận văn

- Góp phần hệ thống hóa những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí
Minh về cơng tác cán bộ để làm cơ sở lý luận cho việc vận dụng vào thực tiễn
ở huyện Từ Liêm.
- Góp phần phân tích, đánh giá khách quan thực trạng công tác xây dựng
đội ngũ cán bộ huyện Từ Liêm đang đặt ra những vấn đề cần phải giải quyết
như về cơ cấu độ tuổi, trình độ, năng lực thực hiện công việc và phẩm chất
đạo đức, lối sống cũng như phong cách làm việc của cán bộ.

15


- Từ đó, luận văn đề xuất phương hướng và một số giải pháp cơ bản để
nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ huyện Từ Liêm đến năm 2020 trong sạch,
vững mạnh, toàn diện, đồng bộ đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu trong nghiên cứu và công tác xây
dựng đội ngũ cán bộ của huyện Từ Liêm (Hà Nội) sau này.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 6 tiết:
Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ
Chương 2: Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ ở huyện Từ Liêm - Thực
trạng và những vấn đề đặt ra
Chương 3: Phương hướng và những giải pháp cơ bản xây dụng đội ngũ
cán bộ huyện Từ Liêm dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH

16



NỘI DUNG
Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CƠNG TÁC CÁN BỘ
1.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về công tác cán bộ
1.1.1 Khái niệm cán bộ
Trong lịch sử dân tộc, vấn đề “cán bộ” - với tư cách là “hiền tài”, người
lãnh đạo, quản lý, điều hành công việc của đất nước - đã được tiếp cận và đặt
ra. Trong các triều đại phong kiến hiền tài được xem là “ngun khí quốc
gia”, có vai trị quyết định đến sự tồn vong, thịnh suy của đất nước.
Đảng ta, ngay từ khi thành lập cho đến nay luôn coi trọng vấn đề cán bộ
và công tác cán bộ: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách
mạng, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Phải thường xuyên
chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đổi mới công tác cán bộ”[12, tr.695]. Để
hiểu về công tác cán bộ rõ hơn, trước tiên phải hiểu thế nào là cán bộ.
Khái niệm cán bộ có nhiều cách hiểu khác nhau:
Thuật ngữ “cán bộ” được sử dụng từ sau thắng lợi của Cách mạng tháng
Tám, khi chính quyền đã thuộc về tay nhân dân. Đây là thời kỳ Đảng ta trở
thành Đảng cầm quyền, lãnh đạo xã hội, lãnh đạo Nhà nước tiếp tục sự nghiệp
cách mạng vì độc lập, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, nhân dân ta bắt tay vào xây dựng chế độ mới, xây dựng Nhà nước thực
sự của dân, do dân, vì dân. Trong hồn cảnh đó, vấn đề cán bộ và cơng tác
cán bộ, theo nhu cầu của thực tiễn cách mạng và đỏi hỏi của quần chúng nhân
dân, được đặt ra như một trong những vấn đề chủ yếu nhất, là “cái gốc” của
công việc, là “công việc gốc” của Đảng.
Theo Từ điển Tiếng Việt: Cán bộ được định nghĩa là: 1. Người làm cơng
tác có nghiệp vụ chun mơn trong các cơ quan nhà nước (như cán bộ nhà
nước; cán bộ khoa học; cán bộ chính trị). 2. Người làm cơng tác có chức vụ

17



trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người thường khơng có chức
vụ (như đồn kết giữa cán bộ và chiến sĩ; họp cán bộ và công nhân nhà máy;
làm cán bộ Đoàn thanh niên) [32, tr.16].
Theo Từ điển Hành chính: “Cán bộ là người có đủ các điều kiện được
tuyển dụng vào làm việc ở các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế do Nhà nước thành lập, tổ chức lực lượng vũ
trang; trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, có trình độ
chuyên môn từ trung cấp trở lên. Từ cán bộ được sử dụng rộng rãi trong các
nước xã hội chủ nghĩa trước đây (cán bộ, công nhân). Cán bộ, công chức khi
thi hành nhiệm vụ, công vụ được pháp lệnh và nhân dân bảo vệ”[17, tr.46].
Theo Pháp lệnh cán bộ, công chức (1998): Tại Điều 2: Cán bộ, công
chức là công bộc của nhân dân, phải không ngừng rèn luyện phẩm chất đạo
đức, học tập nâng cao trình độ và năng lực công tác để thực hiện tốt nhiệm vụ,
công vụ được giao.
Theo Luật cán bộ, công chức (Tại kỳ họp thứ 4, ngày 13/11/2008, Quốc
hội khố XII đã thơng qua): Tại Điều 4 quy định: 1. Cán bộ là công dân Việt
Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm
kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội ở trung ương, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung
là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là
cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; 2. Công
chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ,
chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị
thuộc Quân đội nhân dân, mà không phải là sĩ quan, qn nhân chun
nghiệp, cơng nhân quốc phịng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân
mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo,

18



quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công
lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; 3. Cán bộ xã,
phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) gọi chung là công dân Việt
Nam, được bầu cử giữ chức vụ lãnh đạo theo nhiệm kỳ trong Thường trực
Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng uỷ, người
đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam
được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Uỷ ban
nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Cán bộ là những người làm
trong các cơ quan, đồn thể, cơng sở, lực lượng vũ trang. Họ có thể là những
đảng viên cộng sản hoặc chưa phải đảng viên. Họ có thể giữ chức vụ chỉ huy,
phụ trách, quản lý lãnh đạo hoặc làm công tác nghiệp vụ chun mơn đơn
thuần. Tóm lại, họ là những người hoạt động trong thời kỳ cách mạng, kháng
chiến, thốt ly, có hưởng lương để phân biệt với nhân dân, là đầy tớ của nhân
dân. Tuy nhiên, trong các bài viết, tác phẩm, Người nhấn mạnh nhiều đến cán
bộ, đảng viên có chức, có quyền, những người chịu trách nhiệm trực tiếp,
nặng nề trước nhân dân và toàn dân tộc. Người xác định: “Cán bộ là những
người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu
rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho
Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng. Vì vậy, cán bộ là cái gốc của
mọi công việc”[22, tr.269]; “Cán bộ là tiền vốn của Đồn thể. Có vốn mới
làm ra lãi. Bất cứ chính sách, cơng tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành cơng, tức
là có lãi. Khơng có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn”[23, tr.46].
Như vậy, từ các quan niệm về cán bộ, cơng chức và theo quan điểm của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, có thể hiểu khái niệm cán bộ, cơng chức nhà nước như
sau: Cán bộ Nhà nước là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ

19



nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan nhà nước ở các
cấp, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Công chức nhà
nước là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ,
chức danh trong cơ quan nhà nước ở các cấp, được phân loại theo trình độ
đào tạo, ngành chuyên môn, vị trí công tác trong các cơ quan Nhà nước,
trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
1.1.2 Khái niệm cơng tác cán bộ
Hồ Chí Minh không chỉ là “nhà tư tưởng lỗi lạc”, “nhà văn hóa lớn”, mà
cịn là nhà tổ chức vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Cuộc đời và sự nghiệp của
Người đã để lại cho Đảng và cách mạng nước ta một hệ thống lý luận phong
phú và sâu sắc. Trong đó, tư tưởng về cơng tác cán bộ là nội dung rất quan
trọng, là xuất phát điểm và là nhân tố cơ bản tạo nên mọi thắng lợi của cách
mạng nước ta. Tư tưởng đó được hình thành trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng nước ta.
V.I.Lênin từng yêu cầu Đảng phải xây dựng được cho mình một đội ngũ
những người “tâm huyết”, lấy đấu tranh cách mạng làm “chuyên nghiệp”. Đặc
biệt, trong giai đoạn cầm quyền, Lênin còn thu hút vào hàng ngũ cách mạng
những chuyên gia tư sản, những người có trình độ, kinh nghiệm tổ chức, quản
lý. Hơn nữa, ơng cịn tun bố: “Sẵn sàng đổi một tá những đảng viên tồi để
lấy một chuyên gia tư sản giỏi”, đáp ứng yêu cầu của cách mạng trong điều
kiện thực hiện “Chính sách kinh tế mới”(NEP).
Đối với Đảng Cộng sản, theo V.I.Lênin, phải thể hiện sự lãnh đạo của
mình bằng đường lối chính trị, bộ máy tổ chức và bố trí đội ngũ cán bộ. Sự
lãnh đạo đó thơng qua những con người cụ thể. Từ đó, Người địi hỏi Đảng
phải nghiêm túc tiến hành cơng tác xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng nhằm
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng; “phải đào tạo những người sẵn
sàng hiến cho cách mạng, không phải chỉ những buổi tối rỗi việc của họ, mà

20



tất cả cuộc đời của họ”; “phải xây dựng một tổ chức khá to lớn để có thể thực
hiện được trong đó một sự phân cơng chặt chẽ giữa nhiều hoạt động khác
nhau”[47, tr.474]. Vì vậy, Đảng phải “nghiên cứu con người, tìm ra những
cán bộ có bản lĩnh. Hiện nay, đó là then chốt; nếu khơng thì tất cả mọi mệmh
lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn”[50, tr.44].
Trong sự nghiệp cách mạng của Đảng có nhiều nhiệm vụ, nhiều “cơng
việc”, trong đó, cán bộ là “cái gốc”. Nếu có cán bộ tốt, cán bộ ngang tầm thì
việc xây dựng đường lối sẽ đúng đắn và là điều kiện tiên quyết để đưa sự
nghiệp cách mạng đi đến thắng lợi.
Kế thừa những quan điểm và kinh nghiệm trong công tác cán bộ của chủ
nghĩa Mác - Lênin và đòi hỏi của sự nghiệp cách mạng ở nước ta, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới công tác cán bộ của Đảng. Trong Phụ lục
“Gửi thanh niên An Nam” của cuốn “Bản án chế độ thực dân Pháp”, Nguyễn
ái Quốc cho rằng: “ở Đông Dương chúng ta có đủ tất cả những cái mà một
dân tộc có thể mong muốn… Nhưng chúng ta thiếu tổ chức và thiếu người tổ
chức”[20, tr.132]. Người đặc biệt yêu cầu Quốc tế Cộng sản phải có trách
nhiệm giúp đỡ các nước thuộc địa trong việc đào tạo, huấn luyện và tổ chức
lực lượng cách mạng.
Nói đến tổ chức là nói đến con người, muốn có tổ chức trước hết phải có
con người tổ chức. Trong những năm hai mươi của thế kỷ XX, các phương
tiện tuyên truyền mang đậm dấu ấn Nguyễn Ái Quốc như báo “Le Paria”
(1922), “Bản án chế độ thực dân Pháp” (1925), sách “Đường cách mệnh”
(1927)… đã đề cập ở những mức độ khác nhau về vị trí của cơng tác cán bộ.
Từ những năm hai mươi của thế kỷ XX, Người đã trực tiếp tổ chức đào tạo,
huấn luyện đội ngũ cán bộ làm hạt giống đỏ cho cách mạng Việt Nam.
Đặc biệt trong quá trình cùng Đảng ta lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải
phóng dân tộc, kháng chiến bảo vệ Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội,


21


công tác cán bộ được Người đề cập thường xuyên và nhất quán, từ “Sửa đổi
lối làm việc”(1947) đến “Thường thức chính trị”(1953) và cuối cùng là bản
“Di chúc” (1969).
Vì vậy, khi nói đến cơng tác cán bộ khơng thể tách rời trách nhiệm của tổ
chức và cá nhân người cán bộ. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ là sự đòi hỏi
rèn luyện phấn đấu của từng cán bộ với tư cách là “chủ thể”. Nhưng cán bộ là
con người của tổ chức, luôn gắn với tổ chức. Chất lượng của đội ngũ cán bộ
còn là kết quả tổng hợp của tất cả các khâu lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng
(huấn luyện), bố trí, sử dụng, đánh giá, cất nhắc, kiểm tra, phê bình… Đảng
khơng làm tốt cơng tác cán bộ thì khơng đủ sức và khơng xứng đáng là người
lãnh đạo cách mạng.
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta khơng tìm thấy khái niệm
cơng tác cán bộ hoàn chỉnh. Nhưng Người đã cùng với Đảng hoạch định
đường lối, chính sách vừa có tính ngun tắc, vừa có tính linh hoạt và đã trực
tiếp xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng. Người coi công tác cán bộ là hoạt
động của toàn Đảng, các cơ quan nhà nước và đoàn thể quần chúng mà trước
hết là các cấp ủy Đảng; nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức - tài, đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng, xứng đáng là lãnh đạo, là người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân. Đó là hệ thống những khâu, mắc xích có quan hệ
chặt chẽ với nhau từ lựa chọn, huấn luyện, bố trí, sử dụng, cất nhắc… đến các
chính sách cán bộ.
Hiện nay, hơn lúc nào hết, chúng ta cần nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn ý
nghĩa, tầm quan trọng và tính chất khó khăn, phức tạp của vấn đề cán bộ và
cơng tác cán bộ, đòi hỏi chúng ta phải triển khai chiến lược cán bộ đạt hiệu
quả cao, đáp ứng với sự phát triển của sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập
quốc tế.


22


1.1.3 Về vị trí, vai trị của cơng tác cán bộ
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nhận thức được sâu sắc, vị trí, vai trị của
cơng tác cán bộ trong sự nghiệp cách mạng. Người đã tỏ rõ quan điểm của
mình trong thư gửi các bạn cùng hoạt động ở Pháp: “Đối với tôi, câu trả lời đã
rõ ràng; trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ,
huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”[19, tr.192]. Vì vậy,
để có cán bộ đủ đức, đủ tài, đáp ứng địi hỏi của mỗi giai đoạn cách mạng,
cơng tác cán bộ có vị trí quyết định. Hồ Chí Minh là người nêu gương trong
việc hoạch định đường lối, chính sách vừa nguyên tắc vừa linh hoạt trong xây
dựng đội ngũ cán bộ. Người coi công tác cán bộ cũng như việc đào tạo nhân
tài là trọng yếu và rất cần thiết. Vai trị của tổ chức và cơng tác cán bộ rất
quan trọng. Đội ngũ cán bộ và tổ chức có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Cán
bộ và đội ngũ cán bộ là tế bào tạo nên tổ chức. Cán bộ tốt sẽ làm cho tổ chức
trong sạch, vững mạnh. Chất lượng cán bộ phụ thuộc vào kết quả tổng hợp
các khâu của công tác cán bộ và sự phấn đấu nỗ lực của từng cán bộ. Muốn có
đội ngũ cán bộ tốt, cán bộ giỏi, thì phải có tổ chức vững mạnh. Muốn “tạo ra
trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong
đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”, thì phải chăm lo tiến hành cơng
tác cán bộ.
Có tổ chức vững mạnh, làm tốt công tác cán bộ sẽ hạn chế và sửa chữa
những khuyết điểm, giúp đỡ phát huy những ưu điểm của cán bộ, nhân sức
mạnh của cán bộ lên. Mặt khác, “lãnh đạo khéo, tài nhỏ có thể hóa ra tài to.
Lãnh đạo khơng khéo, tài to cũng hóa thành tài nhỏ”[22, tr.280]. Như vậy,
nếu xây dựng đội ngũ “cán bộ tốt”, “cán bộ giỏi” thì chính họ sẽ là hạt nhân
xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ mới, những người thật sự có đức, có
tài, tạo niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và chế độ.
Ngược lại, nếu cơng tác cán bộ trì trệ, tổ chức lủng củng thì cán bộ cũng


23


khơng có điều kiện phát triển, dễ làm cho cán bộ hoang mang, khơng phát huy
hết tác dụng.
Muốn có cán bộ tốt thì phải có tổ chức vững mạnh. Điều đó đúng với
tồn Đảng, từng tổ chức đảng cho đến từng chi bộ, cũng như các cơ quan Nhà
nước. Nếu tổ chức trì trệ, bảo thủ thì cán bộ ở đó khơng thể có sáng tạo, năng
động. Ở đâu mà nội bộ khơng đồn kết, chia bè kéo cánh thì hoạt động của
cán bộ ở đấy là lo củng cố địa vị của phe cánh mình chứ khơng phải lo cho
công việc chung. Cán bộ mà năng lực kém và động cơ có tính chất cục bộ, thì
thường hay kéo bè kéo cánh, bà con bạn hữu mình khơng tài năng gì cũng kéo
vào chức này, chức nọ; người có đức, có tài, nhưng ý khơng vừa lịng mình
thì đẩy ra ngồi, nặng lịng tư ân, tư huệ hoặc tư thù tư ốn. Mình có quyền
dùng người thì vì bà con bầu bạn, mà kéo vào chức nọ chức kia … vì sợ mất
địa vị mà dìm những kẻ có tài năng hơn mình. Điều đó khơng chỉ làm mất đi
sức mạnh của tổ chức mà còn làm cho vai trị lãnh đạo bị tổn hại nghiêm
trọng.
Hồ Chí Minh thường nói: Cán bộ là gốc của mọi cơng việc, huấn luyện
cán bộ là công việc gốc của Đảng. Chất lượng cán bộ tùy thuộc vào công tác
cán bộ. Nếu như tất cả các khâu: phát hiện, lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng, cất
nhắc, đề bạt, bố trí, kiểm tra, theo dõi, giúp đỡ… đều làm tốt thì nhất định ta
sẽ có đội ngũ cán bộ chất lượng tốt. Chỉ cần một trong những khâu đó bị xem
nhẹ, làm khơng đến nơi đến chốn sẽ khiến cho chất lượng đội ngũ cán bộ kém
đi rất nhiều.
Nói tóm lại, cơng tác cán bộ giữ vai trị trọng yếu trong tồn bộ hoạt
động của Đảng. Thực hiện tốt công tác cán bộ là sự chủ động tạo ra một đội
ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của Đảng trong từng thời kỳ cách
mạng. Đội ngũ cán bộ chỉ có thể xứng đáng, đảm đương được vai trò của


24


mình khi thật trong sạch, vững mạnh; tồn diện và đồng bộ. Điều này phụ
thuộc rất lớn ở chất lượng cơng tác cán bộ.
Cơng tác cán bộ có đúng đắn và hiệu quả thì mới hình thành được đội
ngũ cán bộ giỏi, cán bộ tốt, nhiệm vụ cách mạng được hồn thành. Vì vậy,
chăm lo cơng tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ trong sạch, vững mạnh,
toàn diện và đồng bộ là vấn đề mấu chốt trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng,
là “công việc gốc của Đảng”.
1.2. Những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ
1.2.1 Về tiêu chuẩn cán bộ.
Tiêu chuẩn cán bộ là hệ thống những căn cứ, tiêu chí, chuẩn mực để
đánh giá, lựa chọn, xây dựng quy hoạch và bố trí, sử dụng, đề bạt cất nhắc cán
bộ. Tiêu chuẩn là cơ sở để tổ chức xem xét, đồng thời cũng là cơ sở để từng
người cán bộ phấn đấu, tự rèn luyện, hồn thiện mình. Mỗi thời kỳ cách
mạng, có nhiệm vụ chính trị khác nhau địi hỏi phải có đội ngũ cán bộ đáp
ứng u cầu cách mạng của thời ấy.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi đánh giá con người cần phải
dựa vào hai tiêu chuẩn cơ bản, đó là đạo đức và tài năng hay phẩm chất và
năng lực, trong đó đạo đức được coi là cái gốc.
- Tiêu chuẩn về đạo đức của người cán bộ
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra những phẩm chất đạo đức cần có của
người cán bộ cần:
Cán bộ là người phải có ý thức dân tộc, suốt đời nguyện hy sinh phấn
đấu cho sự nghiệp giải phóng quê hương, đất nước, phải biết đặt lợi ích của
Tổ quốc, của nhân dân lên trên lợi ích của cá nhân, phải “hết lịng hết sức
phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong
mọi việc” [26, tr.285].


25


×