Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

(Luận văn thạc sĩ) quan hệ an ninh, chính trị nhật trung từ sau chiến tranh lạnh thực trạng, vấn đề và xu hướng tiến triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 92 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------------------

TRẦN HOÀNG LONG

QUAN HỆ AN NINH, CHÍNH TRỊ NHẬT – TRUNG TỪ SAU CHIẾN
TRANH LẠNH: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ VÀ XU HƯỚNG TIẾN TRIỂN

Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Châu Á học
Mã số: 603150

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lưu Ngọc Trịnh

Hà nội tháng 9 -2010


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT............................................................................ 3
LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................... 5
CHƢƠNG 1: QUAN HỆ AN NINH, CHÍNH TRỊ NHẬT - TRUNG
TỪ SAU CHIẾN TRANH LẠNH .................................................................. 10
1.1. Bối cảnh quốc tế và nhu cầu tăng cường mối quan hệ giữa Nhật Bản
và Trung Quốc sau Chiến tranh Lạnh ........................................................... 10
1.2. Giai đoạn tăng cường mối quan hệ Nhật- Trung ................................... 12
1.3. Giai đoạn “ lạnh giá ” trong quan hệ Nhật - Trung................................ 21
1.4. Giai đoạn “tan băng” trong quan hệ Nhật- Trung .................................. 23
Tiểu kết chƣơng 1 ............................................................................................ 32
CHƢƠNG 2: NHỮNG THÁCH THỨC TRONG QUAN HỆ AN NINH


CHÍNH TRỊ NHẬT - TRUNG ....................................................................... 33
2.1. Vấn đề an ninh ....................................................................................... 33
2. 2. Cạnh tranh vị thế chính trị..................................................................... 39
2.3. Tranh chấp chủ quyền biển và hải đảo................................................... 41
2.3.1.Tranh chấp quần đảo Senkaku (Điếu Ngư)...................................... 41
2.3.2. Tranh cãi phân chia đường giới tuyến ở khu vực biển Hoa Đông .. 49
2.3.3. Tranh cãi vấn đề đảo Okinotori....................................................... 50
2.4. Vấn đề Đài Loan .................................................................................... 55
2.5. Vấn đề hạt nhân ở bán đảo Triều Tiên ................................................... 59
2.6. Những vấn đề lịch sử ............................................................................. 59
2.7. Cạnh tranh ảnh hưởng kinh tế ................................................................ 64
2.7.1.Phản ứng của Nhật Bản trước FTA giữa Trung Quốc và ASEAN .. 65
2.7.2. Chiến lược FTA của Nhật Bản........................................................ 67

1


2.7.2.1. Thay đổi chiến lược thông thương ........................................... 67
2.7.2.2. Hướng tới một FTA "Đại Châu Á" .......................................... 67
Tiểu kết chƣơng 2 ............................................................................................ 70
CHƢƠNG 3: XU HƢỚNG TIẾN TRIỂN TRONG QUAN HỆ NHẬT TRUNG VÀ MỘT SỐ HÀM Ý CHO VIỆT NAM ...................................... 72
3.1. Xu hướng tiến triển trong quan hệ an ninh, chính trị Nhật - Trung
thời gian tới ................................................................................................... 72
3.2. Một số hàm ý cho Việt Nam .................................................................. 77
Tiểu kết chƣơng 3 ............................................................................................ 80
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 81
Tµi liƯu tham kh¶o................................................................................ 84

2



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ACFTA

AFTA

ASEAN – China

Hiệp định tự do thương

Free Trade Agreement

mại ASEAN – Trung Quốc

ASEAN Free Trade Area

Khu vực thương
mại tự do ASEAN

ASEAN Pacific

Diễn đàn hợp tác kinh tế

Economic Cooperation

Châu Á – Thái Bình Dương

ARF

ASEAN Regional Forum


Diễn đàn khu vực Đông Nam Á

ASEAN

The Association of

Hiệp hội các nước

Southeast Asean Nations

Đông Nam Á

Asian – Europe Meeting

Diễn đàn hợp tác Á – Âu

APEC

ASEM

Cộng hòa Dân chủ Nhân dân

CHDCND
CLCS

DPJ

Commission on the Limits


Ủy ban Ranh giới Thềm

of the Continental Shelf

lục địa Liên Hiệp Quốc

Democratic Party of Japan

Đảng Dân chủ Nhật Bản
Tuyên bố về ứng xử

DOC

của các bên ở Biển Đông
EEZ

Exclusive economic zone

Vùng đặc quyền kinh tế

EU

European Union

Liên minh Châu Âu

FDI

Foreign Direct Investment


Đầu tư trực tiếp nước ngoài

FTA

Free Trade Agreement

Hiệp định thương mại tự do

GDP

Gross Domestic Product

Tổng sản phẩm quốc nội

IMF

International Monetary Fund

Quỹ tiền tệ quốc tế

3


JACEP

Japan – ASEAN

Hiệp định đối tác kinh tế

Comprehensive Economic


toàn diện Nhật Bản – ASEAN

Partnership
LDP

Liberal Democratic Pary

Đảng Tự do Dân chủ Nhật Bản

ODA

Offical Development

Hỗ trợ phát triển chính thức

Assistance
TBCN

Xã hội Tư bản Chủ nghĩa

Capitalist society

UNCLOS United Nations Convention

Công ước Liên Hiệp

on the Law of the Sea

Quốc về Luật biển


USD

US Dollar

Đô la Mỹ

WB

World Bank

Ngân hàng Thế giới

WTO

World Trade Organization

Tổ chức Thương mại thế giới

4


LỜI NÓI ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài.
Trung Quốc và Nhật Bản là hai quốc gia có quan hệ lịch sử lâu đời trên
nhiều lĩnh vực nhưng cũng trải qua nhiều bước thăng trầm. Mối quan hệ giữa
hai quốc gia láng giềng này có tầm quan trọng to lớn đối với khu vực, tác
động đến việc điều chỉnh chính sách đối ngoại của các quốc gia liên quan, đặc
biệt là các nước ở khu vực Đông Bắc Á và Đông Nam Á, nơi mà cả Trung
Quốc và Nhật Bản đang ra sức tăng cường ảnh hưởng. Việt Nam là quốc gia

nằm trong khu vực Đông Á cùng với Trung Quốc và Nhật Bản. Thực tế, lịch
sử phát triển của Việt Nam chịu ảnh hưởng rất lớn từ hai quốc gia này, và
hiện nay, Trung Quốc, Nhật Bản đều là những đối tác hàng đầu của Việt
Nam. Chính vì vậy, Việt Nam càng chịu ảnh hưởng trong sự tương quan mối
quan hệ Nhật - Trung. Cặp quan hệ này luôn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất ổn định
“nóng - lạnh bất thường”. Phân tích cặp quan hệ này, từ đó có những đánh
giá, để tìm ra những hàm ý đóng góp cho chính sách đối ngoại của Việt Nam.
Xuất phát từ ý nghĩa đó tơi quyết định chọn đề tài: Quan hệ an ninh, chính
trị Nhật – Trung từ sau Chiến tranh Lạnh: thực trạng, vấn đề và xu hướng
tiến triển làm luận văn Thạc sỹ cho chuyên ngành Châu Á học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quan hệ Nhật – Trung nói chung, quan hệ an ninh, chính trị giữa hai
quốc gia này nói riêng khơng phải là chủ đề mới, nhưng đây là vấn đề lớn,
phức tạp và hết sức quan trọng nên đã được không ít cơng trình, bài viết ở cả
trong nước và ngồi nước đề cập.
Ở trong nước, về chủ đề trên, đáng chú ý, có cơng trình: Quan hệ Nhật
Bản – Trung Quốc từ sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II tới nay, tác giả
Nguyễn Thanh Bình, Nhà xuất bản KHXH năm 2004. Cơng trình này tập

5


trung phân tích tương đối tồn diện mối quan hệ Nhật Bản- Trung Quốc trên
nhiều lĩnh vực kinh tế, an ninh, chính trị từ năm 1945- 2002 (q trình đàm
phán, tiến trình bình thường hóa quan hệ Nhật - Trung và quan hệ kinh tế giữa
hai nước từ khi bình thường hóa quan hệ từ năm 1972 đến cuối những năm
1990). Phần quan hệ an ninh, chính trị Nhật – Trung, chủ yếu đề cập trong
giai đoạn Chiến tranh Lạnh, từ sau Chiến tranh Lạnh tới nay phân tích cịn sơ
lược. Ngồi ra, cịn có cơng trình: Quan hệ Trung – ASEAN – Nhật Bản trong
bối cảnh mới và tác động của nó tới Việt Nam, do PGS. TS Vũ Văn Hà chủ

biên, Nhà xuất bản KHXH xuất bản năm 2007. Đây là cơng trình phân tích
trong quan hệ song phương và đa phương giữa ba thực thể Trung Quốc –
ASEAN – Nhật Bản. Ở đây, quan hệ chính trị Nhật – Trung được đề cập
trong tương quan phân tích với các cặp quan hệ khác. Phần quan hệ chính trị
tuy đã được đề cập nhưng chủ yếu tập trung về khía cạnh an ninh.
Ở nước ngồi, có thể kể đến cơng trình của Kazuko Mori: Quan hệ Nhật
– Trung từ sau Chiến tranh Thế giới thứ II tới nay, được Nhà xuất bản
Iwanami công bố năm 2006. Đây là tác phẩm chủ yếu đề cập tới bối cảnh và
nhu cầu bình thường hóa quan hệ hai nước và quan hệ an ninh, chính trị trong
giai đoạn Chiến tranh Lạnh. Quan hệ Nhật Bản – Trung Quốc, vượt qua hiểu
nhầm của quá khứ, hướng tới tương lai, của Okaabe, do Nhà xuất bản
Iwanami công bố năm 2006. Trong tác phẩm này, tác giả đã tập trung vào
phân tích quan hệ an ninh, chính trị giữa hai quốc gia và đánh giá tác động
của nó tới chính trị Nhật Bản.
Tóm lại, tuy đã có những cơng trình nghiên cứu đề cập đến quan hệ an
ninh, chính trị Nhật – Trung, song về cơ bản các cơng trình này vẫn tập trung
vào thời kỳ Chiến tranh Lạnh; chưa tập trung phân tích sâu giai đoạn sau
Chiến tranh Lạnh. Do đó, nhiệm vụ của Luận văn này là tập trung nghiên cứu
và đánh giá một cách có hệ thống quan hệ an ninh, chính trị Nhật – Trung từ

6


sau Chiến tranh Lạnh tới nay, đặc biệt khác với các cơng trình nghiên cứu
khác, Luận văn đi sâu vào phân tích những thách thức gây trở ngại và dẫn đến
những căng thẳng liên quan tới an ninh, chính trị trong cặp quan hệ này, qua
đó rút ra những hàm ý cho Việt Nam có thể tham khảo, vận dụng vào trong
đường lối đối ngoại.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn có những mục đích nghiên cứu chủ yếu sau: Trên cơ sở phân

tích mối quan hệ an ninh, chính trị Nhật – Trung trong giai đoạn từ sau Chiến
tranh Lạnh tới nay, đề xuất một số giải pháp giúp Việt Nam có thể ứng xử tốt
hơn trong quan hệ với hai nước lớn ở khu vực này, nhằm tạo lập và duy trì
được mối quan hệ láng giềng thân thiện, tạo môi trường đối ngoại thuận lợi
phục vụ cho sự phát triển bền vững của đất nước.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn đi tìm hiểu và phân tích mối quan hệ an ninh, chính trị của hai
nước Nhật Bản và Trung Quốc từ sau Chiến tranh Lạnh, phân tích thực trạng
và vấn đề, xu hướng tiến triển của mối quan hệ này. Tìm ra những cơ hội cho
Việt Nam có thể tận dụng trong tương tác của mối quan hệ này.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là phân tích mối quan hệ giữa hai nước
Nhật Bản và Trung Quốc trong thời gian từ sau Chiến tranh Lạnh tới nay chủ
yếu trong các lĩnh vực an ninh và chính trị. Trong q trình nghiên cứu có sự
so sánh, phân tích sự tác động qua lại giữa các mặt trong quan hệ giữa hai
nước. Đồng thời, luận văn cũng đi sâu phân tích những vấn đề gây trở ngại
cho mối quan hệ này và triển vọng của nó, và những cơ hội mà Việt Nam có
thể tận dụng.

7


5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề quan hệ an ninh, chính trị
giữa hai quốc gia bị chi phối bởi yếu tố lịch sử và kinh tế, nên phương pháp
nghiên cứu lịch sử và kinh tế là những phương pháp chủ yếu sẽ được sử dụng.
Ngoài ra, phương pháp so sánh cũng được sử dụng để đánh giá xem bối cảnh
quốc tế và khu vực tác động đến mối quan hệ chính trị và an ninh này như thế
nào. Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương pháp như:

- Phương pháp thống kê
- Phương pháp tổng hợp
- Phương pháp phân tích
6. Những đóng góp chủ yếu của luận văn
- Làm rõ thực trạng và đặc trưng của mối quan hệ an ninh, chính trị
Nhật – Trung từ sau Chiến tranh Lạnh tới nay.
- Phân tích những thách thức, vấn đề gây trở ngại trong quan hệ Nhật
– Trung.
- Đánh giá những xu hướng vận động và triển vọng trong mối quan hệ
này và từ đó đưa ra những kiến nghị cho Việt Nam có thể tham khảo trong
chính sách đối ngoại.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài Bảng các chữ viết tắt, Lời mở đầu, Kết luận, và Tài liệu tham
khảo, Luận văn gồm 3 Chương nội dung:
- Chƣơng 1: Quan hệ an ninh, chính trị Nhật – Trung từ sau Chiến
tranh Lạnh tới nay
- Chƣơng 2: Những thách thức trong quan hệ an ninh, chính trị
Nhật – Trung

8


- Chƣơng 3: Xu hƣớng tiến triển trong quan hệ Nhật – Trung và
một số hàm ý cho Việt Nam

9


CHƢƠNG 1
QUAN HỆ AN NINH, CHÍNH TRỊ NHẬT - TRUNG

TỪ SAU CHIẾN TRANH LẠNH
1.1. Bối cảnh quốc tế và nhu cầu tăng cƣờng mối quan hệ giữa Nhật
Bản và Trung Quốc sau Chiến tranh Lạnh
Từ cuối những năm 1980 đến đầu những năm 1990, tình hình quốc tế đã
có những biến động lớn, tác động đến chính sách đối nội cũng như đối ngoại
của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Sự sụp đổ của Bức tường Berlin đã đặt
dấu chấm hết cho 40 năm băng giá của cuộc Chiến tranh Lạnh trong quan hệ
Đông Tây do Mỹ và Liên Xô đứng đầu, rồi tiếp đến là sự tan rã của Liên bang
Xã hội chủ nghĩa Xô Viết. Chiến tranh Lạnh kết thúc đã tạo ra một diện mạo
mới cho quan hệ quốc tế. Sự chuyển dịch của thế giới đa cực mang tính chất
cạnh tranh và hợp tác đã tạo ra một môi trường quốc tế mới ẩn chứa nhiều cơ
hội và khơng ít thách thức. Trước tình thế như vậy, các quốc gia có tiềm lực
kinh tế, chính trị và qn sự đều tìm cách vươn lên nhằm trở thành một cực
hoặc tạo thành thế giới đa cực, Trung Quốc và Nhật Bản là một trong số quốc
gia đó.
Vào thời điểm đó, Trung Quốc ngồi vai trị là một cường quốc đông dân
nhất thế giới và là một trong 5 ủy viên thường trực của HĐBA Liên Hiệp
Quốc ra thì vẫn cịn thua kém xa Mỹ về mọi phương diện. Vì vậy, để thực
hiện được mục tiêu trên, một mặt, Trung Quốc đã thúc đẩy chính sách cải
cách, mở cửa hơn nữa nhằm hiện đại hóa nền kinh tế và quốc phịng. Mặt
khác, thay đổi chính sách đối ngoại như bình thường hóa quan hệ với các
nước, bao gồm cả những nước trước đây được xem như là kẻ thù và tham gia
tích cực vào các tổ chức quốc tế và khu vực nhằm nâng cao vai trị và vị thế
của mình trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực.
10


Sau sự kiện Thiên An Môn (tháng 6-1989), Trung Quốc hầu như bị rơi
vào tình trạng bị cơ lập bởi chính sách bao vây kinh tế và ngưng trao đổi nhân
sự cấp cao do Mỹ phát động. Do vậy, có thể nói rằng, vào thời điểm đó, một

trong những địi hỏi cấp bách đối với ban lãnh đạo Trung Quốc là phải phá vỡ
tình trạng cơ lập này, bởi vì, nếu như tình trạng cơ lập kéo dài, nhất là bị phong
tỏa về kinh tế, sẽ dẫn tới chính sách hiện đại hóa kinh tế và quốc phịng của
Trung Quốc bị thất bại, mà điều đó đồng nghĩa với việc mục tiêu xây dựng trật
tự quốc tế mới, trong đó Trung Quốc sẽ là một trung tâm do Đặng Tiểu Bình đề
xướng và theo đuổi sẽ thất bại. Tuy nhiên, để phá vỡ được sự cô lập này, Trung
Quốc thấy rằng, không thể yêu cầu một cách trực tiếp đối với Mỹ và các nước
phương Tây, nên Trung Quốc đã coi Nhật Bản là đối tượng thích hợp nhất
đóng vai trị đầu mối để khai thơng quan hệ chính trị của Trung Quốc với thế
giới còn lại và là nguồn tiếp tục cung cấp vốn và khoa học công nghệ hiện đại
cho mình. Do đó, Trung Quốc ngồi việc u cầu Nhật Bản góp phần làm giảm
sự căng thẳng của các nước phương Tây đối với sự kiện Thiên An Mơn ra, cịn
u cầu Nhật Bản mời đại diện cấp cao của Trung Quốc sang thăm và tiếp tục
viện trợ kinh tế [4, tr.129].
Còn đối với Nhật Bản, khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, với những thành
công lớn trong phát triển kinh tế, Nhật Bản trở thành chủ nợ lớn nhất thế giới
khẳng định là một siêu cường kinh tế, đứng thứ hai sau Mỹ. Nhật Bản mong
muốn tiến tới chính sách đối ngoại chủ động hơn, tương xứng với tiềm lực
kinh tế tài chính hùng mạnh của mình. Nhật Bản tích cực tham gia vào các
hoạt động gìn giữ hịa bình của Liên Hiệp Quốc; tham gia giải quyết các vấn
đề tranh chấp khu vực; cắt giảm vũ khí chiến lược và chống khủng bố; phối
hợp quốc tế nhằm giúp các quốc gia giải quyết các vấn đề lương thực, năng
lượng, bảo vệ môi trường, đào tạo nguồn nhân lực. Chẳng hạn, tháng 1-1991,
khi Mỹ tấn công Irắc, dù Nhật Bản khơng trực tiếp tham chiến nhưng đã đóng

11


góp nhiều chi phí, và đến tháng 4 năm sau đó, Nhật Bản đã cử đội phá mìn
đến vùng Vịnh, hoặc Nhật Bản đã tích cực đóng góp vai trị giải quyết vấn đề

Cămpuchia; đặc biệt tháng 6-1992, chính phủ Nhật Bản đã thông qua đạo luật
cho phép đưa quân đội ra nước ngồi tham gia vào lực lượng gìn giữ hịa bình
của Liên Hiệp Quốc. Đối với những hành động này của Nhật Bản, phía Trung
Quốc khơng có sự phản đối chính thức nào mà chỉ tuyên bố, đây là vấn đề tế
nhị hoặc cần phải xử lí một cách thận trọng. Qua phản ứng của Trung Quốc,
người ta có thể hiểu rằng, Trung Quốc đã có vẻ bắt đầu chấp nhận ý muốn của
Nhật Bản tham gia vào các vấn đề chính trị thế giới, chỉ cần Nhật Bản không
trở thành cường quốc quân sự, tức là chỉ dừng lại ở cường quốc chính trị [4,
tr.129]. Hơn nữa, sự lên giá của đồng Yên vào đầu những năm 1990 đã ảnh
hưởng đến nền kinh tế dựa vào xuất khẩu, buộc các xí nghiệp Nhật Bản phải
di chuyển việc sản xuất ra nước ngoài, đặc biệt là Trung Quốc, một thị trường
đầy tiềm năng và hấp dẫn cũng là một lí do quan trọng khiến Nhật Bản cần
cải thiện và tăng cường quan hệ với Trung Quốc.
1.2. Giai đoạn tăng cƣờng mối quan hệ Nhật- Trung
Với tư cách là một đồng minh chiến lược của Mỹ, Nhật Bản phải tuân
thủ các cam kết trừng phạt Trung Quốc của Mỹ và phương Tây sau sự kiện
Thiên An Môn, nhưng Tôkyô trên thực tế chỉ áp dụng một cách chọn lọc các
biện pháp trừng phạt chống Trung Quốc sao cho ít gây tổn hại nhất cho mối
quan hệ tay đôi của Nhật Bản với Trung Quốc và đồng thời cũng không gây
ra sự chỉ trích mạnh mẽ từ các đồng minh của mình. Tuy Tơk tun bố ủng
hộ các cam kết trừng phạt, tuyên bố tạm ngưng những khoản viện trợ đã cam
kết và ngừng việc trao đổi nhân sự cấp cao đối với Trung Quốc. Nhưng trong
thực tế, Nhật Bản đã khơng hồn tồn tn theo các trừng phạt trong vấn đề
mậu dịch hoặc đầu tư với Trung Quốc. Có chăng chỉ là một vài hành động lấy
lệ, như rút một số chuyên gia, các nhà đầu tư về nước. Tuy nhiên, chỉ sau đó

12


một thời gian ngắn, với tư cách cá nhân, họ đã quay trở lại vị trí cũ của họ

ở Trung Quốc [2, tr.128]. Với quan điểm sự ổn định của Trung Quốc là có
lợi cho hịa bình và phát triển khu vực, nhất là khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương nên chính phủ Nhật Bản đã có những bước đi nhằm cải thiện quan
hệ với Trung Quốc. Chẳng hạn, tháng 9 -1989, có nghĩa là chỉ 3 tháng sau
sự kiện Thiên An Môn, chủ tịch Liên minh nghị sĩ Nhật - Trung đã sang
thăm Trung Quốc và tiến hành hội đàm với Đặng Tiểu Bình, và ngay trong
tháng 11 -1989, đoàn đại biểu Liên đoàn Kinh tế Nhật Bản đã sang thăm
Trung Quốc.
Thực ra, đến cuối năm 1989, ngay cả Mỹ cũng có sự thay đổi chính sách
đối với Trung Quốc. Tháng 11-1989, cựu Tổng thống Mỹ Nixon đã sang thăm
Trung Quốc. Tháng 12 cùng năm, cử đặc phái viên của tổng thống tới Trung
Quốc để thỏa thuận cải thiện quan hệ và tuyên bố nối lại các khoản vay vốn
của Ngân hàng xuất nhập khẩu. Tiếp đó, trước khi Hội nghị cấp cao G7 tổ
chức ở Huston, phía Mỹ đã quyết định kéo dài chế độ tối huệ quốc cho Trung
Quốc. Trước sự thay đổi chính sách của Mỹ như vậy, Nhật Bản càng có động
cơ để tăng cường cải thiện quan hệ với Trung Quốc. Tháng 9-1990, cựu Thủ
tướng Noburo Takeshita đã sang thăm Trung Quốc. Tiếp theo, tháng 11-1990,
Nhật Bản xóa bỏ một phần lệnh ngưng viện trợ đối với khoản vay đợt III và
bước sang năm 1991, quan hệ hai nước đã khơi phục hồn toàn sau chuyến
thăm của Ngoại trưởng Nakayama vào tháng 4-1991. Chuyến thăm vào tháng
8-1991 của Thủ tướng Nhật Bản Kaifu mang ý nghĩa quan trọng. Đây là
chuyến thăm của một vị nguyên thủ quốc gia đầu tiên của nhóm G7 tới thăm
Bắc Kinh kể từ khi xảy ra sự kiện Thiên An Mơn.
Tháng 4-1992, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc, Giang Trạch
Dân đã sang thăm chính thức Nhật Bản và mời Nhật Hoàng sang thăm Trung
Quốc vào tháng 10 năm đó nhân dịp kỷ niệm 20 năm hai nước bình thường

13



hóa quan hệ ngoại giao. Việc Nhật Hồng sang thăm Trung Quốc là vấn đề
khơng đơn giản bởi có liên quan đến cuộc Chiến tranh Thế giới thứ II trước
đây (cho dù Nhật Hồng hiện nay khơng có trách nhiệm gì) và sự phản đối
mạnh của rất nhiều đảng phái, các tổ chức cực hữu ở khắp nước Nhật. Nhưng
do phía Trung Quốc ra sức yêu cầu mạnh, nên tháng 10/1992, Nhật Hoàng đã
sang thăm Trung Quốc. Tại buổi chiêu đãi, Nhật Hồng đã phát biểu: “đất
nước chúng tơi đã có một thời kỳ mang lại sự bất hạnh và đau khổ cho nhân
dân Trung Quốc, tôi rất lấy làm tiếc về giai đoạn đó,... nhân dân nước tơi đã
thức tỉnh sâu sắc rằng, không thể lặp lại một lần nữa cuộc chiến tranh như thế,
và quyết tâm đi theo con đường của một quốc gia hịa bình” [4, tr.134]. Có thể
khẳng định, đây là chuyến thăm mang tính lịch sử đối với quan hệ Nhật Trung từ sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II, bởi đây là lần đầu tiên Nhật
Hồng sang thăm một nước khơng thuộc chế độ quân chủ và cho dù theo quy
định của hiến pháp, Nhật Hồng khơng phải là đại diện cho nước Nhật đã
công khai thừa nhận cuộc chiến tranh xâm lược Trung Quốc, là một thành
cơng lớn trong chính sách ngoại giao của Trung Quốc [4, tr.134].
Không chỉ dừng lại ở đó, tháng 4-1993, Thủ tướng Nhật Bản Hosokawa
đã sang thăm Trung Quốc. Trong chuyến thăm 3 ngày này, ngoài việc hai
nước kí kết Hiệp định bảo vệ mơi trường, thì điểm đáng chú ý là, trong cuộc
hội đàm với Thủ tướng Lý Bằng, Thủ tướng Hosokawa đã tuyên bố một cách
thẳng thắn rằng, cuộc chiến tranh với các nước Châu Á, mà trước hết là cuộc
chiến tranh Nhật - Trung trước đây là cuộc chiến tranh xâm lược và đưa ra lời
xin lỗi. Hơn nữa, ơng Hosokawa cịn bày tỏ quan điểm của Nhật Bản về vấn
đề nhân quyền ở Trung Quốc “Vấn đề quyền con người có tính chất tương đối
và không cần áp dụng tiêu chuẩn đơn lẻ về vấn đề nhân quyền từ một nước
này sang nước khác” [4, tr. 223]. Hành động này được người ta cho là có tính
“xoa dịu” các nhà lãnh đạo và nhân dân Trung Quốc. Tuy không nhận được

14



sự hài lịng từ phía Mỹ, nhưng ở khía cạnh khác cho thấy rõ là Nhật Bản đang
cố gắng tạo dựng lý thuyết về các giá trị Châu Á cho riêng mình [4, tr.224].
Phía Trung Quốc cũng cho thấy ý định tăng cường quan hệ với Nhật
Bản và tháng 2-1994, Thủ tướng Chu Dung Cơ đã sang thăm Nhật Bản 10
ngày. Có lẽ đây là chuyến thăm kéo dài hiếm thấy của một nguyên thủ
quốc gia lớn như Trung Quốc đối với một nước lân cận và trong chuyến
thăm này, Thủ tướng Chu Dung Cơ đã đi thăm nhiều địa phương, gặp gỡ
giới chủ kinh tế chủ chốt ở Nhật Bản, kêu gọi tăng cường hợp tác kinh tế
hơn nữa với Trung Quốc.
Trong lúc quan hệ hai nước đang tiến triển tốt đẹp thì tháng 5-1994, Bộ
trưởng Tư pháp Nagano của nội các Hata đã “dội một gáo nước lạnh” bằng
tuyên bố vụ thảm sát Nam Kinh là do Trung Quốc tạo dựng, Trung Quốc đã
phản ứng hết sức quyết liệt với tuyên bố trên. Tiếp đến, khi Ban tổ chức Thế
vận hội Châu Á lần thứ 12 gửi giấy mời Tổng thống Đài Loan Lý Đăng Huy
dự buổi lễ khai mạc tại Hiroshima vào tháng 9 năm 1994. Trung Quốc coi đó
là sự vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc một Trung Quốc của Nhật Bản. Trung
Quốc gây sức ép buộc Nhật Bản phải hủy bỏ lời mời đó. Đáp lại, Nhật Bản
khơng muốn quan hệ Nhật - Trung có thể bị tổn hại nhưng cũng thể hiện lập
trường cứng rắn của mình với Trung Quốc bằng việc mời phó Viện Trưởng
viện Hành chính (tương đương chức phó Tổng thống) Đài Loan sang tham dự
buổi khai mạc, nên quan hệ Nhật - Trung đã rơi vào tình trạng “lạnh nhạt” [2,
tr.229]. Tháng 5-1995, Thủ tướng Nhật Bản Murayama đã sang thăm Trung
Quốc, trong những cuộc hội đàm với Thủ tướng Lý Bằng và Chủ tịch Giang
Trạch Dân, Thủ tướng Murayama đã yêu cầu Trung Quốc ngưng thử các vụ
nổ hạt nhân. Tuy nhiên, ngày 15-5, tức là chỉ ít ngày sau chuyến thăm của
Thủ tướng Murayama, Trung Quốc đã tiến hành nổ thực nghiệm hạt nhân
dưới lòng đất. Đây quả là cú sốc đối với Nhật Bản nên phía Nhật đã quyết

15



định cắt giảm kim ngạch viện trợ khơng hồn lại cho Trung Quốc. Song vào
thời điểm này, Trung Quốc vẫn đang cố thực hiện chính sách hiện đại hóa
qn đội và tăng cường các hoạt động quân sự nhằm giải quyết vấn đề Đài
Loan và lấn chiếm các hòn đảo đang thuộc quyền kiểm soát của các quốc gia
khác mà Trung Quốc cũng tuyên bố là của họ, cũng như thách thức nước Mỹ,
nên tháng 8 năm đó, Trung Quốc lại tiếp tục thử hạt nhân. Phản ứng của Nhật
Bản lúc này mạnh hơn, Quốc hội Nhật Bản thông qua nghị quyết phản đối
Trung Quốc và cuối tháng 8-1995, trước yêu cầu của các đảng phái và các
nghị sĩ, chính phủ Nhật Bản đã tuyên bố ngưng phần lớn khoản viện trợ
khơng hồn lại đối với Trung Quốc trong năm tài chính 1996, trừ khoản tiền
500 triệu Yên cung cấp Vắcxin phịng bại liệt, nhưng đối với khoản viện trợ
có hồn lại thì ngoại trưởng Nhật Bản Uno tun bố vẫn tiếp tục cho vay.
Điều này cho thấy sự nhượng bộ của Nhật Bản đối với Trung Quốc hoặc theo
như cách giải thích của Chánh văn phịng nội các Nhật Bản là “Vì mối quan
hệ hữu nghị Nhật - Trung và hịa bình ở Châu Á” [15, tr.228]. Mặc dù, Nhật
Bản chỉ tun bố ngưng khoản viện trợ khơng hồn lại song phản ứng của
Trung Quốc lại phản ứng hết sức gay gắt. Tháng 9-1995, Thủ tướng Lý Bằng
đã nói với chủ tịch Liên đoàn kinh tế Nhật Bản đang ở thăm Trung Quốc rằng
“những thiệt hại do cuộc chiến tranh xâm lược trước đây của Nhật Bản gây ra
cho nhân dân Trung Quốc là vô cùng lớn nếu so với khoản tiền mà Nhật Bản
cho Trung Quốc vay”. Còn Chủ tịch Giang Trạch Dân tại cuộc gặp cấp cao
Nhật - Trung được tổ chức ở New York thì nói, “khi hai nước Trung - Nhật
bình thường hóa quan hệ ngoại giao, Trung Quốc có thái độ hết sức khoan
dung trong vấn đề bồi thường chiến tranh đối với Nhật Bản”. Có thể nói, điểm
mới trong việc dùng lá bài bồi thường chiến tranh là Trung Quốc muốn gây
áp lực đối với Nhật Bản, do đó, nếu những lần trước các nhà lãnh đạo Trung
Quốc chỉ nói bóng gió, thì lần này họ đã thẳng thừng dùng từ “cuộc chiến

16



tranh xâm lược” khi nói về những hành động của quân đội Nhật ở Trung
Quốc trong Chiến tranh Thế giới thứ II.
Bước sang năm 1996, quan hệ hai nước tiếp tục căng thẳng do hoạt động
quân sự của Trung Quốc, tình hình Eo biển Đài Loan và quan hệ Nhật - Mỹ,
quan hệ Mỹ - Trung, vấn đề lãnh thổ, chuyến thăm đền Yasukuni của Thủ
tướng Hahsimoto, vấn đề vũ khí hóa học của qn đội Nhật để lại ở Trung
Quốc,... song vấn đề nổi cộm nhất vẫn là “Hiệp ước an ninh Nhật – Mỹ”. Vậy
tại sao Mỹ và Nhật Bản phải kí lại Hiệp ước an ninh? Như trình bày ở trên,
sau Chiến tranh Lạnh, Trung Quốc đẩy mạnh hiện đại hóa quốc phịng, đặc
biệt là lực lượng hải quân và đẩy mạnh hoạt động quân sự trên vùng biển
Đông và Nam Trung Hoa, tiến hành diễn tập quân sự quy mô lớn ở Eo biển
Đài Loan đến mức Mỹ phải cử hai chiếc tàu của hạm đội 7 tới thì Trung Quốc
mới chịu dừng lại. Vì vậy, cho tới thời điểm đó, dù Nhật Bản thi hành chính
sách đối ngoại coi trọng Trung Quốc cũng như ở Nhật Bản đã xuất hiện
khơng ít những ý kiến địi thực hiện chính sách độc lập hơn với Mỹ. Cịn đối
với Mỹ cho dù vai trò là pháo đài chống cộng ở Châu Á của Nhật Bản đã hết,
cũng như việc Mỹ thay đổi chính sách đối với Trung Quốc từ thực hiện chính
sách bao vây sang chính sách lơi kéo Trung Quốc tham dự chẳng hạn như:
làm sao để Trung Quốc kí các Hiệp ước quốc tế, tham gia vào Diễn đàn khu
vực ASEAN (ARF), tham gia vào Diễn đàn kinh tế Châu Á - Thái Bình
Dương (APEC),v.v.. để trói buộc hoặc thậm chí cịn coi Trung Quốc là một lá
bài để kiềm chế sự trỗi dậy của Nhật Bản đi chăng nữa thì, trước ý đồ và ảnh
hưởng của Trung Quốc có thể đem lại cho khu vực, nhất là khu vực Đông Á,
đã buộc Mỹ phải thay đổi chính sách cho phù hợp với tình hình mới. Do đó,
tháng 4-1996. Tổng thống Mỹ B.Clinton đã sang thăm Nhật Bản và kí kết
“Tuyên bố chung bảo đảm an ninh Nhật - Mỹ hướng tới thế kỷ XXI” và
thường được gọi dưới cái tên “Định nghĩa lại an ninh Nhật – Mỹ”. Nội dung


17


của Hiệp ước mới này được giải thích như sau: Điểm then chốt của hợp tác an
ninh Nhật - Mỹ trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh là hai nước sẽ xử trí như thế
nào khi nước Nhật bị tấn cơng, cịn đối với Hiệp ước mới thì điểm then chốt
là trong thời kỳ sau Chiến tranh Lạnh, hai nước sẽ tiến hành hợp tác như thế
nào trong trường hợp quân Mỹ xuất phát từ các căn cứ quân sự trên đất Nhật
khi xảy ra xung đột ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Như vậy sự hợp
tác an ninh Nhật-Mỹ đã có sự thay đổi căn bản là từ chỗ đối phó với cuộc tấn
cơng vào Nhật Bản và cũng có nghĩa là, “Hiệp ước An ninh Nhật- Mỹ” đã
chuyển từ hợp tác phòng thủ sang hợp tác tiến công. Trong Bản tuyên bố
chung hai bên đề cập đến nhiều vấn đề về hợp tác quân sự, nhưng đáng chú ý
nhất là điều 3 của bản tuyên bố. Điều 3 này quy định sự hợp tác giữa hai nước
khi xảy ra những tình huống ở khu vực xung quanh Nhật Bản, mà có thể gây
ra ảnh hưởng nghiêm trọng đối với hịa bình và an ninh của Nhật Bản. Đây
chính là điểm làm cho Trung Quốc khơng n tâm và coi đó như là một chính
sách bao vây, thù địch đối với Trung Quốc. Do đó, ngay ngày hôm sau, người
phát ngôn Bộ ngoại giao Trung Quốc tuyên bố: “Hiệp ước An ninh Nhật-Mỹ”
là thủ tục phòng vệ của hai nước nên không được vượt quá giới hạn của hai
nước, nếu vượt qua sẽ làm tăng thêm yếu tố phức tạp của khu vực. Nếu Nhật
Bản tăng cường quân đội và mở rộng phạm vi phòng vệ sẽ gây ra sự quan
tâm và cảnh giác của các nước Châu Á, hy vọng chính phủ Nhật Bản có thái độ
thận trọng trong vấn đề này” [59, tr.483]. Sau đó, phía Trung Quốc cịn nhiều
lần u cầu Nhật Bản và cả Mỹ giải thích rõ “phạm vi xung quanh Nhật Bản”
được nêu trong Hiệp ước và mặc dù phía Nhật Bản khẳng định “phạm vi nêu
trong Hiệp ước mới không gồm eo biển Đài Loan”, nhưng phía Trung Quốc
vẫn tỏ ra khơng hài lịng đối với giải thích này của Nhật Bản.
Có thể nói rằng, năm 1996 là một trong những năm quan hệ Nhật-Trung
ở trong tình trạng tồi tệ kể từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ ngoại


18


giao, ngoài nguyên nhân do Trung Quốc liên tiếp tiến hành thử hạt nhân nên
Nhật Bản cắt viện trợ không hoàn lại và vấn đề “định nghĩa lại Hiệp ước An
ninh Nhật – Mỹ” ra, cịn có ngun nhân do Thủ tướng Nhật Bản Hashimoto
viếng đền thờ Yasukuni, đặc biệt là việc tranh chấp lãnh thổ xoay quanh đảo
Senkaku (Trung Quốc gọi là đảo Điếu Ngư) vào tháng 7-1996, khi một số
đồn thể chính trị Nhật Bản tiến hành xây dựng đèn biển trên đảo. Khi xảy ra
sự việc, phía Trung Quốc cho tàu đến thăm dò khai thác, thậm chí cịn đưa cả
người đến quần đảo trên. Tuy nhiên, cả hai bên đều khơng muốn gây ra tình
hình căng thẳng quá mức, nên sau đó lãnh đạo hai nước đã thống nhất quan
điểm là nhường lại cho các thế hệ sau giải quyết. Nhưng các thế hệ sau của
hai nước sẽ giải quyết như thế nào cũng không phải là điều đơn giản một khi
Trung Quốc đã trở thành một cường quốc kinh tế, quân sự có khả năng chi
phối áp đảo ở khu vực Châu Á- Thái Bình Dương ở thế kỷ XXI, trong khi họ
vẫn ôm ấp tham vọng thu hồi Đài Loan và các hòn đảo đang tranh chấp với
các quốc gia khác mà cho đến nay họ vẫn nhận là của Trung Quốc.
Tháng 2-1997, tại cuộc họp Á- Âu tổ chức tại Singapo, Ngoại trưởng hai
nước Nhật - Trung đã tiến hành hội đàm và phía Nhật Bản đã thơng báo cho
phía Trung Quốc việc chính phủ Nhật Bản đang thúc đẩy cơng tác chuẩn bị
nối lại viện trợ khơng hồn lại cho Trung Quốc. Tháng 3-1997, Ngoại trưởng
Ikeda trong chuyến thăm Trung Quốc đã thơng báo việc Nhật Bản chính thức
nối lại khoản viện trợ khơng hồn lại. Tháng 9-1997, Thủ tướng Hasimoto
thăm Trung Quốc và đưa ra sáng kiến “Hợp tác môi trường Nhật- Trung
hướng tới thế kỷ XXI”. Nhưng có thể nói rằng, từ năm 1998, quan hệ giữa hai
nước thực sự phát triển, ngoài các cuộc gặp cấp cao tại các Hội nghị và Diễn
đàn quốc tế, giữa hai nước đã diễn ra hàng loạt các cuộc viếng thăm cấp cao
như tháng 2-1998, Bộ trưởng Quốc phịng Trung Quốc Trì Hạo Điền tới

Tơk, tháng 4-1998, Phó Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào thăm Nhật Bản, tháng

19


5-1998, Cục trưởng Cục phòng vệ Nhật Bản thăm Trung Quốc. Đặc biệt
tháng 11- 1998, lần đầu tiên Chủ tịch Giang Trạch Dân sang thăm Nhật Bản,
hai bên đã ra Tuyên bố chung “Đối tác hợp tác hữu nghị vì hịa bình và phát
triển”, trong đó Chủ tịch Giang Trạch Dân đã đưa ra 33 mục hợp tác giữa hai
nước như; bảo tồn di tích văn hóa, vấn đề nhân quyền, trao đổi an ninh,...
Tháng 7-1999, Thủ tướng Obuchi sang thăm Trung Quốc, trong các cuộc hội
đàm với các nhà lãnh đạo Trung Quốc, ngoài việc hai bên đã đạt được thỏa
thuận về việc Trung Quốc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) cũng
như nhất trí trong việc thúc đẩy hợp tác cụ thể hơn nữa đối với 33 mục do
Chủ tịch Giang Trạch Dân đưa ra, Thủ tướng Obuchi còn đưa ra sáng kiến
thành lập “Quỹ Obuchi” với số tiền là 10 tỷ Yên để giúp phong trào trồng
rừng xanh hóa, do các đồn thể tư nhân Nhật Bản thực hiện đối với Trung
Quốc. Chính vì vậy mà chuyến thăm này được xem như là chuyến thăm bắc
cầu cho thế kỷ XXI. Quan hệ Nhật – Trung giai đoạn này được ví như “bước
vào thời kỳ trăng mật”.
Đặc biệt, trong chuyến thăm của Thủ tướng Chu Dung Cơ tháng 102000, hai bên đã nhất trí tăng cường và mở rộng đối thoại về bảo đảm an
ninh, trao đổi các đoàn quân sự,... Trong những năm đầu của thế kỷ XXI,
quan hệ Nhật - Trung phát triển khá thuận lợi, nó được đánh dấu bằng việc tổ
chức long trọng “năm Trung Quốc”, “năm Nhật Bản” ở hai nước trong năm
2002 với sự tham dự của các nhà lãnh đạo cao cấp hai nước. Ngồi ra, cịn có
nhiều cuộc hội đàm cấp cao được tổ chức ở Nhật Bản và Trung Quốc cũng
như các hội nghị ở Liên Hiệp Quốc và khu vực nhằm thúc đẩy quan hệ giữa
hai nước.
Tuy nhiên, liệu hai nước có thể xây dựng được mối quan hệ tin cậy hay
không trong khi giữa hai nước vẫn cịn những bất đồng mà khơng dễ gì giải

quyết được. Chẳng hạn, tháng 4-2001, Nhật Bản đã cấp visa cho cựu Tổng

20


thống Đài Loan Lý Đăng Huy vào Nhật Bản chữa bệnh. Phía Trung Quốc
phản đối mạnh mẽ. Nhưng, Thủ tướng Mori vẫn quyết định cấp Visa vì lí do
nhân đạo, thậm chí các nghị sĩ của Đảng Tự do Dân chủ cịn cho rằng, nếu
khơng để cho Lý Đăng Huy, một người lính của Nhật Bản hồi trẻ vào Nhật
Bản thì Nhật Bản là nước lệ thuộc của Bắc Kinh.
1.3. Giai đoạn “ lạnh giá ” trong quan hệ Nhật - Trung
“Kinh tế nóng, chính trị lạnh”! Đó là từ dùng để miêu tả mối quan hệ của
Nhật Bản và Trung Quốc dưới thời của Thủ tướng Koizumi cầm quyền
(2001-2006). Koizumi là một trong những vị Thủ tướng thành công nhất của
Nhật Bản từ sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II. Với tài chèo lái của mình,
Thủ tướng Koizumi không những đã đưa nước Nhật ra khỏi cơn suy thối
kinh tế kéo dài, mà cịn đem đến cho nền kinh tế thứ hai thế giới này một luồng
sinh khí mới. Ông là Thủ tướng Nhật Bản đầu tiên kể từ khi hai nước bình
thường hóa quan hệ ngoại giao chưa đi thăm Trung Quốc lần nào. Cũng chính
trong nhiệm kỳ của Thủ tướng Koizumi, mối quan hệ Nhật – Trung tuy “nóng
về kinh tế”, nhưng trở nên “ lạnh giá” trong quan hệ chính trị và rơi vào tình
trạng xấu nhất kể từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ ngoại giao từ năm
1972. Từ khi lên nhậm chức vào tháng 4-2001, Thủ tướng Koizumi đã có 5 lần
đến viếng thăm đền Yasukuni. Mặc dù ông Koizumi nhiều lần nói rằng các
chuyến thăm của ơng khơng nhằm mục đích ca ngợi quá khứ chiến tranh của
Nhật Bản và bác bỏ mọi sự chỉ trích từ phía Trung Quốc và Hàn Quốc. Trong
Hội nghị cấp cao với các nhà lãnh đạo ASEAN tại Kula Lumpur (Malaixia),
ông Koizumi từ chối việc ngừng các chuyến thăm đến đền này và nói rằng Bắc
Kinh dần dần sẽ “hiểu” các chuyến thăm đền Yasukuni của ơng [13, tr.129].
Phía Trung Quốc phản ứng quyết liệt và từ chối những cuộc gặp cấp cao với

phía Nhật Bản.
Tháng 11-2004, tàu ngầm Trung Quốc xâm nhập lãnh hải Nhật Bản, bị

21


phía Nhật Bản phát hiện và yêu cầu Trung Quốc xin lỗi. Sau đó, vào tháng
12-2004, trong Sách Trắng Quốc phòng, Nhật Bản nêu rõ Trung Quốc là một
“mối quan ngại” của Nhật Bản, khi nêu rõ việc Trung Quốc gia tăng chi phí
quốc phịng lên 250 tỷ Nhân dân tệ (tương đương 30 tỷ USD).
Ngày 5-4-2005, Nhật Bản cho phép các trường học chính thức sử dụng
một trong 8 cuốn sách giáo khoa lịch sử gây tranh cãi ngoại giao năm 2001.
Phía Trung Quốc đã cho triệu Đại sứ Nhật Bản tại Bắc Kinh đến để phản đối.
Đại sứ của Trung Quốc tại Nhật Bản trong cuộc gặp Thứ trưởng ngoại giao
Nhật Bản Shotaro Yachi cho biết: “Cuốn sách giáo khoa của Nhà xuất bản
Fushosha đã xuyên tạc lịch sử và làm tổn thương nhiều người dân Châu Á,
trong đó có người dân Trung Quốc”[60]. Bất chấp mọi sự phản đối từ cả
Trung Quốc và Hàn Quốc, Nhật Bản vẫn cho xuất bản bộ sách giáo khoa trên
và lưu hành trong các trường phổ thông kể từ tháng 4-2006.
Ngày 10-4-2005, Ngoại trưởng Nhật Bản Nobutaka Machimura đã triệu
Đại sứ Trung Quốc Wang Yi đến để trao kháng nghị chính thức và yêu cầu
Trung Quốc xin lỗi về vụ biểu tình bạo lực chống Nhật Bản của khoảng
10.000 người ở Bắc Kinh và những hành động ném chai lọ vào Đại sứ quán
Nhật Bản vào ngày 9-4-2005. Đại sứ Wang Yi nói “Chính phủ Trung Quốc
khơng đồng tình với những hoạt động q khích của đồn biểu tình” [60]. Tuy
nhiên, theo lời Ngoại trưởng Machimura thì Đại sứ Trung Quốc đã khơng có
lời xin lỗi nào về vụ biểu tình phản đối nói trên. Cùng ngày 10-4, tại tỉnh
Quảng Đơng, khoảng 10.000 người đã bao vây một siêu thị của Nhật tại Thẩm
Quyến. Cũng thời gian đó, khoảng 3000 người đã biểu tình trước Lãnh sự quán
Nhật Bản tại Quảng Châu, hô khẩu hiệu và trương biểu ngữ chống Nhật, yêu

cầu Nhật Bản thừa nhận những tội ác đã gây ra trong chiến tranh và đốt quốc
kỳ của Nhật. Hãng Kyodo đưa tin một nhóm người Trung Quốc đã đánh bị
thương 2 lưu học sinh Nhật Bản tại một cửa hàng ở Thượng Hải [60]
Ngày 19-4-2005, Tòa án dân sự tối cao Nhật Bản bác bỏ yêu cầu bồi
22


thường của 10 nạn nhân Trung Quốc cịn sống sót sau các cuộc thử nghiệm
chiến tranh vi trùng của Nhật tại Trung Quốc những năm 1930 và 1940.
Những cuộc gặp gỡ giữa lãnh đạo hai nước chỉ diễn ra rất ngắn ngủi bên
lề các hội nghị khu vực hay quốc tế. Nhiều sự kiện xảy ra đã gây thêm sự
“lạnh giá” trong quan hệ hai nước.
Trong Tuyên bố chung của cuộc họp 2+2 giữa Ngoại trưởng và Bộ
trưởng Quốc phòng hai nước Mỹ và Nhật Bản vào tháng 2-2007, đã xác định
Đài Loan là “mục tiêu chiến lược chung” trong “Hiệp ước an ninh Nhật –
Mỹ”. Đây được xem là một sự thay đổi quan trọng nhất của liên minh an ninh
hai nước kể từ năm 1996, bởi trước đó, “Hiệp định an ninh Nhật- Mỹ” chỉ đưa
ra khái niệm chung là “vùng xung quanh Nhật Bản”. Điều này không làm hài
lịng phía Trung Quốc. Những sự kiện này liên tiếp diễn ra khiến quan hệ
Nhật – Trung đã rơi xuống mức thấp nhất kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ
ngoại giao vào năm 1972.
1.4. Giai đoạn “tan băng” trong quan hệ Nhật- Trung
Tuy nhiên, quan hệ Nhật - Trung bắt đầu được cải thiện sau khi ông
Shinzo Abe nhậm chức Thủ tướng Nhật Bản và có những động thái hàn gắn
những mối quan hệ rạn nứt dưới nhiệm kỳ của Thủ tướng Koizumi bằng việc
chọn Trung Quốc là điểm đến đầu tiên trong chuyến công du nước ngồi của
mình vào ngày 8-10-2006. Chuyến thăm này đánh dấu sự thay đổi lớn trong
suy nghĩ của giới lãnh đạo Nhật Bản, bởi theo truyền thống, Thủ tướng Nhật
ln có chuyến thăm tới Mỹ đầu tiên. Ông Abe là Thủ tướng Nhật Bản đầu
tiên tới thăm Bắc Kinh kể từ năm 2001. Trong hội đàm với Chủ tịch Hồ Cẩm

Đào và người đồng nhiệm Ôn Gia Bảo, thủ tướng Abe một mặt bày tỏ sự coi
trọng tầm quan trọng của quan hệ Nhật - Trung, mặt khác, với tư cách là tân
Thủ tướng, ông đã bày tỏ sự hối hận về lịch sử đau khổ của chủ nghĩa quân

23


phiệt trong Thế chiến thứ II gây ra cho nhân dân Trung Quốc. Điều này đã
làm hài lòng các nhà lãnh đạo Trung Quốc.
Trong dịp này, hai bên đã ra bản Tuyên bố chung nhất trí cùng nhau xây
dựng mối quan hệ Trung Quốc - Nhật Bản ngày càng bền chặt. Tuyên bố
cũng kêu gọi chấm dứt sự tranh cãi giữa hai nước về các vấn đề đường biên
giới trên biển và các mỏ khí đốt ở biển Hoa Đơng (biển Nhật Bản), biến nơi
đây thành một vùng biển hòa bình hợp tác và hữu nghị [63].Tuần báo
Washington Observer so sánh chuyến đi Bắc Kinh của ông Abe như chuyến
đi "làm tan băng" của Tổng thống Nixon tới Bắc Kinh năm 1972 để bình
thường hóa quan hệ Mỹ - Trung Quốc sau nhiều thập kỷ đối đầu thời Chiến
tranh Lạnh [64]. Thơng qua chuyến thăm này, ơng Abe cho phía Trung Quốc
thấy sự thiện chí và cố gắng của ơng trong việc cải thiện quan hệ Trung Nhật; đồng thời ngầm cho Trung Quốc thấy rằng Nhật Bản đang muốn đảm
nhận vai trò trách nhiệm lớn hơn với Châu Á và thế giới, từ đó Nhật Bản dần
dần tác động để Trung Quốc ủng hộ, hoặc chí ít khơng ngăn cản hoặc phản
đối Nhật Bản dần trở thành Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp
Quốc. Chuyến thăm "phá băng" của ông Abe đã phá vỡ cục diện chính trị bế
tắc trong quan hệ Nhật - Trung, hai bên đã đạt được nhận thức chung về việc
xây dựng "mối quan hệ chiến lược hai bên cùng có lợi".
Ơng Abe cũng cam kết không công khai đi thăm đền Yasukuni như
người tiền nhiệm Koizumi, mà nói căn cứ vào tín ngưỡng cá nhân để quyết
định có đi thăm đền hay không, trên thực tế, ông luôn giữ lập trường mập mờ
về vấn đề này. Ngày 8-5-2007, các phương tiện thông tin đại chúng Nhật Bản
đưa tin Thủ tướng Abe gửi một cây cảnh có tên “Sasaki” tới đền Yasukuni

làm vật thờ cúng. Thủ tướng Abe đã bỏ tiền túi để mua cây trên. Phản ứng
trước hành động đó, người phát ngôn Bộ ngoại giao Trung Quốc Khương Du
nhấn mạnh: “Vấn đề đền Yasukuni là một vấn đề chính trị quan trọng và nhạy

24


×