Tải bản đầy đủ (.pdf) (149 trang)

(Luận văn thạc sĩ) đảng lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp từ năm 1975 đến năm 1985

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.7 MB, 149 trang )

ĐạI HọC QUốC GIA Hà NộI
TRƯờNG ĐạI HọC KHOA HọC XÃ HộI Và NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYễN THị áNH TUYếT

ĐảNG LÃNH ĐạO PHáT TRIểN KINH Tế NÔNG NGHIệP
Từ NĂM 1975 ĐếN NĂM 1985

LUậN VĂN THạC Sĩ lịch sử

Hà Nội, 2015


ĐạI HọC QUốC GIA Hà NộI
TRƯờNG ĐạI HọC KHOA HọC XÃ HộI Và NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYễN THị áNH TUYếT

ĐảNG LÃNH ĐạO PHáT TRIểN KINH Tế NÔNG NGHIệP
Từ NĂM 1975 ĐếN NĂM 1985

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
MÃ Số: 60 22 03 15

LUậN VĂN THạC Sĩ lịch sử

Ng-ời h-ớng dÉn khoa häc: PGS. TS Vị Quang HiĨn

Hµ Néi, 2015




LỜI CẢM ƠN
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn chân thành tới các thầy cô trong Khoa Lịch sử
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội, gia
đình và bạn bè – những người ln động viên, khích lệ và giúp đỡ tơi hồn thành
luận văn này.
Đặc biệt, tơi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới PGS. TS Vũ Quang
Hiển, người Thầy đã nhiệt tình định hướng và chỉ bảo tơi trong q trình hồn
thành đề tài.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày….. tháng….. năm 2015
Học viên

Nguyễn Thị Ánh Tuyết


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong khóa luận là trung thực. Khóa luận có kế thừa các cơng trình nghiên
cứu của những người đi trước và bổ sung thêm những tư liệu mới, những kết quả
mới chưa được cơng bố trong bất cứ cơng trình nào khác.
Hà Nội, ngày….. tháng….. năm 2015
Học viên

Nguyễn Thị Ánh Tuyết


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1

1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề ............................................................................4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................6
3.1. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................6
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................................6
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................6
4.1. Đối tượng nghiên cứu ....................................................................................6
4.2. Phạm vi nghiên cứu .......................................................................................7
5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu ....................................................7
5.1. Nguồn tài liệu ................................................................................................7
5.2. Phương pháp nghiên cứu ...............................................................................7
6. Bố cục ..................................................................................................................8
CHƢƠNG 1: CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI NỀN
KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TỪ NĂM 1975-1980 ..................................................9
1.1. Những nhân tố ảnh hƣởng đến sự phát triển của kinh tế nông nghiệp ở
Việt Nam và chủ trƣơng của Đảng .......................................................................9
1.1.1 Những nhân tố ảnh hưởng tới ngành nông nghiệp ......................................9
1.1.2. Chủ trương phát triển nông nghiệp của Đảng ..........................................13
1.2. Sự chỉ đạo kinh tế nông nghiệp của Đảng ..................................................24
1.2.1. Đảng chỉ đạo cải tạo xã hội chủ nghĩa và giải quyết các nguồn lực để phát
triển nông nghiệp ................................................................................................24
1.2.2. Chỉ đạo phát triển sản xuất nông nghiệp ..................................................45
Kết luận Chƣơng 1 ...............................................................................................61
CHƢƠNG 2: ĐẢNG LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
TỪ NĂM 1981 ĐẾN NĂM 1985 ............................................................................62
2.1. Yêu cầu mới và chủ trƣơng mới của Đảng về nơng nghiệp ......................62
2.1.1. Tình hình kinh tế nông nghiệp những năm cuối thập niên 70 .................62
2.1.2. Chủ trương mới của Đảng trong phát triển kinh tế nông nghiệp .............64



2.2. Bƣớc đầu tiến hành đổi mới trong nông nghiệp ........................................71
2.2.1. Đổi mới cơ chế quản lý và tăng cường các nguồn lực phát triển nông
nghiệp .................................................................................................................71
2.2.2. Thành tựu trong sản xuất nông nghiệp .....................................................87
Kết luận Chƣơng 2 .............................................................................................107
CHƢƠNG 3: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM ...............................................109
3.1. Ƣu điểm và hạn chế ....................................................................................109
3.1.1. Ưu điểm ..................................................................................................109
3.1.2. Hạn chế ...................................................................................................117
3.2. Kinh nghiệm ................................................................................................131
KẾT LUẬN ............................................................................................................137
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................138


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1: Hiệu quả sản xuất của các hợp tác xã bậc cao ..........................................28
Bảng 1.2: Thực trạng sản xuất nông nghiệp cả nước từ năm 1976 đến năm 1980 ......48
Bảng 1.3: Kết quả tăng trưởng sản xuất nơng nghiệp ...............................................49
Bảng 1.4: Diện tích gieo trồng lúa từ năm 1976 đến năm 1985 ...............................49
Bảng 1.5: Sản lượng lúa từ năm 1976 đến năm 1980 ...............................................50
Bảng 1.6: Năng suất lúa trong 5 năm từ 1976 đến 1980 ...........................................51
Bảng 1.7: Diện tích màu lương thực từ 1976 đến 1980 ............................................51
Bảng 1.8: Sản lượng màu lương thực trong từ năm 1976 đến năm 1980 .................52
Bảng 1.9. Diện tích cây cơng nghiệp, cây ăn quả, cây làm thuốc từ năm 1975
đến năm 1980 ...........................................................................................53
Bảng 1.10: Diện tích và sản lượng cây cơng nghiệp hàng từ 1976 đến 1980...........54
Bảng 1.11: Chăn nuôi gia súc, gia cầm từ năm 1976 đến năm 1980 ........................57
Bảng 1.12: Sản lượng thịt hơi xuất chuồng từ năm 1976 đến năm 1980..................58
Bảng 2.1: Sản lượng lúa trong giai từ năm 1981 đến năm 1985 ..............................91
Bảng 2.2: Diện tích gieo trồng lúa từ năm 1981 đến năm 1985 ...............................92

Bảng 2.3: Năng suất lúa từ năm 1981 đến năm 1985 ...............................................93
Bảng 2.4: Sản lượng màu lương thực trong những năm 1981-1985 ........................95
Bảng 2.5: Diện tích gieo trồng màu lương thực trong từ năm 1981 đến năm 1985 ......95
Bảng 2.6: Diện tích và sản lượng cây công nghiệp hàng năm trong 5 năm
1981-1985 ................................................................................................97
Bảng 2.7: Chăn nuôi gia súc gia cầm trong từ năm 1981 đến năm 1985 ...............103
Bảng 2.8: Sản lượng thịt hơi xuất chuồng trong từ năm 1981 đến năm 1985 ........103


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975),
dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập, thống nhất, đi lên
chủ nghĩa xã hội. Hơn lúc nào hết, cả đất nước cần tiếp tục nêu cao tinh thần đồn
kết, ý chí quật cường trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh việc duy trì khả
năng quân sự, kinh tế được Đảng xác định là mặt trận quan trọng hàng đầu trong
những năm tiếp theo, chỉ có phát triển kinh tế, cải thiện đời sống cho nhân dân thì
mới có thể tăng cường vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Với đặc thù của
một đất nước có truyền thống nơng nghiệp lâu đời, trong giai đoạn lịch sử mới này
kinh tế nơng nghiệp có vị trí chiến lược trong sự nghiệp phát triển kinh tế, góp phần
quan trọng bảo vệ nền độc lập mới giành được của dân tộc.
Trải qua thực tiễn lịch sử đấy tranh của dân tộc chống giặc ngoại xâm (19451975), nông nghiệp, nông dân và nông thôn chứng minh sứ mệnh vẻ vang của “hậu
phương lớn đối với tiền tuyến lớn”. Thực hiện lời dạy của Hồ Chí Minh “ruộng rẫy
là chiến trường, quốc cày là vũ khí, nhà nơng là chiến sĩ, hậu phương thi đua với
tiền phương” cùng với những phong trào tiêu biểu như “hũ gạo ni qn”; “thóc
khơng thiếu một cân, qn khơng thiều một người”... đã góp phần quan trọng vào
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành lại hồ
bình, thống nhất đất nước.
Trong những năm tháng chiến tranh, nhân dân miền Bắc vừa xây dựng
chủ nghĩa xã hội vừa làm nhiệm vụ của hậu phương lớn vừa phải trực tiếp chống

lại hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ nên “quá trình tiến lên sản
xuất lớn bị chậm lại vài ba kế hoạch 5 năm”. Vì thế, kinh tế miền Bắc chủ yếu
vẫn là sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, cơ chế quản lý vốn nặng về tập trung
quan liêu bao cấp, lại bị chi phối thêm bởi quy luật chiến tranh nên càng bị méo
mó, phi kinh tế. Sau năm 1975, chiến tranh kết thúc, cơ chế quản lý kinh tế bộc
lộ rõ hơn những bất cập của nó. Quan hệ sản xuất có dấu hiệu của sự khủng
hoảng. Do vậy, việc chấn chỉnh lại cơ chế quản lý kinh tế cho phù hợp với quy
luật vận động là một vấn đề hết sức khó khăn.

1


Đối với miền Nam, dưới tác động của chính sách thực dân kiểu mới, yếu tố
tư bản chủ nghĩa đã xâm nhập mạnh vào các ngành công nghiệp, thương nghiệp, tài
chính ngân hàng... và bước đầu xuất hiện trong nơng nghiệp. Trong chừng mực nhất
định, kinh tế ở các vùng bị tạm chiếm đã phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa.
Tuy nhiên, kinh tế miền Nam chủ yếu vẫn là sản xuất nhỏ, cơ cấu mất cân
đối và lệ thuộc nặng nề vào viện trợ bên ngoài.
Trong những năm tháng khó khăn của thời kỳ khơi phục đất nước sau chiến
tranh (1975-1985), dưới sự lãnh đạo của Đảng, kinh tế nơng nghiệp đã phấn đấu
vượt qua khó khăn đi tiên phong trong công cuộc khôi phục, xây dựng đất nước và
chuẩn bị nền tảng quan trọng để Đổi mới nền kinh tế.
Tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội là nguyện vọng của nhân dân, mục tiêu
của Đảng, song cần nhận thức một cách sâu sắc rằng xây dựng chủ nghĩa xã hội và
đổi mới vì mục tiêu xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp mới mẻ có nhiều khó khăn, phức
tạp chưa có tiền lệ trong lịch sử dân tộc vì vậy cần xác định vừa làm vừa tìm tịi
khảo nghiệm. Kinh tế nơng nghiệp của đất nước còn nhiều tiềm năng để phát triển
tuy nhiên thực tiễn thể hiện sự trì trệ, lỗi thời, kém hiệu quả trong sản xuất của nền
kinh tế này. Hơn lúc nào hết, thời điểm sau khi nước nhà thống nhất, kinh tế nơng
nghiệp cần có sự thay đổi trong cách lãnh đạo, quản lý và tổ chức sản xuất. Nếu

xem xét thực chất của vấn đề, nhìn nhận một cách lịch sử và biện chứng, có thể thấy
rằng, chưa từng có trong lịch sử một phương thức sản xuất mới nào có thể hồn
thiện được ngay mà khơng trải qua nhiều thất bại, nhiều sai lầm. Lê-nin cho rằng,
trong sự nghiệp mới mẻ, khó khăn, vĩ đại như thế, khơng thể vì e ngại khuyết điểm,
sai lầm, thiếu sót mà khơng dám thay đổi, điều quan trọng là từ thực tiễn phát triển
kinh tế nơng nghiệp nói riêng và xây dựng đất nước theo hướng xã hội chủ nghĩa
trong những năm 1975-1985 để tìm ra mơ hình tổ chức đúng đắn và phù hợp với
hoàn cảnh của đất nước trong giai đoạn tiếp theo.
Trong giai đoạn thử nghiệm con đường mới đầy thử thách này, với bản lĩnh
chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng, Đảng lãnh đạo toàn
dân tộc bước vào những trang sử mới. Để kinh tế nông nghiệp Việt Nam bước ra từ
trong chiến tranh, với cơ chế quản lý trì trệ, lạc hậu, ruộng đất thì nhiều nhưng đời
sống của người dân phải chạy xi, chạy ngược lo miếng ăn hàng ngày có thể vươn

2


lên phát triển, đảm bảo đời sống hàng ngày cho nhân dân và tiến đến trở thành bộ
phận quan trọng của nền kinh tế. Do vậy Đảng xác định, cải cách kinh tế được bắt
đầu trong lĩnh vực nông nghiệp. Bằng nhiều chính sách và biện pháp cụ thể, vai trị
của kinh tế nơng nghiệp trong cơ câu kinh tế quốc dân dần được xác lập, thực hiện
bố trí nhân lực, tài chính để vực dậy nền nơng nghiệp đang suy thoái. Tiêu biểu cho
những cố gắng này là vào tháng 01/1981 Đảng ra Chỉ thị 100/BCHTW với nội dung
cơ bản là khốn sản phẩm trong nơng nghiệp đến nhóm và người lao động. Đến Đại
hội Đảng lần thứ V (3/1982) Đảng đã thông qua kế hoạch 5 năm lần thứ III (19811986) với nội dung nổi bật là tập trung phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là
mặt trận hàng đầu và ra sức đẩy mạng công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, phát
triển kinh tế nhiều thành phần… Những cải cách trên đây là tiền đề quan trọng định
hình phương hướng tổ chức, phát triển của nền nơng nghiệp trong bối cảnh và bước
đầu mang lại một số kết quả khả quan tuy nhiên chưa chủ để tạo nên một cuộc cách
mạng trong sản xuất nghiệp.

Cho đến nay, nông nghiệp vẫn là một trong những ngành sản xuất vật chất cơ
bản của xã hội cung cấp nhiều loại sản phẩm thiết yếu cho đời sống xã hội và tạo
nên tích luỹ ban đầu cho sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước. Phát triển nông
nghiệp là một vấn đề phức tạp vì nó sẽ liên quan đến nhiều ngành, nhiều chính sách
và có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến khu vực nông thôn và đời sống của
người dân nông thôn. Đến nay, Việt Nam vẫn là một nước có nền kinh tế chủ yếu là
sản xuất nơng nghiệp. Hiện có khoảng 70% dân số, 57% lao động sinh sống và làm
việc ở khu vực nông thôn và chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp, khu vực này
đóng góp tới 20% trong tổng thu nhập quốc nội (GDP). Vì vậy, phát triển nơng
nghiệp hơn lúc nào hết vẫn giành được sự quan tâm to lớn của Đảng và Nhà nước.
Việc đề ra chính sách đúng đắn về định hướng phát triển kinh tế nông nghiệp hiện
nay là điều kiện quan trọng hàng đầu để có thể phát triển ngành kinh tế này theo
đúng tiềm năng vốn có của nó.
Việc tìm hiểu chủ trương, chính sách của Đảng đối với kinh tế nơng nghiệp
trong vịng 10 năm từ 1975 đến 1985 là việc làm cần thiết, có ý nghĩa quan trọng
nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm bổ ích trong q trình Đảng lãnh đạo phát
triển kinh tế - xã hội nói chung và giải quyết các vấn đề phát triển kinh tế nông

3


nghiệp nói riêng, để áp dụng vào tình hình thực tiễn hiện nay. Mặt khác, đây là giai
đoạn tiền đề có ý nghĩa bản lề quan trọng đối với cơng cuộc Đổi mới toàn diện được
tiến hành bắt đầu từ 1986 và tiếp tục thực hiện trong giai đoạn hiện nay.
Chính vì những lý do trên nên tơi đã chọn đề tài: “Đảng lãnh đạo kinh tế
nông nghiệp từ năm 1975 đến 1985” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ của mình. Trong
vịng hơn 10 năm này, bên cạnh những thuận lợi khơng thể phủ nhận, cả nước
cịn gặp nhiều khó khăn: các vấn đề hậu chiến nặng nề, khả năng của một dân tộc
với nền độc lập còn non trẻ, sự chi phối của các mối quan hệ quốc tế… đặt đất
nước vào hoàn cảnh tương đối đặc biệt. Do đó, việc nghiên cứu về những năm

tháng này, cụ thể trong một lĩnh vực là kinh tế nông nghiệp, giúp chúng ta nhận
thức được về năm tháng lịch sử mà vẫn hay được nhắc đến với tên gọi “thời bao
cấp”. Đây khơng chỉ là đề tài mang tính lý luận mà cịn có ý nghĩa thực tiễn sâu
sắc đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi kinh tế nơng nghiệp vẫn là ngành
đóng vai trị quan trọng trong tồn bộ nền kinh tế của Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
Ở trong nước, cho tới nay, đã có khá nhiều tác giả và cơng trình nghiên cứu
về tình hình kinh tế Việt Nam nói chung và tình hình kinh tế nơng nghiệp nói riêng.
Tiêu biểu có thể kể đến một số cơng trình nghiên cứu sau, có thể phân chia theo
mức độ có liên quan đến đề tài:
Những cơng trình nghiên cứu có đề cập đến sự phát triển của kinh tế nông
nghiệp trong một giai đoạn cụ thể:
Tác giả Nguyễn Sinh Cúc có cuốn Nơng nghiệp Việt Nam 1945 – 1995, Nxb,
Thống kê, Hà Nội, năm 1995, cung cấp những thông tin về điều kiện sản xuất, quan
hệ sản xuất, lực lượng sản xuất, kết quả và hiệu quả kinh tế của cả nước, từng vùng,
từng địa phương từ năm 1945 đến năm 1995 trong lĩnh vực nơng nghiệp.
Tác giả Đinh Thị Thu Cúc có bài viết: “Nội dung chủ yếu các thời kỳ phát
triển của nông nghiệp Việt Nam kể từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945”, tạp chí
Nghiên cứu lịch sử, số 4-2000 trình bày khái qt về tình hình kinh tế nơng nghiệp,
sự chuyển biến cơ cấu kinh tế, bước phát triển của nông nghiệp trải qua các thời kỳ
1945-1957; 1958-1988; 1988-2000.

4


Tác giả Bùi Huy Đáp với tác phẩm Nông nghiệp Việt Nam từ cội nguồn đến
Đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 1996, trình bày quá trình phát triển
nông nghiệp Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử; những truyền thống và kinh
nghiệm làm nông nghiệp, sự đổi mới (cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của nền nông
nghiệp Việt Nam).

Đặng Phong (Chủ biên): Lịch sử Kinh tế Việt Nam 1945-2000, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội, 2002, Tập 1: tập trung nghiên cứu, phân tích tình hình kinh tế
Việt Nam nói chung trong đó có kinh tế nông nghiệp trong những năm 1945-1954.
Đào Văn Tập (chủ biên) (1990), trong cơng trình 45 năm kinh tế Việt Nam
(1945-1990), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội xuất bản năm 1990 tập trung nghiên
cứu tình hình, chính sách và triển vọng kinh tế Việt Nam trải qua 45 năm xây dựng
và phát triển nền cơng nghiệp, nơng nghiệp, tài chính, giáo dục…
- Những cơng trình có đề cập đến sự lãnh đạo của Đảng, Đảng bộ địa phương
với kinh tế nơng nghiệp:
Tác giả Nguyễn Văn Bích có cuốn Chính sách kinh tế và vai trị của nó đối
với phát triển kinh tế nơng nghiệp, nơng thơn Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 1996 đã chỉ ra vai trò của chính phủ và chính sách kinh tế đối với nông
nghiệp, nông thôn Việt Nam; tác phẩm đã đề cập đến chính sách phát triển nơng
nghiệp Việt Nam trong thời kỳ đổi mới; tiềm năng và những vấn đề đặt ra đối với
kinh tế nông thôn.
Tác giả Vũ Quang Hiển (chủ biên) với tác phẩm Đảng với vấn đề nông dân,
nơng nghiệp và nơng thơn (1930-1975), Nxb. Chính trị quốc gia xuất bản năm 2013
đã tái hiện bức tranh kinh tế xã hội giai đoạn 1930-1975, trong đó đi sâu phân tích
chủ trương, chính sách của Đảng đối với nơng dân, nơng nghiệp, nơng thơn; từ đó
rút ra những nhận xét, bài học kinh nghiệm trong việc tiếp tục phát huy vị trí, vai trị
dân dân, nơng thơn và nơng nghiệp trong những năm hiện nay.
Bên cạnh đó cịn một số tác phẩm khác: Ban Dân vận Trung ương: Một số
vấn đề về công tác vận động nông dân ở nước ta hiện nay, Nxb, Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2000; Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Những sự kiện lịch sử
Đảng, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1976, T1; Nguyễn Khánh Bật (Chủ biên): Tư tưởng
Hồ Chí Minh về các vấn đề nông dân, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội, 2001; Phan Đại

5



Doãn, Nguyễn Quang Ngọc (Chủ biên): Kinh nghiệm tổ chức và quản lý nông thôn
Việt Nam trong lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994; Lâm Quang Huyên:
Vấn đề ruộng đất ở Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002;…
Về cơ bản, những cơng trình nghiên cứu trên đã phác họa nên được bức tranh
kinh tế nông nghiệp của Việt Nam và chủ trương phát triển nơng nghiệp của Đảng.
Tuy nhiên chưa có cơng trình nghiên cứu nào tập trung làm rõ chủ trương, chính
sách của Đảng với nông nghiệp trong những năm từ 1975-1985: khi đất nước thời
hậu chiến và tiền đổi mới với nhiều khó khăn và thử thách.
Những cơng trình nghiên cứu, bài viết tạp chí của các nhà nghiên cứu đi
trước đã giúp đỡ tơi rất nhiều trong q trình thực hiện đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ thêm sự lãnh đạo của Đảng với kinh tế nông nghiệp trong những
năm từ 1975-1985
- Góp phần tổng kết và rút ra một số bài học kinh nghiệm phục vụ cho việc
xác định phương hướng xây dựng và phát triển kinh tế nông nghiệp trong tình hình
hiện tại
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Trình bày được hoàn cảnh lịch sử và những chủ trương của Đảng Cộng sản
Việt Nam với kinh tế nông nghiệp trong những năm 1975-1985.
- Trình bày những hoạt động cụ thể trong thực tiễn của Đảng trong lĩnh vực
nông nghiệp và những kết quả cụ thể đã đạt được.
- Đánh giá những ưu điểm và nhược điểm của Đảng trong lãnh đạo nơng
nghiệp từ năm 1975 đến năm 1985, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho lãnh
đạo kinh tế nông nghiệp giai đoạn hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là:
- Những chủ trương, chính sách và và q trình thực hiện những chủ trương,
chính sách đó trong thực tiễn của Đảng với kinh tế nơng nghiệp; những thành công


6


và hạn chế của Đảng trong lãnh đạo kinh tế nơng nghiệp giai đoạn này từ đó rút ra
những bài học kinh nghiệm cho hiện tại.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Điều kiện lịch sử chi phối trong những năm 1975-1985.
- Nhưng kết quả cụ thể khi thực hiện những chủ trương, chính sách của Đảng
với kinh tế nơng nghiệp cả những thành công và hạn chế trong những năm 1975-1985.
- Vấn đề nông nghiệp được đề cập đến trong luận văn tập trung chủ yếu ở
lĩnh vực trồng trọt và chăn ni, bên cạnh đó cịn có một số vấn đề khác như: quản
lý, phân phối, cải tạo.
- Luận văn cũng đặt kinh tế nông nghiệp xem xét trong cơ cấu kinh tế chung:
mối quan hệ nông nghiệp và công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ: phân bố nguồn
lực, tài chính, vị trí trong nền kinh tế nói chung…
Sở dĩ đề tài chỉ giới lấy mốc 1975 là mốc bắt đầu vì đây là năm đất nước
thống nhất, cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và mốc kết thúc là năm 1985 là năm trước khi đất nước tiến hành đổi mới.
5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tài liệu
- Các sách lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin
- Các văn kiện Đảng trong những năm 1975-1985
- Các sách chuyên đề, báo, tạp chí đã xuất bản về vấn đề kinh tế nông nghiệp
những năm 1975-1985
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu được sử dụng chủ yếu là phương pháp lịch sử và
phương pháp logic
- Mặt khác, luận văn còn sử dụng các phương pháp: phương pháp phân tích,
so sánh, tổng hợp.
6. Đóng góp của đề tài

- Góp phần trình bày và phân tích vai trị của Đảng trong q trình chỉ đạo và
đề ra những chủ trương, đường lối trong phát triển kinh tế nông nghiệp của đất nước
những năm 1975-1985.

7


- Trình bày những thành tựu kinh tế nơng nghiệp dưới sự lãnh đạo của Đảng
từ năm 1975-1985
- Rút ra một số bài học kinh nghiệm trong quá trình Đảng chỉ đạo phát triển
kinh tế nơng nghiệp
7. Bố cục:
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo luận văn gồm có 3 chương.
- Chương 1: Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng đối với nền kinh tế nông
nghiệp từ năm 1975-1980
- Chương 2: Đảng lãnh đạo kinh tế nông nghiệp từ 1981 đến 1985
- Chương 3: Nhận xét và kinh nghiệm

8


CHƢƠNG 1
CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI
NỀN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TỪ NĂM 1975-1980
1.1. Những nhân tố ảnh hƣởng đến sự phát triển của kinh tế nông
nghiệp ở Việt Nam và chủ trƣơng của Đảng
1.1.1 Những nhân tố ảnh hưởng tới ngành nông nghiệp
Điều kiện tự nhiên
Việt Nam có vị trí địa lý nằm trọn trong vùng nhiệt đới ẩm gió mùa với nền
nhiệt độ cao và tương đối ổn định, đường bờ biển dài hơn 3000km, vùng biển rộng

lớn với diện tích hàng triệu km2, hàng năm, đã cung cấp độ ẩm cho cây cối phát
triển quanh năm. Cộng thêm với vị trí nằm ở cửa ngõ của khu vực, Việt Nam là nơi
trung chuyển và gặp gỡ của nhiều luồng di cư động thực vật nên tài nguyên sinh vật
và nguồn gen tự nhiên hết sức phong phú, có đường biên giới giáp với nhiều nước
điều này tạo thuân lợi cho việc xuất khẩu các sản phẩm nông sản được dễ dàng và
thuận tiện.
Đất đai là tư liệu sản xuất không thể thiếu trong nơng nghiệp. Ở Việt Nam có
14 loại đất chia làm hai nhóm đất chính là đất đồng bằng và đất miền núi.
Đất đồng bằng với diện tích đất phù sa là chủ yếu chiếm 3 triệu hécta tập
trung chủ yếu ở Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long và các đồng
bằng nhỏ hẹp ven biển miền Trung, thuận lợi cho việc trồng lúa, cây rau màu.
Bên cạnh đó, cịn có một diện tích nhỏ đất già mùn thuận lợi cho việc trồng
cây lương thực thực phẩm, cây ăn quả. Đất phèn chiếm hơn 2,1 triệu hécta, đất mặn
khoảng 1 triệu hécta, thích hợp để trồng cói, trồng lúa kết hợp nuôi tôm.
Đất miền núi chủ yếu là đất feralit. Loại đất feralit hình thành trên đá badan,
giàu NPK, tơi xốp, tầng đất dày, nhiều dinh dưỡng thuận lợi trồng cây công nghiệp
dài ngày như: cà phê, cao su, điều… và cây cơng nghiệp ngắn ngày. Đất feralit hình
thành trên đá phiến kết hợp với khí hậu núi cao thích hợp với trồng chè, cây dược
liệu, cây lấy dầu như: sơn, trẩu, hồi…
Khí hậu nhiệu nhiệt đới gió mùa mang lượng mưa lớn từ 1500mm/năm đến
2000mm/năm, độ ẩm trên 80%/năm, nhiệt độ trung bình từ 22 đến 250C, tổng lượng

9


bức xạ mặt trời lớn từ 120 đến 130kcl/cm2/năm, lượng bức xạ lớn, lượng ánh sáng
dồi dào, nguồn nhiệt ẩm phong phú cho cây trồng sinh trưởng, phát triển quanh năm
và năng suất cao. Với khí hậu nóng ẩm, cây ngắn ngày có thể tăng thêm từ 1-2
vụ/năm, cây dài ngày có thể khai thác được nhiều đợt, nhiều lứa.
Trên địa bàn cả nước đều có nguồn nước phong phú cả về nước mặt và nước

ngầm. Cả nước có tới 2360 con sơng có chiều từ 10km trở lên là nguồn cung cấp
nước tưới dồi dào cho nông nghiệp.
Nguồn nước ngầm cho trữ lượng khai thác đã thăm dò 6-7 tỉ m3/ năm có vai
trị đặc biệt quan trọng cung cấp nước cho nơng nghiệp vào mùa khơ (ví dụ như tại
các vùng chuyên canh Đông Nam Bộ và Tây Nguyên).
Ngoài đất, nước, nguồn thực vật tự nhiên cũng ảnh hưởng đến sự phát triển và
phân bố của nông nghiệp. Đây chính là nguồn gen để lai tạo các chủng loại cây trồng
làm phong phú giống cây trồng nông nghiệp. Bên cạnh đó, với diện tích đồng cỏ lớn
là nguồn thức ăn tự nhiên và cũng là yếu tố quan trọng chi phối ngành chăn nuôi.
Bên cạnh những yếu tố thuận lợi, điều kiện tự nhiên cũng mang đến những
khó khăn cho sản xuất nơng nghiệp. Khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa gây nhiều trở
ngại cho sản xuất nơng nghiệp như nhiều bão lũ, hạn hán. Với nền nhiệt và độ ẩm
cao là điều kiện thuận lợi cho sâu bệnh phát triển quanh năm. Miền Bắc có mùa
đơng lạnh, sương muối, sương giá ảnh hưởng tới sự sinh trưởng và phát triển của
vật nuôi, cây trồng. Khả năng mở rộng diện tích nơng nghiệp rất khó khăn do việc
ngày càng mở rộng diện tích đất chun dụng, đất cơng nghiệp và đất ở. Đất đai bị
khai thác và sử dụng q mức dẫn đến có một diện tích lớn đất đai đang trong tình
trạng bạc màu và suy thối. Ở miền núi, tình trạng đất đai bị rửa trơi, xói mịn diễn
ra phổ biến. Bên cạnh đó, nguồn nước phân bố khơng đều theo khơng gian, thời
gian gây khó khăn lớn với hoạt động sản xuất nông nghiệp. Ở một số nơi, mùa khô
thiếu nước, mùa mưa ngập úng khiến cho sản xuất bấp bênh. Chất lượng nguồn
nước mặt ở một số sông, hồ đang bị ô nhiễm nghiêm trọng ảnh hưởng đến sản xuất
nông nghiệp. Ở ven biển, nước mặn có chiều hướng tiến sâu vào đất liền, lấn chiếm
vào diện tích đất nơng nghiệp, gây tốn kém chi phí để thau chua rửa mặn. Đặc biệt,
ở ven biển miền Trung có hiện tượng cát bay làm thu hẹp diện tích đất nơng nghiệp.

10


Điều kiện kinh tế - xã hội có ảnh hưởng lớn tới sự phát triển và phân bố

nông nghiệp
Dân cư và lao động vừa là lực lượng sản xuất trực tiếp vừa là nguồn tiêu thụ
nơng sản. Việt Nam có dân số đông, kết cấu dân số trẻ cung cấp nguồn lao động dồi
dào cho sản xuất nông nghiệp, với lực lượng lao động hàng chục triệu người.
Đất nước thống nhất tạo ra những điều kiện thuận lợi cho nền sản xuất nhỏ
lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa (theo quy luật) được nhanh hơn và vững chắc hơn.
Việc thống nhất đất nước đòi hỏi và tạo những điều kiện cho phép nghiên cứu và áp
dụng một chế độ quản lý mới kết hợp kế hoạch hoá và thị trường, kết hợp việc
thống nhất và tập trung điều khiển trong cả nước với việc phát huy sáng kiến của
địa phương và cơ sở. Chế độ ấy sẽ tạo ra những động lực cần thiết để hướng nền
kinh tế vào những mục tiêu chiến lược, sử dụng hợp lý nhất lao động và tài nguyên
của đất nước, tăng năng suất lao động xã hội và nâng cao chất lượng sản phẩm, vừa
phát huy nhanh tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội, vừa khắc phục được những tàn
tích và những yếu tố tiêu cực của nền kinh tế thực dân mới sống bám vào chiến
tranh. Tạo ra khơng khí phấn khởi cho nhân dân, hịa mình vào bầu khơng khí thắng
lợi của đất nước, ra sức thi đua sản xuất tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Bên cạnh đó, nền nơng nghiệp cịn chịu ảnh hưởng từ cơ chế quản lý và
thành tựu kinh tế từ giai đoạn trước. Trước năm 1975 đất nước bị chia cắt thành hai
miền Bắc – Nam với hai chế độ chính trị khác nhau, hai cơ chế quản lý kinh tế khác
nhau và tạo nên hai diện mạo kinh tế khác nhau.
Nền nông nghiệp hợp tác hóa miền Bắc đã có những đóng góp cho sự phát
triển kinh tế nói chung và nơng nghiệp nói riêng trong những năm 1975-1985. Tuy
vậy, cho đến năm 1975 thì nơng nghiệp miền Bắc vẫn chỉ là một nền nông nghiệp
“sinh tồn” (tự cung tự cấp) là chủ yếu. Sự trở lại trạng thái bình thường của nền
kinh tế sau chiến tranh làm cho người nông dân thấy không thể tiếp tục chịu đựng
nổi cơ chế quản lý cũ nữa. Tình trạng tham ơ, lãng phí, chiếm dụng tài sản của tập
thể ngày càng nghiêm trọng. Nông nghiệp khơng đảm bảo được nhu cầu lương thực,
do đó Nhà nước phải nhập một khối lượng lương thực rất lớn (năm 1975 nhập
1.055.000 tấn). Thêm vào đó, trình độ quản lý quá yếu kém của cán bộ đã làm cho
nền nông nghiệp miền Bắc phải chịu những tổn thất nặng nề. Phong trào hợp tác

hóa miền Bắc đứng trước một cuộc khủng hoảng toàn diện.
11


Miền Nam có diện tích canh tác lớn hơn miền Bắc, lại còn hàng triệu hécta
đất màu mỡ, tương đối bằng phẳng với khí hậu rất thuận hồ, có thể khai phá nhanh
để trồng trọt và dễ dàng cho năng suất cao. Thống nhất đất nước, mang lại cho đất
nước cơ hội đưa diện tích canh tác trong cả nước lên gấp đơi trong một thời gian
tương đối ngắn, đó là một thuận lợi đặc biệt đối với việc phát triển nông nghiệp.
Với đất đai của cả nước, không những có thể mở rộng diện tích trồng lúa mà cịn có
thể dành những vùng khá lớn để trồng ngơ, mía, bông, cao su, dừa, rau, hoa quả
nhiệt đới, chăn nuôi bị, trâu và gia cầm trên quy mơ lớn.
Dưới chế độ cai trị của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, tháng 3-1970 sắc
lệnh “Người cày có ruộng” được ban hành. Trong khu vực trồng lúa và hoa màu
phụ, về cơ bản, chế độ sở hữu ruộng đất theo kiểu phong kiến, bao gồm chế độ đại
sở hữu – một trong những đặc trưng của tình trạng chiếm hữu ruộng đất ở các tình
đồng bằng Nam bộ đã bị tàn lụi và thay vào đó là sở hữu nhỏ về ruộng đất của
những người tiểu nơng. Nhiều tàn tích của quan hệ bóc lột phong kiến trong nơng
thơn vẫn cịn tồn tại cho đến trước ngày miền Nam hồn tồn giải phóng.
Sự chuyển biến về hình thức sở hữu ruộng đất có ý nghĩa tích cực đối với sự
phát triển sản xuất nơng nghiệp, lực lượng sản xuất đã thốt khỏi quan hệ sản xuất
cũ, phần lớn đất đai trở về với người trực tiếp sản xuất theo quy mô từng gia đình;
cơ sở vật chất kỹ thuật cho nơng nghiệp được tăng cường, đặc biệt là cơ giới hóa
nơng nghiệp, máy móc được sử dụng rộng rãi trong các khâu sản xuất, tạo hiệu quả.
Bên cạnh trồng lúa là chính, nơng dân đã trồng thêm nhiều hoa màu và cây lâu năm.
Xu hướng đa canh ngày càng phát triển. Ngay trong vùng nơng thơn giải phóng, thu
nhập từ lúa cũng có xu hướng giảm trong cơ cấu thu nhập của nông dân. Ngành
chăn nuôi bước đầu phát triển và chiếm tỷ trọng ngày một lớn. Bên cạnh việc chăn
nuôi theo phương thức gia đình, trong ngành chăn ni đã bắt đầu xuất hiện nhiều
nông trại lớn chăn nuôi theo phương pháp cơng nghiệp với quy trình máy móc hiện

đại (tập trung ở Gia Định, Biên Hịa, Bình Dương, Long An).
Những biến đổi đó mới chỉ đạt ở mức đủ để hình thành những nhân tố cơ bản
cho sự khởi đầu một thời kỳ phát triển năng động hơn: một nền nông nghiệp hàng
hóa lấy sở hữu ruộng đất quy mơ nhỏ và hộ gia đình làm đơn vị kinh tế chủ yếu,
một sự tiếp cận bước đầu với tiến bộ khoa học kỹ thuật, loại bỏ dần phương thức

12


canh tác lạc hậu cổ truyển; một mối quan hệ hợp tác, phân công lao động mới đang
nảy nở trong bản thân nông nghiệp, nông thôn và sự liên kết giữa nông thôn, nông
nghiệp với đô thị và các ngành kinh tế quốc dân khác thông qua cơ chế thị trường.
Như vậy, vào thời điểm Đảng quyết định đưa cả nước cùng đi lên chủ nghĩa
xã hội, nền nông nghiệp của cả miền Nam và miền Bắc đều đang đứng trước sự tìm
tịi, lựa chọn phương hướng phát triển tiếp tục đối với mỗi miền, sao cho có thể đẩy
mạnh sản xuất, nâng cao được đời sống nhân dân và làm cho nơng nghiệp thực sự
đóng vai trị là cơ sở của cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Thực tế đã chứng tỏ
rằng cả hai miền đều nỗ lực phấn đấu nhưng đều vấp phải rất nhiều khó khăn trên
con đường phát triển tiếp theo của mình. Sự sa sút của sản xuất nông nghiệp trên cả
nước trong thời kỳ trước năm 1975 khơng phải chỉ vì mơ hình tổ chức sản xuất
khơng phù hợp mà cịn vì tác động nặng nề của chiến tranh. Những thành tựu và
hạn chế trong kinh tế nông nghiệp thời gian này tạo điều kiện cho kinh tế nơng
nghiệp có những bước phát triển mới trong thời kỳ sau – thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
1.1.2. Chủ trương phát triển nông nghiệp của Đảng
Trong bối cảnh đất nước cịn nhiều khó khăn, để vực dậy nền nông nghiệp
đang tụt hậu, yếu kém, Đảng đã đề ra những chủ trương cụ thể, kịp thời. Chỉ thị của
Bộ Chính trị, số 229-CT, ngày 20 tháng 1 năm 1976 “Về một số chủ trương cấp
bách ở miền Nam” đã xác định “Để giải quyết khó khăn trong kinh tế, mau chóng
ổn định đời sống nhân dân, tạo ra sự lành mạnh về xã hội, thì vấn đề căn bản là phải

đẩy mạnh sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp,
ngư nghiệp, ra sức khôi phục và phát triển kinh tế, giải quyết từng bước nạn thất
nghiệp, hướng chính là đưa phần lớn người khơng có việc làm về nơng thơn lập
nghiệp lâu dài.”[22;31]
Tiếp đó, trong Điện của Ban Bí thư số 20, ngày 25 tháng 1 năm 1976 về thực
hiện chính sách ruộng đất và hợp tác hóa nơng nghiệp đã nhận định ruộng đất ở
miền Nam những năm qua bị xáo trộn nhiều lần, vì vậy để đồn kết nơng thơn và
khơi phục sản xuất thì việc điều chỉnh ruộng đất là điều cần thiết. Đối với ruộng đất
công cần có sự điều chỉnh sao cho phù hợp giữa các hộ gia đình trên tinh thần bàn
bạc thỏa thuận, tránh sự xáo trộn, cần tiến hành chia lại ruộng đất trên cơ sở phân

13


tích rõ nguồn gốc của từng loại ruộng đất, tránh sự vội vãn, chồng chéo, thiếu công
bằng, gây mâu thuẫn trong nội bộ những người nơng dân.
Về hợp tác hố nông nghiệp, Đảng chủ trương trong những năm đầu sau giải
phóng “chỉ nên tập trung làm thí điểm cho tốt để rút kinh nghiệm, vận động nhân
dân tổ chức vần công, đổi công và ra sức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở”[22;52].
Để giải quyết vấn đề lương thực thực phẩm cấp bách trước mắt, trong Điện
của Ban Bí thư Số 25, ngày 5 tháng 2 năm 1976, về việc lãnh đạo đẩy mạnh sản xuât
lương thực trong cả nước đã nhìn nhận tình hình cấn đối lương thực năm 1976 cịn có
nhiều khó khăn do vậy “phải tận lực và bằng mọi cách đẩy mạnh sản xuất lương thực
trong cả nước, đặc biệt là hoa màu, lương thực ngắn ngày vụ đông xuân”.[22;57]
Đảng đã chỉ rõ, “vấn đề lương thực có ý nghĩa kinh tế, chính trị to
lớn”[22;60]. Chính vì vậy, tất cả các ngành, các cấp kiểm tra lại tình hình, bàn ngay
kế hoạch thực hiện chủ trương này, theo chức năng và phạm vi phụ trách của mình,
chủ động khắc phụ khó khăn, bàn bạc với các cơ quan có trách nhiệm để giải quyết
các vấn đề cụ thể và báo cáo lên Trung ương những yêu cầu chưa giải quyết được.
Báo cáo chính trị tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội chung cả nước, ngày 25

tháng 6 năm 1976 do Lê Duẩn trình bày đã xác định “Nhiệm vụ trung tâm của cả
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa, đưa nền
kinh tế đất nước tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa”[22;147]. Đường lối xây
dựng kinh tế chủ nghĩa xã hội được Đảng đề ra trong thời kỳ này là: “Ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở ra sức phát triển nông nghiệp và
công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một
cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp hiện đại; vừa xây dựng kinh tế trung ương, vừa
phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương
thành một cơ cấu kinh tế thống nhất; kết hợp kinh tế với quốc phòng; tranh thủ mở
rộng quan hệ kinh tế với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước khác trên cơ sở giữ
vững độc lập, chủ quyền và đơi bên cùng có lợi”[22;147]. Có thể thấy trọng tâm lớn
của Đảng về kinh tế vẫn là phát triển công nghiệp nặng, nông nghiệp và cơng
nghiệp nhẹ có vai trị làm nền tảng cho sự phát triển của công nghiệp. Đây là đường
lối phát triển kinh tế bao trùm lên kế hoạch 5 năm 1976-1980. Trong bối cảnh đất
nước mới thống nhất cịn nhiều khó khăn, nền kinh tế còn lạc hậu, cơ sở vật chất

14


cịn thiếu thốn, đời sống nhân dân cịn nhiều khó khăn trong khi mục tiêu hướng đến
của nền kinh tế là phát triển công nghiệp nặng, tư duy kinh tế của Đảng trong thời
điểm này còn mang nặng tư tưởng giáo điều chưa có sự nhận thức phù hợp với thực
tiễn đất nước.
Đến Nghị quyết của Bộ Chính trị số 254-NQ/TƯ ngày 15 tháng 7 năm 1976
đã nhận định rằng: ở nơng thơn, chưa triệt để xố bỏ các tàn dư của chế độ phong
kiến về ruộng đất, chưa giải quyết xong những tranh chấp về ruộng đất trong nông
dân và chưa đề ra phương hướng từng bước tiến lên hợp tác hố nơng nghiệp và sản
xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Do vậy Đảng chủ trương: “Đẩy mạnh khôi phục và phát
triển sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và thủ công nghiệp, cải tiến các hoạt động
lưu thông, phân phối, phát triển mạnh thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, kiên quyết

chống đầu cơ, tích trữ, ổn định thị trường, tiếp tục ổn định đời sống của nhân dân.
Trước mắt, tất cả các cấp, các ngành phải tập trung sức phát động một phong trào
lao động thật mạnh mẽ, sâu rộng từ nông thôn đến thành thị, để đẩy mạnh hơn nữa
sản xuất, nhất là đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp toàn diện; trước hết giải quyết cho
được vấn đề lương thực và thực phẩm, sớm bảo đảm vững chắc nhu cầu lương thực
cho miền Nam và góp phần tích cực vào việc cân đối lương thực trong cả
nước.”[22;214]
Tại Đại hội toàn quốc lần thứ IV, 12-1976 nhận thức về kinh tế của Đảng có
sự thay đổi, từ chỗ “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng” Đảng đã xác định “ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý”, hướng đến xây dựng một cơ cấu kinh
tế công – nông nghiệp, điều này thể hiện nhận thức về vị trí của nơng nghiệp dần
được xác lập trong tư duy kinh tế của Đảng.
Trong Báo cáo Chính trị do Lê Duẩn trình bày tại Đại hội Đại biểu tồn quốc
lần thứ IV xác định đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn
mới: “Đẩy mạnh cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn
xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở
phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông
nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp…”[22;524]
Cũng trong Báo cáo cũng đã xác định nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch 5 năm

15


1976-1980: “Tập trung cao độ sức của cả nước, của các ngành, các cấp tạo ra một
bước phát triển vượt bậc về nông nghiệp; ra sức đẩy mạnh lâm nghiệp, ngư nghiệp;
phát triển công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm”[22;527]. Đối với nông
nghiệp trong 5 năm này: “Phát triển tồn diện cả trồng trọt và chăn ni, đẩy mạnh
lâm nghiệp, ngư nghiệp theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, nhằm sớm bảo
đảm đủ lương thực, thực phẩm cho tồn xã hội và có lương thực dự trữ, cung cấp

nguyên liệu cho công nghiệp, tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu”.[22;541]
Tóm lại, kế hoạch 5 năm đầu tiên sau ngày đất nước thống nhất Đảng đặt
nhiệm vụ kết hợp phát triển công nghiệp với nông nghiệp trong một cơ cấu kinh tế
thống nhất, trên phạm vi cả nước và trên địa bàn từng địa phương, đây là bước đi
hợp lý; tất nhiên, trong quá trình thực hiện phải tuỳ điều kiện địa lý và tài nguyên
thiên nhiên từng nơi, mà kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và lâm nghiệp, hoặc
kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và ngư nghiệp.
Ở miền Nam, trong hai năm, kể từ sau ngày giải phóng, cùng với việc khắc
phục những hậu quả chiến tranh và xây dựng mọi mặt Đảng đã có nhiều cố gắng chỉ
đạo giải quyết có kết quả một số vấn đề cấp bách trong nông nghiệp.
Để tổ chức lại nền nông nghiệp đi lên hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa,
Đảng chủ trương phải nhanh chóng tổ chức lại sản xuất và đẩy mạnh cải tạo xã hội
chủ nghĩa trong nông nghiệp, gắn với xây dựng và cải tạo chung nền kinh tế; kết
hợp chặt chẽ việc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam và hoàn thiện quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc với việc đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật và tổ chức lại sản xuất nông, lâm nghiệp đi lên theo hướng sản xuất lớn xã hội
chủ nghĩa, xây dựng và hình thành hệ thống nơng nghiệp lớn xã hội chủ nghĩa thống
nhất trong cả nước.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IV một lần nữa chỉ rõ “điều có ý nghĩa
quyết định là phải thực hiện cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa, tạo ra cơ cấu công nông nghiệp hiện đại”, theo đường lối “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một
cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, làm cho công
nghiệp và nông nghiệp kết hợp chặt chẽ thành một thể thống nhất, cùng phát triển
nhịp nhàng lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa và luôn luôn gắn bó với nhau, thúc
đẩy lẫn nhau, phục vụ cho nhau; công nghiệp là nền tảng chủ yếu của nền kinh tế

16


quốc dân, đóng vai trị chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân và nông nghiệp là cơ sở
để phát triển công nghiệp”[22;159].

Dưới ánh sáng của nghị quyết Đại hội IV, đường lối chung xây dựng chủ
nghĩa xã hội và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của Đảng đề ra cụ
thể và phù hợp với điều kiện của đất nước. Đảng chủ trương đẩy mạnh phát triển
nông nghiệp theo một quy mô mới, vừa tận dụng những phương tiện vật chất, kỹ
thuật sẵn có, vừa tranh thủ nhập kỹ thuật tiên tiến ở ngoài, kết hợp chặt chẽ ngay từ
đầu giữa công nghiệp và nông nghiệp, thực hiện một bước cơng nghiệp hố xã hội
chủ nghĩa, xây dựng cơ cấu công - nông nghiệp, phấn đấu “từ nay đến năm 1985
đạt được một chuyển biến cơ bản của nông nghiệp đi lên sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa, với trình độ tập trung hố, chun mơn hố, hiệp tác hóa và liên hiệp hóa ở
mức độ ngày càng cao, với sự phân bố lao động theo lãnh thổ và trong nội bộ
ngành nông nghiệp ngày càng hợp lý, với trang bị kỹ thuật ngày càng hiện đại và có
chế độ sở hữu, chế độ quản lý, chế độ phân phối ngày càng hoàn thiện”[22;164] và
“phải quán triệt nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ q độ là đẩy mạnh cơng
nghiệp hố xã hội chủ nghĩa và trong kế hoạch 5 năm trước mắt phải nắm nhiệm vụ
trọng tâm trước mắt là nông nghiệp”[22;168].
Ở miền Bắc, trong nơng nghiệp, đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm về quản
lý hợp tác xã, phải căn cứ vào những kinh nghiệm ấy để cải tiến quản lý các hợp tác
xã nông nghiệp, đi đôi với phát triển kinh tế trên địa bàn huyện và tăng cường cấp
huyện. Việc xây dựng, tăng cường hợp tác xã sản xuất nông nghiệp phải gắn với xây
dựng huyện, gắn huyện với hợp tác xã trong một cơ cấu chung về sản xuất và quản lý,
song hợp tác xã sản xuất nông nghiệp vẫn là những đơn vị hạch toán độc lập.
Nghị quyết 24 của Trung ương đã chỉ rõ rằng, việc kết hợp cải tạo và xây
dựng phải đưa lại kết quả thiết thực là sản xuất không ngừng phát triển, năng suất
lao động xã hội ngày càng tăng, sản phẩm hàng hoá ngày càng nhiều và đời sống xã
hội ngày càng lành mạnh, tiến bộ, điều kiện sinh hoạt vật chất và văn hố của nhân
dân khơng ngừng được cải thiện. Từ đó Đảng xác định, cơng cuộc cải tạo xã hội chủ
nghĩa đối với nông nghiệp miền Nam phải tiến hành rất khẩn trương, nhanh, gọn,
nhưng phải tiến hành thận trọng, vững chắc, phải nắm chắc tình hình và nghiên cứu
đề ra những chính sách sát hợp, nhất là phải chuẩn bị rất tốt về cán bộ, có quyết tâm


17


cao phát động quần chúng và chuẩn bị những điều kiện cho việc hoàn thành nhanh,
gọn, tốt cuộc vận động hợp tác hố nơng nghiệp trong kế hoạch 5 năm này. Giữa
các vùng khác nhau, tốc độ tiến hành cuộc vận động hợp tác hố nơng nghiệp cũng
có thể có chỗ nhanh, chậm khác nhau, nhưng nói chung, đối với tất cả các vùng, cần
“đưa phong trào hợp tác hoá nông nghiệp ở miền Nam đi ngay vào hiệp tác có
phân cơng, tổ chức ngay những hợp tác xã bậc cao, quy mô hợp lý gắn liền với xây
dựng huyện có cơ cấu nơng - cơng nghiệp gắn liền hợp tác hoá với thuỷ lợi hoá, tổ
chức lại sản xuất và từng bước cơ khí hố.”[23;248]
Chính sách của Đảng với nông nghiệp miền Nam được xác định: “trước mắt
là đưa nông nghiệp miền Nam đi vào sản xuất theo quy hoạch, kế hoạch của Nhà
nước, tăng được năng suất lao động, tăng nhanh sản lượng và nơng sản hàng hố,
tăng phần đóng góp cho Nhà nước, cùng với nền nơng nghiệp của cả nước đáp ứng
được yêu cầu về lương thực thực phẩm, về nguyên liệu cho công nghiệp và hàng
xuất khẩu, từng bước cải thiện đời sống nhân dân và phục vụ đắc lực cho sự nghiệp
cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa nước nhà”[23;394].
Trong Chỉ thị của Ban Bí thư số 15-CT/TW ngày 4 tháng 8 năm 1977 đã có
chủ trương: “Cải tạo xã hội chủ nghĩa nền nông nghiệp ở các tỉnh miền Nam, nhất
là ở Nam Bộ, là việc làm hết sức phức tạp.... Vì vậy, trong cải tạo và xây dựng nông
nghiệp, nhất là trong việc thí điểm, phải có sự chỉ đạo chặt chẽ của các cấp bộ đảng
và chính quyền, có sự phối hợp chặt chẽ của các ngành có liên quan, có sự tập trung
đúng mức cán bộ của cả nước và ra sức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tại chỗ. Phải có
kế hoạch tiến hành khẩn trương nhưng thận trọng để làm tốt và làm nhanh gọn, kịp
thời phát hiện những nhân tố tích cực để phát huy và khắc phục hiện tượng tiêu cực
có thể nảy sinh, bảo đảm cho bằng được mục đích, yêu cầu làm thí điểm, thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ mục tiêu phát triển nông nghiệp đã đề ra trong kế hoạch 5 năm
1976-1980.”[23;399]
Đến Báo cáo của Bộ Chính trị tại Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung

ương khóa IV (từ ngày 6 đến ngày 16 tháng 12 năm 1977) đã một lần nữa khẳng
định chủ trương phát triển nông nghiệp của Đảng trong cả nước đến năm 1980:
“Tập trung cao độ lực lượng của cả nước, của các ngành, các cấp, tạo ra một bước
phát triển vượt bậc về nông nghiệp; ra sức đẩy mạnh lâm nghiệp, ngư nghiệp; phát

18


×