Tải bản đầy đủ (.pdf) (193 trang)

(Luận văn thạc sĩ) quan điểm của chủ nghĩa mác lênin về nhà nước với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.66 MB, 193 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


TRẦN NGỌC LIÊU

QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ
NHÀ NƯỚC VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2009


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


TRẦN NGỌC LIÊU

QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ
NHÀ NƯỚC VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH: CNDVBC&CNDVLS
MÃ SỐ:
62.22.80.05

Hướng dẫn khoa học: PGS. Bùi Thanh Quất

HÀ NỘI - 2009




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 3
NỘI DUNG .............................................................................................................. 14
CHƢƠNG 1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ NHÀ NƢỚC 14
1.1. Quan điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen về nhà nƣớc .................................. 14
1.1.1.Tiếp cận và luận giải vấn đề nhà nước theo quan điểm duy vật biện
chứng về lịch sử............................................................................................... 144
1.1.2. Bản chất của nhà nước.......................................................................... 177
1.1.3. “Nhà nước dân chủ” - hình thức nhà nước cao nhất của nhân dân............. 31
1.2. Quan điểm của V.I. Lênin về nhà nƣớc..................................................................... 34
1.2.1. Bản chất giai cấp của nhà nước ............................................................. 35
1.2.2. Nhà nước chun chính vơ sản ............................................................... 38
1.3. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nhà nƣớc ........................................................................ 46
1.3.1. Nhà nước Việt Nam mới là nhà nước mà quyền lực và quyền lợi đều
thuộc về nhân dân ............................................................................................. 48
1.3.2. Nhà nước Việt Nam mới quản lý xã hội bằng pháp luật, được tổ chức
theo nguyên tắc thống nhất quyền lực .............................................................. 61
CHƢƠNG 2. NHẬN THỨC BẢN CHẤT NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN TRÊN
CƠ SỞ QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ NHÀ NƢỚC ..... 72
2.1. Quan niệm về nhà nƣớc pháp quyền trên thế giới ........................................ 72
2.1.1. Mầm mống tư tưởng về nhà nước pháp quyền trên thế giới ................... 72
2.1.2. Quan niệm tiêu biểu về nhà nước pháp quyền trên thế giới thời cận hiện đại .............................................................................................................. 81
2.1.3. Giá trị và hạn chế của các quan niệm trên thế giới về nhà nước pháp
quyền ................................................................................................................. 94
2.2. Bản chất của nhà nƣớc pháp quyền ......................................................................... 101
2.2.1. Quan niệm của giới khoa học Việt Nam về nhà nước pháp quyền ....... 101
2.2.2. Khái niệm nhà nước pháp quyền .......................................................... 109


1


CHƢƠNG 3. TIẾP TỤC XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM THEO QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC LÊNIN VỀ NHÀ NƢỚC....................................................................................... 124
3.1. Tiếp tục đổi mới tƣ duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nƣớc
pháp quyền ............................................................................................................. 127
3.1.1. Quá trình hình thành và phát triển nhận thức của Đảng Cộng sản Việt
Nam về nhà nước pháp quyền ......................................................................... 127
3.1.2. Thành tựu và những vấn đề đặt ra đối với việc tiếp tục đổi mới tư duy lý
luận của Đảng về nhà nước pháp quyền ......................................................... 136
3.2. Tiếp tục thể chế hóa quyền lực của nhân dân thành pháp luật.......................... 142
3.2.1. Nội hàm khái niệm “nhân dân” ............................................................ 142
3.2.2. Xác định và thể chế hóa quyền lực của nhân dân thành pháp luật............... 147
3.3. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nƣớc và các thiết chế chính trị - xã
hội khác nhằm đảm bảo thực thi quyền lực của nhân dân......................................... 157
3.3.1. Những hạn chế của hệ thống chính trị .................................................. 157
3.3.2. Phương hướng tiếp tục xây dựng và hồn thiện hệ thống các thiết chế chính
trị - xã hội nhằm đảm bảo thực thi quyền lực của nhân dân ............................... 163
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 178
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 182
DANH MỤC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LUẬN ÁN ................................ 191

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh đời sống thực tiễn trong nước và trên thế giới có nhiều thay
đổi to lớn, khiến người ta phải tư duy lại về nhiều vấn đề mà trong thời gian không

xa trước đây tưởng chừng đã trở thành chân lý hiển nhiên, với bản lĩnh và tầm trí
tuệ của mình, Đảng ta và dân tộc ta vẫn kiên định con đường đã lựa chọn - con
đường cách mạng vô sản, hướng tới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Sự lựa
chọn đó là đúng đắn, song đồng thời cũng đặt ra trước Đảng và dân tộc ta những
vấn đề lý luận vơ cùng khó giải quyết, bởi lẽ, q trình giải quyết những vấn đề đó
thực chất là q trình sáng tạo lý luận. Chúng ta khơng thể tìm lời giải có sẵn cho
những vấn đề của Việt Nam từ trong di sản lý luận của các nhà kinh điển cũng như
trong lý luận và thực tiễn của các nước khác. Phép biện chứng duy vật đòi hỏi phải
tư duy một cách biện chứng về mối quan hệ giữa cái đã qua, cái hiện tại và cái
tương lai, các hình thái trong tiến trình tự phát triển, tức là tư duy một cách biện
chứng về lịch sử. Sự phát triển của xã hội được đánh giá bằng những khác biệt về
chất giữa các hình thái, các giai đoạn lịch sử, chứ không phải dựa trên trật tự xuất
hiện trước hay sau, và vì thế cái phát triển hơn có thể xuất hiện trước hoặc đồng thời
với cái kém phát triển hơn. Kiên định con đường cách mạng vô sản cũng có nghĩa là
chúng ta đang tiến hành xây dựng một xã hội ở trình độ phát triển cao hơn về chất
so với mọi xã hội hiện tồn.
Trong số các vấn đề cấp bách, cần được giải quyết một cách triệt để về mặt
lý luận, vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một
trọng điểm. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, tiếp tục định hướng lý luận của
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được nêu
ra tại Đại hội VII và Báo cáo Chính trị tại Đại hội VIII về vấn đề nhà nước, đã
khẳng định:
“Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực

3


nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng và phối hợp giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ,
cơng chức, mọi cơng dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp
luật”[24, tr. 132].
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X khẳng định rõ hơn nhiệm vụ tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:
“Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân
dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp giữa
các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Hồn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định
trong văn bản pháp luật. Xây dựng, hồn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát
tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ
quan cơng quyền”[24, tr. 126].
Đó là những khẳng định về đại thể mơ hình nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Vấn đề đặt ra là phải triển khai, làm rõ bản chất của mô hình này.
Việc giải quyết vấn đề này là rất phức tạp.
Tính phức tạp trong việc giải quyết vấn đề nói trên thực chất là ở chỗ: Xét về
mặt lịch sử, lý luận và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam xuất hiện sau so với nhiều nước trên thế giới, song lại là mô hình nhà
nước pháp quyền trong chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa - chế độ ở một trình độ phát
triển cao hơn so với chế độ tư bản chủ nghĩa. Vì thế, chúng ta đồng thời vừa phải
nghiên cứu mơ hình lý luận và thực tiễn của những nhà nước được gọi là nhà nước
pháp quyền hiện tồn khi mà bản thân nó cũng chưa ở vào trạng thái chín muồi, vừa
phải nghiên cứu và xây dựng tương lai của nó. Việc giải quyết nhiệm vụ kép này
địi hỏi nhiều điều kiện và vì thế, chắc chắn chưa thể hồn thành trong tương lai gần.
Song khơng vì thế mà chúng ta không bắt đầu công việc. Trong số nhiều việc
có thể làm được ngay từ bây giờ, chúng tơi cho rằng, việc làm rõ và khẳng định

4



quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước là cơ sở lý luận và phương pháp
luận để trên cơ sở ấy xác định và giải quyết một số vấn đề đặt ra trong nhận thức và
thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nhiệm
vụ có tầm quan trọng đặc biệt.
Với mong muốn góp phần thực hiện nhiệm vụ nói trên, chúng tôi lựa chọn và
triển khai nghiên cứu đề tài luận án: “Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà
nước với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian từ khi Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ra đời (1991) đến nay, mơ hình lý luận về nhà
nước pháp quyền và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam đã được
quan tâm nghiên cứu và bước đầu thu được một số kết quả. Có thể nêu ra đây một
số cơng trình nghiên cứu vấn đề trên: Nhà nước pháp quyền và xã hội công dân
(Viện Thông tin Khoa học xã hội); Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam - một
số vấn đề lý luận và thực tiễn (Nguyễn Văn Niên); Về Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam (Bộ Tư pháp); Nhà nước pháp quyền và xã hội công dân (Tập
thể tác giả); Học thuyết về nhà nước pháp quyền và thực tiễn của nó ở Liên bang
Nga (Lê Văn Cảm); Tìm hiểu về nhà nước pháp quyền (Bộ Tư pháp); Tăng cường
pháp chế, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, quản lý xã hội bằng pháp luật
(Đào Trí Úc); Nhà nước pháp quyền: Khái niệm, những đặc trưng cơ bản - Điều
kiện và con đường hình thành nhà nước pháp quyền ở nước ta (Đào Trí Úc); Xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng (Đào Trí
Úc); Xây dựng, hoàn thiện nhà nước, pháp luật của dân, do dân và vì dân ở Việt
Nam (Phùng Văn Tửu); Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (Lê Minh Thông); Sự hạn chế
quyền lực nhà nước (Nguyễn Đăng Dung); Nhà nước và trách nhiệm của nhà nước
(Nguyễn Đăng Dung); Xây dựng nhà nước pháp quyền đáp ứng yêu cầu phát triển
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay (Lê Minh Quân);
Xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân (Nguyễn Trọng Thóc); Vận


5


dụng học thuyết Mác để xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam (tập thể tác giả);
Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân (Trần Hậu Thành); Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân: Lý luận và thực tiễn (Nguyễn Duy
Quý và Nguyễn Tất Viễn đồng chủ biên); v.v. Ngồi các cơng trình đã xuất bản,
trong thời gian vừa qua cũng đã có một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ đi sâu tìm
hiểu những khía cạnh khác nhau của vấn đề nhà nước pháp quyền. Trong các cơng
trình này, có thể thấy nổi lên mấy hướng nghiên cứu chủ yếu sau:
Thứ nhất, nghiên cứu lịch sử tư tưởng pháp quyền. Với khối lượng tư liệu
khá phong phú hiện có về lịch sử tư tưởng chính trị, pháp lý, triết học thế giới, việc
xử lý, lựa chọn và tiến hành những khái quát bước đầu các quan niệm, quan điểm,
tư tưởng về nhà nước, pháp luật, v.v., đã giúp các nhà nghiên cứu theo hướng này đi
tới những kết luận quan trọng, mở rộng nhận thức của chúng ta về vấn đề nhà nước
pháp quyền. Nhận xét khái quát đã được các nhà nghiên cứu rút ra là:
“Nhà nước pháp quyền, lúc đầu như một tư tưởng, một học thuyết,
sau đó, như một thực tiễn, có lịch sử của nó. Ngay từ thời Cổ đại xa xưa,
lồi người đã bắt đầu tìm kiếm những nguyên tắc, những hình thức,
những cơ chế trong mối quan hệ tương hỗ giữa pháp luật và quyền lực.
Trong quá trình phát triển các học thuyết về nhà nước và pháp luật, dần
dần xuất hiện tư tưởng về hình thức tổ chức quyền lực xã hội mà trong
đó pháp luật trở thành quy phạm bắt buộc đối với mọi người, pháp luật
trở thành sức mạnh mang tính nhà nước, cịn quyền lực xã hội được pháp
luật thừa nhận thì trở thành quyền lực nhà nước”[91, tr. 6].
Quan niệm căn bản của những nghiên cứu theo hướng này là: Nhà nước pháp
quyền có lịch sử của nó và trải qua lịch sử phát triển ấy đã hình thành nên những giá
trị mang tính bản chất, quy định một mơ hình nhà nước có được coi là pháp quyền

hay khơng.
Thứ hai, tiếp nối phương thức tư duy lịch sử ở trên, đa số các nhà nghiên cứu
đều khẳng định rằng, lý luận về nhà nước pháp quyền là vấn đề của xã hội tư bản,

6


gắn liền với sự lớn mạnh của giai cấp tư sản với tư cách lực lượng xã hội của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thoát thai từ trong lịng của xã hội phong
kiến. Vì thế, để tìm kiếm một mơ hình lý luận tương đối hồn thiện về nhà nước
pháp quyền, chỉ có thể khảo sát lý luận và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền
ở các nước tư sản. Những nhà nghiên cứu đi theo hướng này đã cung cấp một bức
tranh phong phú, nhiều màu sắc về lý luận và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp
quyền ở nhiều nước tư bản điển hình như Đức, Pháp, Mỹ, và cả ở những nước mới
có sự biến động lớn về chính trị như Nga. Đa số các nhà nghiên cứu theo hướng này
thường đi tới khẳng định về những nguyên tắc chung, giá trị chung của Nhà nước
pháp quyền. Họ khẳng định rằng, chỉ có nhà nước nào hội tụ đủ những dấu hiệu thể
hiện các nguyên tắc chung, giá trị chung thì mới được thừa nhận là nhà nước pháp
quyền.
Thứ ba, nghiên cứu lịch sử nhà nước, pháp quyền Việt Nam. Hướng nghiên
cứu này mong muốn tìm kiếm những mầm mống của nhà nước pháp quyền đã từng
tồn tại trong xã hội Việt Nam cũng như những nguyên nhân tác động làm cho
những mầm mống này biến chuyển theo nhiều hướng khác nhau và nói chung đều
chưa từng trở thành những giá trị điển hình của nhà nước pháp quyền như ở nhiều
nước khác trên thế giới, từ đó lý giải rằng, việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở
Việt Nam tuy không phải là một vấn đề quá xa lạ, bắt đầu từ hư không, song cũng
phải là từ một mảnh đất đã được chuẩn bị sẵn những điều kiện cần thiết.
Thứ tư, nghiên cứu, tìm kiếm những căn cứ, những cơ sở lý luận trong di sản
của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin và Hồ Chí Minh. Nhận định chung
ở đây là: Lý luận về nhà nước pháp quyền là điều còn để ngỏ trong các tác phẩm

của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin; cịn Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong
lý luận và thực tiễn cách mạng xã hội Việt Nam, đã để lại cho chúng ta nhiều gợi
mở quan trọng, khả dụng trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam
hiện nay.
Thứ năm, những nghiên cứu có tính chất tổng hợp, đặc biệt là gắn với quá
trình đổi mới hình thức tổ chức và phương thức hoạt động của Nhà nước ta trong

7


thời gian qua. Những nghiên cứu này đã bước đầu khái quát nên những nguyên tắc
cơ bản trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
Việc triển khai những hướng nghiên cứu trên là rất cần thiết và trên thực tế
đã đưa lại nhiều kết quả, góp phần xây dựng hệ thống lý luận về nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề cần được tranh
luận và nghiên cứu sâu hơn, trong đó, sự quan tâm của chúng tơi tập trung vào mấy
vấn đề sau:
Một là, cần xác lập lại quan điểm khi nghiên cứu cơ sở lý luận của việc xây
dựng nhà nước pháp quyền trong di sản tư tưởng của các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Khơng ít những nghiên cứu chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước trong thời gian gần đây đã đi theo
hướng tìm kiếm những khái niệm, luận điểm, tư tưởng đồng nhất hoặc phản ánh các
khái niệm, quan điểm, v.v., của giới nghiên cứu nhà nước và pháp luật trên thế giới
về nhà nước pháp quyền để từ đó đánh giá về di sản tư tưởng nhà nước pháp quyền
của các nhà kinh điển. Hướng nghiên cứu này thường không thu được nhiều kết quả.
Thậm chí có ý kiến cho rằng, thiếu sót của các nhà kinh điển là đã không bàn về vấn
đề nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, theo chúng tôi, cần xác lập lại quan điểm về
vấn đề này. Trước hết, chúng ta đều biết rằng, tư tưởng chỉ có thể khẳng định sự tồn
tại của mình thơng qua một hình thức vật chất nào đó, chẳng hạn ngơn ngữ. Vì thế,
ngơn ngữ là một hình thức thể hiện của tư tưởng, nhưng tư tưởng không đồng nhất

với ngôn ngữ. Việc nhà tư tưởng nào đó có sử dụng hay không những khái niệm
vốn đã quen thuộc trong lý luận của giai cấp tư sản về nhà nước pháp quyền khơng
đủ căn cứ để đánh giá nhà tư tưởng đó có hay khơng tư tưởng về nhà nước pháp
quyền với tư cách là nội dung mà những khái niệm kia phản ánh. Thời đại mà Mác
và Ăngghen hoạt động là thời đại mà nhà nước pháp quyền dưới hình thức lý luận
đã tồn tại và phát triển. Mặt khác, quan trọng hơn, các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác đã giải quyết một cách triệt để vấn đề nhà nước và nhiều vấn đề cơ bản khác
của đời sống xã hội bằng việc xây dựng chủ nghĩa duy vật biện chứng về lịch sử,
mà hạt nhân của nó là học thuyết hình thái kinh tế - xã hội. Với học thuyết này, các

8


nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã vạch trần bí mật của hiện tượng nhà nước cũng
như mọi lý luận tư sản về nhà nước, trong đó có lý luận về nhà nước pháp quyền
của giai cấp tư sản; đồng thời, chỉ ra những thuộc tính bản chất của giai đoạn phát
triển cuối cùng của nhà nước trước khi tự tiêu vong - nhà nước chun chính vơ sản.
Ở Việt Nam, chúng ta cần phải xuất phát từ chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh - bộ phận cấu thành đồng thời là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta - về nhà nước để nghiên cứu hiện
tượng lý luận và thực tiễn nhà nước pháp quyền trong lịch sử và hiện tại, chứ không
phải ngược lại, xuất phát từ cái gọi là “giá trị chung” trong lý luận và thực tiễn xây
dựng nhà nước pháp quyền lịch sử và hiện tại để phán xét trong di sản lý luận của
chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh có tư tưởng về nhà nước pháp
quyền hay khơng. Xuất phát từ lý luận mác-xít về nhà nước chúng ta sẽ có được
một cơ sở khoa học quan trọng để nhận thức được bản chất của các lý thuyết và mơ
hình nhà nước pháp quyền đang hiện hữu và xây dựng được về mặt lý luận và thực
tiễn một nhà nước pháp quyền đúng nghĩa của nó. Nếu khơng, việc tìm kiếm những
giá trị chung về nhà nước pháp quyền để rồi buộc hiện thực phải tuân theo chỉ là
một biểu hiện cụ thể của một tín điều duy tâm theo kiểu Hêghen: Ý niệm tuyệt đối

tự tha hố mình, tự đẻ ra cho mình những hình thức tồn tại cảm tính.
Hai là, phương pháp tư duy khi giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa cái phổ
biến và cái đặc thù trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Nếu nhà
nước pháp quyền là một trình độ tất yếu đạt tới của xã hội trong sự phát triển của
nó, thì nhất định sẽ mang những giá trị chung nhất với tính cách là thuộc tính bản
chất của nhà nước pháp quyền. Và do vậy, nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, trong
tất cả tính chất đặc thù của nó, vẫn dung chứa những giá trị chung nhất đó. Vấn đề
trước hết là có thể nhận thức những giá trị chung nhất ấy ở đâu và tiếp nữa là hình
thức tồn tại cụ thể của nó trong nhà nước pháp quyền ở Việt Nam như thế nào.
Chúng tơi cho rằng, sẽ là rất có ích khi nghiên cứu lịch sử tư tưởng nhà nước và
pháp quyền trong lịch sử cũng như nghiên cứu lý luận và mơ hình nhà nước hiện
thực ở một số nước được coi là nhà nước pháp quyền trên thế giới hiện nay, song sẽ

9


mắc sai lầm về mặt phương pháp luận khi khái qt lý luận và mơ hình đó thành các
giá trị chung để rồi áp đặt vào xã hội Việt Nam và buộc xã hội Việt Nam phải thoả
mãn những giá trị chung đó nếu muốn được xếp vào danh sách các nước có nhà
nước pháp quyền. Nhà nước mà chúng ta đang xây dựng là thành quả của cuộc cách
mạng đánh dấu trình độ phát triển mới của xã hội và khác về chất với mọi cuộc cách
mạng xã hội đã diễn ra trong lịch sử, cuộc cách mạng giành lấy và trao mọi quyền
lực cho nhân dân lao động, vì thế, tính chất pháp quyền của nó cũng có nội hàm
khác về chất với nội hàm pháp quyền của các nhà nước trong xã hội tư sản. Mặt
khác, nhà nước pháp quyền ở Việt Nam còn là kết quả của sự phát triển tự thân của
thực tiễn chính trị Việt Nam, mang những nét đặc thù do điều kiện lịch sử và tự
nhiên của Việt Nam quy định. Những thuộc tính chung của nhà nước pháp quyền
cũng sẽ là kết quả tự đạt tới trong quá trình phát triển của nhà nước Việt Nam,
không thể do sự áp đặt từ bên ngồi. Chính trong những tính chất đặc thù của nhà
nước pháp quyền Việt Nam mà tính chất phổ biến của nhà nước pháp quyền nói

chung được định hình và thể hiện ra. Như vậy, cần thiết phải có tư duy biện chứng
khi xem xét mối quan hệ giữa cái phổ biến và cái đặc thù trong việc xây dựng nhà
nước pháp quyền ở Việt Nam. Chỉ có quan niệm như vậy mới đem lại cho ta định
hướng đúng trong nghiên cứu và sử dụng những thành quả nghiên cứu về nhà nước
và pháp quyền trong lịch sử và hiện đại.
Như vậy, có thể nói rằng, việc đi sâu nghiên cứu vấn đề mà đề tài lựa chọn,
tuy không phải là vấn đề mới, song cũng không phải là vấn đề đã được giải quyết
thấu đáo.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nhận thức và vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nước để
xác định và giải quyết những vấn đề cơ bản đang đặt ra nhằm tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

10


- Trình bày khái quát và làm rõ giá trị lý luận của những quan điểm cơ bản
của chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nước đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nước để nghiên cứu
các quan niệm tiêu biểu về nhà nước pháp quyền trên thế giới và ở Việt Nam, qua
đó xây dựng nhận thức lý luận về bản chất nhà nước pháp quyền.
- Dựa trên nhận thức lý luận về bản chất nhà nước pháp quyền theo quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nước, xác định và đề xuất hướng giải quyết
những vấn đề cơ bản đang đặt ra nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong hiện thực.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác-Lênin về nhà nước, các quan niệm tiêu biểu về nhà nước pháp quyền trên thế
giới và việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Với tư cách một đề tài nghiên cứu cơ bản trong khuôn khổ một luận án tiến
sĩ triết học, phạm vi nghiên cứu của luận án được xác định là:
- “Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nước” được giới hạn là quan
điểm của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin và Hồ Chí Minh về nhà nước.
- Dựa trên các tác phẩm, văn kiện đã được cơng bố chính thức để nghiên cứu
các quan niệm, quan điểm, tư tưởng về nhà nước, nhà nước pháp quyền trên thế giới
và ở Việt Nam, để đánh giá những thành tựu, hạn chế và những vấn đề đặt ra trong
thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Việc xây dựng nhận thức lý luận về bản chất của nhà nước pháp quyền
được giới hạn trong phạm vi xây dựng một định nghĩa khoa học về nhà nước pháp
quyền trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nước.

11


- Hướng giải quyết những vấn đề cơ bản của việc xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được đề xuất dưới hình thức những quan điểm có
tính phương pháp luận.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận và phương pháp luận của luận án là chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và hệ thống quan điểm triết học - chính trị của Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của triết học MácLênin và phương pháp nghiên cứu của các khoa học xã hội có liên quan, bao gồm
các phương pháp khái qt hố, trừu tượng hố, kết hợp lịch sử - lơgic, phân tích tổng hợp, quy nạp - diễn dịch, hệ thống - cấu trúc, phân tích tài liệu, v.v.

6. Cái mới về mặt khoa học của luận án
- Luận án có cách tiếp cận phù hợp và cách luận giải mới nhằm tiếp tục đi
sâu khám phá những giá trị còn tiềm ẩn trong di sản lý luận của chủ nghĩa MácLênin về nhà nước.
- Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nước, luận án đã hệ
thống hoá và đánh giá các quan niệm tiêu biểu trên thế giới và ở Việt nam về nhà
nước pháp quyền.
- Xây dựng khái niệm “Nhà nước pháp quyền” dưới góc độ triết học - chính
trị mác-xít.
- Đề xuất một số phương hướng nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
7.1. Ý nghĩa lý luận
- Luận án góp phần khẳng định vai trò cơ sở lý luận và phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác-Lênin đối với quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.

12


- Luận án góp phần xây dựng nhận thức lý luận về bản chất nhà nước pháp
quyền và quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo nhằm tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu và
giảng dạy các mơn học có liên quan thuộc các ngành Triết học, Chính trị học, Luật
học, Khoa học quản lý, v.v.,
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung
của luận án gồm 3 chương.

Chương 1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nước.
Chương 2. Nhận thức bản chất nhà nước pháp quyền trên cơ sở quan điểm
của chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nước.
Chương 3. Tiếp tục xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nước.


13


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ NHÀ NƢỚC
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nước là một bộ phận cấu thành
quan trọng trong toàn bộ học thuyết duy vật biện chứng về lịch sử, chứa đựng
những nội dung hết sức phong phú. Các cơng trình nghiên cứu về chủ nghĩa duy vật
biện chứng về lịch sử, về chủ nghĩa cộng sản khoa học, về học thuyết chính trị của
chủ nghĩa Mác-Lênin, v.v., đều đã đề cập đến những quan điểm của chủ nghĩa MácLênin về nhà nước. Trong phạm vi nghiên cứu của luận án, chúng tôi chỉ khảo sát
những quan điểm cơ bản của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin và Hồ Chí Minh về
nhà nước và khẳng định vai trò cơ sở lý luận của các quan điểm ấy đối với việc chỉ
đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
1.1. Quan điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen về nhà nƣớc
1.1.1. Tiếp cận và luận giải vấn đề nhà nước theo quan điểm duy vật biện
chứng về lịch sử
Có thể nói rằng, trong quá trình xây dựng hệ thống quan điểm duy vật biện
chứng về lịch sử, việc xác định xuất phát điểm có một ý nghĩa rất quan trọng đối với
Mác và Ăngghen. Nhiệm vụ mà lịch sử đặt ra cho các ông không phải là sửa chữa,
khắc phục những sai lầm nào đó trong các lý thuyết về xã hội đương thời, mà là phê
phán một cách triệt để và đi tới xây dựng một học thuyết mới về lịch sử. Vì thế, việc

xây dựng những quan điểm xuất phát, nền tảng có ý nghĩa sống cịn. Trên thực tế,
khoảng thời gian từ khi Mác viết tác phẩm Phê phán triết học pháp quyền của
Hêghen đến khi cùng với Ăngghen hồn thành tác phẩm Hệ tư tưởng Đức chính là
lúc mà các ông giải quyết nhiệm vụ quan trọng này. Khơng phải ngẫu nhiên mà sau
này, chính Mác và Ăngghen đã đặc biệt nhấn mạnh đến các kết quả nghiên cứu
trong giai đoạn nói trên. Chẳng hạn, Ăngghen từng chỉ rõ rằng, chính trong q
trình phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, Mác đã đi tới quan niệm không

14


phải nhà nước mà Hêghen mô tả là “đỉnh của tồn bộ ngơi nhà”, mà ngược lại, “xã
hội cơng dân” mà Hêghen vốn rất coi thường, mới là lĩnh vực mà người ta phải đi
vào “để tìm ra chiếc chìa khố để hiểu được q trình phát triển lịch sử của loài
người”[63, tr. 491]. Bản thân Mác cũng khẳng định: Không thể lấy bản thân những
quan hệ pháp quyền cũng như những hình thái nhà nước, hay lấy cái gọi là sự phát
triển chung của tinh thần của con người, để giải thích những quan hệ và hình thái đó,
mà trái lại, phải thấy rằng những quan hệ và hình thái đó bắt nguồn từ những điều
kiện sinh hoạt vật chất, mà toàn bộ đã được Hêghen, theo cách của người Anh và
người Pháp thế kỷ XVIII, gọi gộp chung lại là “xã hội công dân”, và “việc giải phẫu
xã hội cơng dân này thì phải tìm ở trong khoa kinh tế chính trị”[62, tr. 14]. Đặc biệt,
khi đề cập đến tác phẩm Những luận cương về Phơbách của Mác, Ăngghen đã nhấn
mạnh rằng: “Đó là những bút ký ghi vội vàng để cịn nghiên cứu thêm, chứ tuyệt
nhiên khơng phải để in, nhưng đó là những luận cương vơ cùng q giá, vì đó là
văn kiện đầu tiên chứa đựng mầm mống thiên tài của một thế giới quan mới”[67, tr.
527-528]. Những mầm mống này sẽ được Mác và Ăngghen tiếp tục phát triển trong
tác phẩm nổi tiếng Hệ tư tưởng Đức và hồn tồn định hình với sự ra đời của tác
phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản.
Xuất phát điểm cho việc nghiên cứu vấn đề nhà nước đã được Mác và
Ăngghen xác định một cách rõ ràng, trước hết là từ sự lật ngược quan điểm duy tâm

khách quan của Hêghen. Mác đã chỉ ra sai lầm của Hêghen, đó là: Nội dung cụ thể,
tức tính quy định hiện thực, biểu hiện ra là cái có tính chất hình thức, cịn tính quy
định hồn tồn trừu tượng của hình thức lại biểu hiện thành nội dung cụ thể. Thực
chất của những tính quy định của nhà nước khơng phải ở chỗ chúng là những tính
quy định của nhà nước, mà là ở chỗ dưới hình thức trừu tượng nhất của chúng,
những tính quy định ấy có thể được coi là những tính quy định lơgích của siêu hình
học. Trung tâm chú ý ở đây khơng phải là triết học pháp quyền, mà là lơgích học.
Cơng việc của triết học ở đây không phải là làm cho tư duy thể hiện ra trong những
tính quy định chính trị, mà là làm cho những tính quy định chính trị hiện có tiêu tan
đi, biến thành những tư tưởng trừu tượng. Cái có ý nghĩa triết học ở đây khơng phải

15


là lơgích của bản thân sự việc, mà chính là sự việc của bản thân lơgích, khơng phải
lơgích được dùng để luận chứng nhà nước, mà là nhà nước được dùng để luận
chứng lơgích [57, tr. 328-329].
Việc lật ngược quan điểm duy tâm khách quan nói trên của Hêghen đã gợi
mở hướng nghiên cứu mới về vấn đề nhà nước, đó là phải nghiên cứu “tư duy thể
hiện ra trong những tính quy định chính trị”, “lơgích của bản thân sự việc”, “lơgích
được dùng để luận chứng nhà nước”, v.v..
Mác đã nói rõ hơn về hướng nghiên cứu mới này như sau:
“Sự phê phán thật sự triết học đối với chế độ nhà nước hiện đại
không chỉ vạch ra mâu thuẫn của chế độ ấy, coi là những mâu thuẫn tồn
tại một cách hiện thực; nó cịn giải thích những mâu thuẫn ấy; nó hiểu
được q trình phát sinh và tính tất yếu của những mâu thuẫn ấy. Nó
hiểu chúng theo nghĩa đặc thù của chúng. Tuy nhiên, sự hiểu biết này
khơng phải là ở chỗ, như Hêghen hình dung, đâu đâu cũng tìm ra những
tính quy định của khái niệm lơgích, mà là ở chỗ hiểu được lơgích đặc thù
của đối tượng đặc thù”[57, tr. 448].

Từ hướng nghiên cứu mới, địi hỏi phải nghiên cứu “lơgích của bản thân sự
việc”, “lơgích đặc thù của đối tượng đặc thù”, Mác và Ăngghen đã tiến thêm một
bước nêu ra quan điểm có ý nghĩa nền tảng trong nghiên cứu vấn đề nhà nước nói
riêng, nghiên cứu đời sống xã hội nói chung. Đây chính là quan điểm duy vật biện
chứng về lịch sử được sử dụng để luận giải về vấn đề nhà nước. Mác và Ăngghen
chỉ ra rằng: Những cá nhân nhất định, hoạt động sản xuất theo một phương thức
nhất định, đều nằm trong những quan hệ xã hội và chính trị nhất định. Trong từng
trường hợp riêng biệt một, sự quan sát theo kinh nghiệm phải vạch rõ, căn cứ vào
kinh nghiệm và khơng hề thần bí hố, không hề tư biện, mối liên hệ giữa cơ cấu xã
hội và chính trị với sản xuất. Cơ cấu xã hội và nhà nước luôn luôn nảy sinh ra từ
quá trình sinh sống của những cá nhân nhất định, khơng phải của những cá nhân
đúng như bản thân những cá nhân ấy có thể tự hình dung hay đúng như người khác
có thể hình dung, mà là của những cá nhân đúng như trong hiện thực, nghĩa là đúng

16


như họ đang hành động, sản xuất một cách vật chất, tức là đúng như họ hành động
trong những giới hạn, tiền đề và điều kiện vật chất nhất định, khơng phụ thuộc vào
ý chí của họ [58, tr. 36]; và trong sự sản xuất ra đời sống xã hội của mình, con
người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tuỳ thuộc vào ý muốn của họ tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển
nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản
xuất ấy họp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực, trên đó dựng
lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội
nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó. Phương thức sản xuất đời sống vật chất
quyết định các q trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung [62, tr.
14-15].
Như vậy là, theo Mác và Ăngghen, việc nghiên cứu nhà nước với tư cách
một hiện tượng xã hội không thể xuất phát từ bản thân nhà nước. Bí mật của bản
chất và các tính quy định của nhà nước chỉ có thể được soi sáng khi nghiên cứu nhà

nước trong quá trình phát sinh, tồn tại và phát triển của nó xuất phát từ những “cơ
sở tự nhiên” và “cơ sở xã hội” của nó. Nói cách khác, nhà nước khơng phải là một
hiện tượng tự nó, mang tính thực thể, mà chỉ là một hiện tượng phái sinh, có cơ sở
khách quan bên ngồi nó. Chính bí mật của đời sống xã hội là cơ sở khách quan tạo
nên bí mật của nhà nước, và chìa khố để khám phá những bí mật đó chính là phải
xuất phát từ những con người hiện thực và quá trình đời sống hiện thực của họ, quá
trình họ sản xuất và tái sản xuất ra bản thân mình và xã hội, và đồng thời cũng sản
xuất ra hàng loạt các yếu tố phái sinh khác bổ sung vào xã hội, trong đó có nhà
nước. Đây chính là quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử, là quan điểm xuất phát
khi nghiên cứu vấn đề nhà nước cũng như các vấn đề khác trong đời sống xã hội.
Khơng đứng vững trên quan điểm này thì khơng thể lý giải đúng đắn mọi vấn đề
thuộc về lĩnh vực nhà nước, kể cả vấn đề pháp quyền, nhà nước pháp quyền.
1.1.2. Bản chất của nhà nước
Từ việc xác định quan điểm xuất phát trong nghiên cứu về nhà nước, Mác và
Ăngghen đã đi tới những quan điểm cụ thể hơn về nhà nước, trong đó có việc xác

17


định nội hàm căn bản của khái niệm nhà nước, vạch ra tính chất, đặc trưng của nhà
nước.
Điều cần nhấn mạnh trước hết là, “nhà nước” được Mác và Ăngghen hiểu
theo hai lớp nghĩa: Xã hội được tổ chức theo một cách xác định và bộ máy nhà
nước, hay nhà nước chính trị - biểu hiện tập trung của cách thức tổ chức xã hội ấy.
Quan điểm trên đã thể hiện rõ trong tác phẩm Phê phán triết học pháp quyền của
Hêghen đồng thời với việc Mác phê phán quan điểm biện chứng duy tâm của
Hêghen về nhà nước. Trong tác phẩm nói trên, Mác đã chỉ ra hai lớp nghĩa của nhà
nước là: 1. Tổng thể của sự tồn tại của nhân dân; và 2. Nhà nước chính trị [57, tr.
427].
Trong tác phẩm của các ơng, có lúc khái niệm “nhà nước” được Mác và

Ăngghen hiểu đồng thời theo cả hai lớp nghĩa, có lúc hiểu theo nghĩa thứ hai, và đặc
biệt, một phần quan trọng trong các luận bàn về nhà nước, Mác và Ăngghen đã
phân tích sự vận động biện chứng của hai lớp nghĩa này trong khái niệm “nhà
nước” như là sự phản ánh quá trình chuyển hoá biện chứng khách quan giữa nhà
nước bộ máy và xã hội. Có thể minh hoạ cho khẳng định này bằng một ý kiến của
Mác khi ông cho rằng: “Gia đình và xã hội cơng dân là những bộ phận hiện thực
của nhà nước, là những tồn tại tinh thần hiện thực của ý chí, là những phương thức
tồn tại của nhà nước. Gia đình và xã hội cơng dân tự chúng cấu thành nhà nước.
Chúng chính là động lực”[57, tr. 314].
Những tính chất và đặc trưng của nhà nước với tính cách là bộ máy nhà nước,
hay nhà nước chính trị, được quy định khơng phải bởi tư duy của nhà triết học pháp
quyền, cũng không phải do chỗ nó là trạng thái tha hố của một ý niệm với các tính
quy định sẵn có nào đó, mà gắn liền với q trình tha hố của nhà nước bộ máy,
thốt thai khỏi đời sống xã hội, do chính q trình hình thành và chuyển hố các
mặt đối lập trong bản thân đời sống xã hội, trước hết là q trình hình thành và
chuyển hố của các lợi ích của các thành viên trong đời sống xã hội, của con người
hiện thực.

18


Về mặt lơgích, q trình này có thể được hình dung một cách cơ đọng nhất
như sau: Do trình độ phát triển của lao động, từ một thể lợi ích chung trừu tượng
(tồn tại thuần tuý), đã xuất hiện lợi ích riêng, hình thành nên quan hệ thống nhất và
mâu thuẫn: lợi ích chung vừa xuất phát từ lợi ích riêng, vừa khác biệt với lợi ích
riêng. Mặt thống nhất giữa lợi ích riêng và lợi ích chung đưa tới một sự phân cơng
lao động mà kết quả của nó là hình thành nên một bộ phận đóng vai trị đại diện cho
lợi ích chung trong xã hội (mặt này đã tồn tại dưới dạng mầm mống trong xã hội mà
lợi ích chung trừu tượng đóng vai trị phổ biến, và vì thế cũng là một đại diện thuần
tuý). Để thực hiện chức năng duy trì sự thống nhất, bộ phận này được trao cho

quyền lực cơng, có tính phổ biến và cũng vì thế mà trở nên độc lập với xã hội - thế
giới của những lợi ích riêng. Đây dù sao vẫn là sự độc lập hiện thân cho quan hệ
thống nhất giữa lợi ích chung và lợi ích riêng, giữa nhà nước và xã hội. Mặt mâu
thuẫn trong quan hệ giữa lợi ích riêng và lợi ích chung đã làm cho nhà nước tách xa
hơn nữa khỏi xã hội, trở thành cái đối lập với xã hội. Do trình độ phát triển của lao
động, mặt thống nhất trở thành hình thức cịn mặt mâu thuẫn trở thành nội dung của
nhà nước. Nhà nước luôn là hiện thân cho lợi ích chung và tương ứng với nó là một
quyền lực công, song trên thực tế lại luôn nhân danh lợi ích chung vì một lợi ích
riêng nào đó và sử dụng quyền lực công cho một bộ phận tư nào đó trong xã hội.
Mác và Ăngghen đã luận giải hiện tượng lịch sử nói trên như sau:
“Chính do mâu thuẫn đó giữa lợi ích riêng và lợi ích chung mà lợi
ích chung với danh nghĩa là nhà nước, mang một hình thức độc lập, tách
rời khỏi những lợi ích thực tế của cá nhân và của tập thể, đồng thời cũng
mang hình thức của một cộng đồng hư ảo. Song điều đó ln ln diễn
ra trên cơ sở hiện thực của những mối liên hệ tồn tại trong mỗi tập đồn
gia đình hay tập đồn bộ lạc - như những mối liên hệ về dịng máu, ngơn
ngữ, phân công lao động trên quy mô lớn và những lợi ích khác, - và đặc
biệt, như chúng tơi sẽ trình bày sau này, trên cơ sở những lợi ích của các
giai cấp khác; những giai cấp này, - tách ra là do kết quả của phân công

19


lao động - đang tự tách ra trong mỗi tập đồn người như vậy và trong các
giai cấp đó, một giai cấp thống trị tất cả các giai cấp khác”[58, tr. 47-48].
Như vậy, nhà nước thực chất là hiện thân của một mâu thuẫn. Đó là lợi ích
chung tự mâu thuẫn với chính mình, là hình thức lợi ích chung mâu thuẫn với nội
dung lợi ích riêng gắn với một bộ phận của xã hội, và theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác, bộ phận này là giai cấp thống trị về kinh tế. So với bộ phận đại diện cho lợi
ích chung và nắm quyền lực cơng trong xã hội nguyên thuỷ, nhà nước trong xã hội

có giai cấp mang trong mình mặt đối lập với chính mình. Đó chính là tình trạng tha
hố của tổ chức quyền lực cơng, của lợi ích chung. Chính trình độ phát triển của lao
động, hay nói cách khác là mâu thuẫn trong đời sống kinh tế giữa năng suất lao
động với nhu cầu cần được thoả mãn, đã đưa tới sự hình thành những giai cấp mà
sự thoả mãn nhu cầu của một giai cấp được quyết định bởi việc nó có nắm giữ hay
không tư liệu sản xuất và dựa trên cơ sở thủ tiêu sự thoả mãn nhu cầu của các giai
cấp, tầng lớp khác, đã tạo nên mâu thuẫn trên trong nhà nước và cũng chỉ có sự phát
triển của lực lượng sản xuất biểu hiện ra ở năng suất lao động mới có thể xố bỏ
được mâu thuẫn đó, khi mà của cải được sản xuất ra thoả mãn một cách hoàn toàn
cho tất cả mọi thành viên của xã hội, nói cách khác khơng cịn mâu thuẫn giữa lợi
ích chung với lợi ích riêng, khi đó, nhà nước sẽ đồng nhất trở lại với xã hội, “mất đi
tính chất chính trị của nó”.
Xét về mặt lịch sử, thực tiễn lịch sử của sự giải thể thị tộc và bộ lạc đã chứng
minh cho q trình chuyển hố nói trên. Trong tác phẩm trứ danh - Nguồn gốc của
gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước - Ăngghen diễn giải dưới hình thức lý
luận quá trình thực tiễn ấy. Theo Ăngghen, nhân tố quyết định trong lịch sử, quy
đến cùng là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng bản thân sự sản
xuất đó lại có thể phân thành hai hình thức chủ yếu. Một hình thức là sản xuất ra tư
liệu sinh hoạt: thực phẩm, quần áo, nhà ở và những cơng cụ cần thiết để sản xuất ra
những thứ đó; một hình thức khác là sự sản xuất ra bản thân con người, là sự truyền
nòi giống. Ăngghen chỉ ra rằng, những trật tự xã hội, trong đó những con người của
một thời đại lịch sử nhất định và của một nước nhất định đang sống, là do hai loại

20


sản xuất quyết định: một mặt là do trình độ phát triển của lao động và mặt khác là
do trình độ phát triển của gia đình. Lao động càng ít phát triển, khối lượng sản
phẩm của lao động và do đó, của cải của xã hội càng bị hạn chế, thì chế độ xã hội tỏ
ra bị quan hệ thị tộc chi phối càng mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên, điều quan trọng cần

phải thấy ra là, trong khuôn khổ của sự phân chia xã hội dựa trên quan hệ thị tộc ấy,
năng suất lao động ngày càng phát triển lên; cùng với năng suất đó thì tư hữu và
trao đổi, những chênh lệch về của cải, khả năng sử dụng sức lao động của người
khác, và do đó, cơ sở của những mâu thuẫn giai cấp cũng phát triển lên: những yếu
tố xã hội mới đó, trải qua nhiều thế hệ, ra sức làm cho xã hội cũ thích ứng với
những điều kiện mới, cho đến khi rốt cuộc sự khơng thể dung nhau giữa hai cái đó
dẫn tới một bước ngoặt hoàn toàn. Kết quả của toàn bộ quá trình vận động ấy là xã
hội cũ dựa trên liên minh thị tộc bị “nổ tung” do kết quả của sự xung đột giữa các
giai cấp xã hội mới hình thành và một xã hội mới thay thế nó, được tổ chức thành
quốc gia, mà đơn vị cơ sở không phải là những liên minh dựa trên quan hệ thị tộc
nữa, mà là những liên minh dựa trên lãnh địa - xã hội, trong đó, chế độ gia đình
hồn tồn bị quan hệ sở hữu chi phối, và trong đó, từ nay trở đi, những mâu thuẫn
giai cấp cùng với đấu tranh giai cấp, cấu thành nội dung của toàn bộ lịch sử thành
văn từ trước đến nay, đều phát triển một cách tự do [67, tr. 44-45].
Không chỉ dừng lại ở việc diễn giải quá trình vận động đưa tới sự ra đời của
giai cấp như trên, Ăngghen còn đi sâu phân tích sự vận động của các quan hệ lợi ích.
Ơng chỉ ra rằng, con người ta lúc ban đầu bước ra khỏi loài động vật (theo nghĩa
hẹp hơn của từ này) như thế nào thì họ cũng bước vào lịch sử như thế ấy: người còn
là nửa động vật, thơ lỗ, cịn bất lực trước những lực lượng của tự nhiên, còn chưa
nhận thức được lực lượng của chính mình; vì vậy họ cũng nghèo như động vật và
cũng không hơn động vật mấy về sức sản xuất. Ở đây, ngự trị một sự bình đẳng nào
đó trong hoàn cảnh sống, và đối với các tộc trưởng cũng có một thứ bình đẳng nào
đó về địa vị xã hội, - ít ra thì cũng khơng có các giai cấp xã hội... Ngay từ đầu, trong
mỗi công xã đó đều có một số lợi ích chung nào đó mà người ta phải trao cho những
cá nhân gìn giữ, tuy là dưới sự giám sát của toàn xã hội... Dĩ nhiên là những cá nhân

21


ấy có một sự tồn quyền nào đó, và tiêu biểu cho những mầm mống của quyền lực

nhà nước. Dần dần, lực lượng sản xuất phát triển; dân số đông đúc hơn tạo ra ở đây
là những lợi ích chung, ở kia là những lợi ích đối lập giữa các cộng đồng với nhau;
và sự tập hợp những cộng đồng thành một chỉnh thể lớn hơn lại gây ra một sự phân
công lao động mới và việc thành lập những cơ quan để bảo vệ những lợi ích chung
và để chống lại những lợi ích đối lập. Những cơ quan đó, - với tư cách đại biểu cho
những lợi ích chung của tồn nhóm, - giữ một địa vị đặc biệt đối với mỗi cộng đồng
riêng biệt, và trong một số hồn cảnh nhất định thậm chí cịn đối lập với cộng đồng
ấy, - những cơ quan đó chẳng bao lâu sau còn trở nên độc lập nhiều hơn nữa, một
phần do việc kế thừa những chức năng xã hội,..., một phần là do sự cần thiết ngày
càng tăng lên của những cơ quan như thế khi những sự xung đột với các nhóm khác
ngày càng tăng thêm [60, tr. 252-253]. Có thể thấy rằng, quan điểm của Ăngghen về
sự vận động biện chứng của các quan hệ lợi ích, đưa tới sự xuất hiện của mâu thuẫn
giữa lợi ích chung và lợi ích riêng đã vạch ra bản chất của nhà nước trong xã hội
phân chia thành giai cấp.
Sự chuyển hoá biện chứng trong đời sống xã hội làm cho nhà nước chính trị
tách khỏi nhà nước - với tư cách xã hội được tổ chức theo cách thức xác định. Điều
này xuất hiện trong lịch sử với sự xuất hiện của giai cấp tư hữu và đặc biệt trở nên
điển hình trong xã hội mà giai cấp tư sản là giai cấp nắm quyền thống trị về kinh tế.
Về vấn đề trên, Mác và Ăngghen đã viết:
“Vì giai cấp tư sản khơng cịn là một đẳng cấp nữa mà là một giai
cấp, nên nó bắt buộc phải tự tổ chức không phải trên quy mô địa phương
mà trên quy mơ tồn quốc, và phải gán cho những lợi ích thơng thường
của nó một hình thức phổ biến. Do chỗ sở hữu tư nhân được giải thoát
khỏi cộng đồng [Gemeinwesn] nên nhà nước đã tồn tại độc lập bên cạnh
và bên ngồi xã hội cơng dân, nhưng thực ra nhà nước ấy chẳng phải là
cái gì khác mà chỉ là hình thức tổ chức mà những người tư sản buộc phải
dùng đến để bảo đảm lẫn cho nhau sở hữu và lợi ích của họ, ở ngồi
nước cũng như ở trong nước”[58, tr. 90].

22



Mâu thuẫn nội tại của nhà nước thể hiện trước hết ở chỗ, trong xã hội tồn tại
mâu thuẫn giữa lợi ích chung và lợi ích riêng nên nhà nước nào cũng mang bản chất
giai cấp. Đó là vì nhà nước nảy sinh ra từ nhu cầu phải kiềm chế những sự đối lập
giai cấp; vì nhà nước đồng thời cũng nảy sinh ra giữa cuộc xung đột của các giai
cấp ấy, cho nên nhà nước là “nhà nước của giai cấp có thế lực nhất, của cái giai cấp
thống trị về mặt kinh tế và nhờ có nhà nước mà cũng trở thành giai cấp thống trị về
mặt chính trị và do đó có thêm được những phương tiện mới để đàn áp và bóc lột
giai cấp bị áp bức”[67, tr. 255].
Quan điểm về bản chất giai cấp của nhà nước thể hiện ra như là công cụ để
giai cấp thống trị đàn áp các giai cấp bị bóc lột nhằm thực hiện lợi ích kinh tế của
mình trong xã hội phân chia thành các giai cấp - chủ thể của các lợi ích riêng - đối
lập nhau là một quan điểm căn bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Quan điểm này được
Mác và Ăngghen nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần trong những luận bàn về vấn đề nhà
nước. Có thể thấy rõ điều này chẳng hạn trong những luận điểm sau: “Cái lực lượng
cố kết xã hội văn minh là nhà nước, nhà nước này, trong tất cả những thời kỳ điển
hình, vẫn chỉ là nhà nước của giai cấp thống trị, và trong mọi trường hợp, về thực
chất, vẫn là bộ máy dùng để đàn áp giai cấp bị áp bức, bị bóc lột”[67, tr. 261], và:
“Chính quyền nhà nước chẳng qua là một tổ chức mà các giai cấp thống trị đã lập
nên cho mình để bảo vệ đặc quyền xã hội của mình...”[70, tr. 525].
Mặc dù mang bản chất giai cấp như vậy, song nhà nước ln thể hiện là đại
diện cho lợi ích chung, lợi ích phổ biến và ln tun bố mình được sự thừa nhận
chung của toàn thể xã hội. Theo quan điểm của Mác và Ăngghen, nhà nước, ngay từ
khi ra đời đã là một thiết chế không những bảo vệ những của cải mà các cá nhân
vừa mới có được, chống lại những truyền thống cộng sản của chế độ thị tộc, một
thiết chế khơng những thần thánh hố sở hữu tư nhân rất bị khinh rẻ trước đây, và
tuyên bố sự thần thánh hố đó là mục đích tối cao của mọi xã hội lồi người, mà
cịn in dấu ấn của sự cơng nhận của xã hội nói chung lên những hình thức mới, phát
triển nối tiếp nhau, của việc kiếm được tài sản, nói một cách khác là của việc tích

luỹ của cải ngày càng nhanh; một thiết chế khơng những có thể kéo dài mãi mãi sự

23


×