Tải bản đầy đủ (.pdf) (152 trang)

(Luận văn thạc sĩ) phụ tra tiểu thuyếtcủa lê văn ngữ khảo cứu và phiên dịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.84 MB, 152 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------------------------NGUYỄN THỊ THU HIỀN

“ PHỤ TRA TIỂU THUYẾT„ CỦA LÊ VĂN NGỮ
KHẢO CỨU VÀ PHIÊN DỊCH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Hán Nôm

Hà Nội - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------------------------NGUYỄN THỊ THU HIỀN

“PHỤ TRA TIỂU THUYẾT” CỦA LÊ VĂN NGỮ
KHẢO CỨU VÀ PHIÊN DỊCH

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Hán Nôm
Mã số: 60.22.40

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Kim Sơn

Hà Nội - 2013


“Phụ tra tiểu thuyết” của Lê Văn Ngữ - Khảo cứu và phiên dịch

MỤC LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU

3

1. Lí do chọn đề tài

3

2. Lịch sử vấn đề

4

3. Phạm vi nghiên cứu

5

4. Cấu trúc luận văn

6

5. Phương pháp nghiên cứu

8

6. Yêu cầu cần đạt

9

CHƢƠNG 1: TÁC GIẢ LÊ VĂN NGỮ VÀ SỰ NGHIỆP TÁC PHẨM


10

1.1 Tác giả Lê Văn Ngữ

10

1.2 Sự nghiệp trước thuật

12

1.3 Văn bản và cấu trúc nội dung “Phụ tra tiểu thuyết”

13

1.3.1 Sự ra đời của tác phẩm và cấ u trúc nợi dung tác phẩm

13

1.3.2 Vị trí của Phụ tra tiểu thuyết trong hệ thống tác phẩm của Lê Văn
Ngữ

33

1.3.3 Đánh giá giá trị tác phẩm

35

CHƢƠNG 2: CHUYẾN CƠNG DU TÂY PHƢƠNG VÀ SỰ ẢNH
HƢỞNG TỚI CÁCH NHÌN CỦA LÊ VĂN NGỮ


39

2.1 Nho giáo với các vấn đề phương Tây trong bối cảnh xã hội cuối thế
kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

39

2.2 Những kiến văn thu được và vai trò của chuyến đi đối với sự chuển
biến tư tưởng Lê Văn Ngữ
CHƢƠNG 3: “PHỤ TRA TIỂU THUYẾT” VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ
TƢ TƢỞNG ĐẦU THẾ KỶ XX

45
61

3.1 Tư tưởng kết hợp “cựu học” và “Tây học” của tác giả

61

Nguyễn Thị Thu Hiền - Cao học Hán Nôm K52

1


“Phụ tra tiểu thuyết” của Lê Văn Ngữ - Khảo cứu và phiên dịch

3.2 Lý thuyết về Thái cực và sự hình thành của vũ trụ

73


3.3 Học thuyết âm dương ngũ hành trong các vấn đề luận giả

83

KẾT LUẬN

95

TÀI LIỆU THAM KHẢO

104

PHỤ LỤC

106

Nguyễn Thị Thu Hiền - Cao học Hán Nôm K52

2


“Phụ tra tiểu thuyết” của Lê Văn Ngữ - Khảo cứu và phiên dịch

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lê Văn Ngữ là một nhà Nho sống vào cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20. Ông
xuất thân trong một gia đình Nho học nhưng bản thân chưa thi đỗ một kì thi nào.
Đến năm 27 tuổi ơng quyết định khơng thi nữa mà đóng cửa chun tâm nghiên
cứu các kinh điển Nho giáo. Các trứ tác của ông bao gồm 6 tác phẩm sau:
+ Phụ tra tiểu thuyết

+ Chu dịch cứu nguyên
+ Đại học tích nghĩa
+ Trung dung thuyết ước
+ Y học toản yếu
+ Luận ngữ tiết yếu
Nhưng những tác phẩm và tên tuổi của tác giả chỉ những năm gần đây mới
được giới nghiên cứu và được học giả quan tâm đến. Và trong hệ thống các tác
phẩm nói trên, luận văn lựa chon khảo cứu tác phẩm “Phụ tra tiểu thuyết”, đây là
tác phẩm tác giả viết khá chi tiết mang tính chất như một cuốn nhật ký nhưng lại là
nhật ký ghi lại những điều cảm nhận và những tri thức học hỏi được ở phương Tây
đan xen cùng những tư tưởng phương Đông dẫn luận cho những nghiên cứu chuyên
sâu của tác giả sau này. Vì thế lí do đầu tiên chọn đề tài luận văn là để tiếp nối
hướng quan tâm của các nhà nghiên cứu tìm hiểu thêm về cuộc đời cũng như các
trứ tác của Lê Văn Ngữ từ đó tìm hiểu các vấn đề nghiên cứu, liận giải của tác giả.
Cuộc đời và sự nghiệp viết sách của Lê Văn Ngữ đều gắn với tư tưởng Nho
giáo, đặc biết là trong giai đoạn những năm đầu thế kỉ 20 khi khoa cử Nho giáo bị
lãng quên nhiều thì thái độ của những nhà Nho kiểu cũ như Lê Văn Ngữ là ra sức
Nguyễn Thị Thu Hiền - Cao học Hán Nôm K52

3


“Phụ tra tiểu thuyết” của Lê Văn Ngữ - Khảo cứu và phiên dịch

vãn hồi lại đạo học của cổ nhân bằng những hành động thực tiễn của mình như viết
thư gửi cho những nhà cầm quyền để bày tỏ nguyện vọng của mình như thư gửi
cho Viện Bác Cổ Pháp, thư gửi cho hội Quảng Học Thượng Hải…, từ đó thấy được
ý thức, tinh thần và thái độ của tác giả đối với mục đích của việc viết lại tác phẩm
này qua những kiến thức thực tiễn và những cảm nhận phân tích.
Hiện nay tác phẩm “Phụ tra tiểu thuyết” chưa được nghiên cứu một cách cụ

thể trong hệ thống tác phẩm của Lê Văn Ngữ, vì thế lựa chọn tác phẩm này chúng
tơi muốn tìm hiểu một số nội dung cụ thể trong tác phẩm để tìm hiểu thêm tư tưởng
của tác giả.
2. Lịch sử vấn đề
Nghiên cứu về Lê Văn Ngữ và các tác phẩm của ông qua q trình tìm hiểu,
chúng tơi cũng đã tìm được một số bài viết, các bài nghiên cứu khoa học, hay khoá
luận tốt nghiệp, luận văn thạc sỹ của một số các nhà ngiên cứu sau:
Trong nước: Luận văn Thạc sỹ Mai Thu Quỳnh “Chu Dịch cứu nguyên Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ” - Hà Nội 2008; Hồng Tịnh
Thuỷ - Khố luận tốt nghiệp “Khảo sát, phiên dịch tác phẩm Đại học tích nghĩa”
của Lê Văn Ngữ, Hà Nội 6/2008. Báo cáo khoa học của học giả Lê Phương Duy về
Kinh điển Nho gia ở Việt nam tổ chức tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn ngày 19/12/2009 - “Tác phẩm Lễ kinh chủ nhân và những luận giải đặc sắc về
Lễ của Lê Văn Ngữ”; Báo cáo khoa học về Kinh điển Nho gia ở Việt Nam của học
giả Phạm Thị Hường “Tu dưỡng cá nhân trong Luận Ngữ tiết yếu của Lê Văn
Ngữ”. Bài viết được đăng trên Tạp chí Hán nơm số 3/2010 của Nguyễn Phúc Anh “Bối cảnh tri thức và sự hình thành hố ngun luận của Lê Văn Ngữ”.

Nguyễn Thị Thu Hiền - Cao học Hán Nôm K52

4


“Phụ tra tiểu thuyết” của Lê Văn Ngữ - Khảo cứu và phiên dịch

Ngoài nước: Các học giả nghiên cứu nước ngồi có: “Tìm hiểu Chu Dịch cứu
ngun” của Benjamin Wai ming Ng (Ngô Vĩ Minh) 吾偉明 (Chinese University
of Hong Kong) trong hội nghị lần 3 về Nho giáo Việt Nam tổ chức tại thành phố
Hồ Chí Minh từ ngày 19 đến ngày 21/7/2006; bài viết “Việt Nam cuồng sĩ Lê Văn
Ngữ „Đại học tích nghĩa‟ đối „đại học‟ đích thuyên thích” (越南狂士黎文敔‘大
學晰義對大學’的詮釋) của Lý Trác Nhiên (黎焯然 - Singapore) tại hội thảo
Nho học Đông Nam Á tổ chức ở Đài Loan năm 2005; Nghiên cứu lý học dịch học

của Lê Văn Ngữ (黎敔理學易學研究) của học giả Trung Quốc Hướng Thế Lăng (
向世陵) được đăng trên mục Hội thảo khoa học trang web Viện Nghiên cứu Hán
Nôm.
Đây là những bài viết, bài nghiên cứu liên quan đến tác phẩm của Lê Văn
Ngữ. Riêng về cuốn “Phụ tra tiểu thuyết” chúng tơi đã tìm kiếm bằng các phương
tiện tìm kiếm trên mạng cũng như trong sách vở, tạp chí hay các nghiên cứu khoa
học thì chưa thấy có một cơng trình nào nghiên cứu chuyên biệt về tác phẩm này
của ông.
3. Phạm vi nghiên cứu
Cuốn “Phụ tra tiểu thuyết” gồm 178 trang, trong đó gồm nhiều bài viết về
các vấn đề khác nhau. Trong phạm vi và khả năng cho phép chúng tôi cũng chỉ xin
được triển khai luận văn trên phương diện khảo sát trước hết rồi sau đó chọn lọc để
nghiên cứu một số nội dung tiêu biểu thể hiện được các đặc trưng hay tư tưởng của
tác giả.
Khi đi khảo sát nội dung cơ bản của tác phẩm, luận văn cũng tìm ra những
điểm chính nhất và liên hệ thực tế xem những vấn đề đó đã được khảo cứu hay
chưa và khảo cứu ở những khía cạnh nào? Có hay khơng sự kế thừa hay tương
đồng về mặt tư tưởng.
Nguyễn Thị Thu Hiền - Cao học Hán Nôm K52

5


“Phụ tra tiểu thuyết” của Lê Văn Ngữ - Khảo cứu và phiên dịch

4. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm 3 chương
Phần mở đầu, luận văn trình bày các vấn đề như lý do, mục đích chọn đề tài.
Đây được coi là phần mở màn cho nên luận văn cũng cố gắng truyển tải những nội
dung cơ bản nhất, ngắn gọn nhưng phải đáp ứng đủ lượng thông tin để người đọc

nắm bắt được ý nghĩa và có thể nắm bắt được hướng triển khai đề tài.
Chương 1: Tác giả Lê Văn Ngữ và sự nghiệp tác phẩm
Ở chương 1, chúng tôi xin được lược qua về thân thế và sự nghiệp tác phẩm
của tác giả. Về thân thế và sự nghiệp của ông có thể nói các luận văn và các bài
nghiên cứu cũng đã đề cập đến khơng ít, chúng tơi cũng xin được trích lược một
cách khái quát nhất để làm nổi bật những nét cơ bản trong cuộc đời ơng. Sau đó
luận văn đi tìm hiểu cụ thể tác phẩm “Phụ tra tiểu thuyết”, từ sự ra đời của tác
phẩm đến cấu trúc nội dung tác phẩm. Ở phần cấu trúc nội dung tác phẩm, luận văn
tóm tắt nội dung cơ bản nhất ở một số thiên luận tiêu biểu để có thể đáp ứng được
lượng cung cấp thơng tin về các vấn đề được ghi chép, bàn luận. Từ việc khảo cứu
cấu trúc và phân tách nội dung tác phẩm, luận văn khẳng định những giá trị đóng
góp của tác phẩm và đặt tác phẩm trong mối quan hệ với các tác phẩm khác của tác
giả để thấy được vị thế thực tế của nó để từ đó đúc rút ra những giá trị thiết thực.
Chương 2: Chuyến công du tây Phương và những ảnh hưởng đối với cách
nhìn của Lê Văn Ngữ
Chương này chúng tơi chỉ tập chung làm rõ vấn đề ảnh hưởng của phương
Tây đối với quan điểm, cách nhìn nhận về xã hội phương Đơng của tác giả nói
chung. Nhưng để làm rõ được vấn đề này, trước hết luận văn cũng làm rõ bối cảnh
lịch sử xã hội cuối thế kỷ XIX đầu XX, tìm hiểu cách nhìn của Nho giáo đối với
Nguyễn Thị Thu Hiền - Cao học Hán Nôm K52

6


“Phụ tra tiểu thuyết” của Lê Văn Ngữ - Khảo cứu và phiên dịch

các vấn đề phương Tây như thế nào. Khi tìm hiểu ảnh hưởng trong cách nhìn của
tác giả, luận văn sẽ triển khai vấn đề dựa trên những tài liệu ghi chép trong chuyến
công du của tác giả để thấy được sự ảnh hưởng đó theo chiều hướng tích cực hay
tiêu cực. Chương này luận văn chỉ giới hạn ở hai vấn đề như vậy và mục đích chính

là để tìm hiểu xem từ những ảnh hưởng trong cách nghĩ ấy có thấy được định
hướng con đường mà tác giả lựa chọn cho sự phát triển của Nho giáo hay không.
Chương 3: “Phụ tra tiểu thuyết” và một số vấn đề tư tưởng đầu thế kỷ XX.
Đây là chương nội dung chính trong cấu trúc luận văn. Chương này luận văn cố
gắng làm nổi bật mục đích để định hướng rõ ràng khi đi sâu vào viết các tiểu mục.
Luận văn sẽ trình bày các vấn đề dựa trên cơ sở tìm hiểu tổng quát nội dung tác
phẩm để chắt lọc ra những phần tiêu biểu thể hiện rõ những nội dung tư tưởng của
tác giả. Với tiêu chí ln bám sát văn bản để trích dẫn và phân tích là phương pháp
cơ bản được sử dụng trong phần viết này. Luận văn sẽ trình bày những vấn đề thể
hiện rõ nhất tư tưởng của tác giả để từ đó giúp chúng ta thêm hiểu về con người Lê
Văn Ngữ, hiểu hơn về mục đích viết sách của ông và con đường mà ông đang lựa
chọn. Tuy nhiên bên cạnh đó trong qua trình tìm hiểu những nơi dung tư tưởng
chính của tác phẩm, luận văn cũng cố gắng đưa ra những đánh giá, nhận định khách
quan để thấy được những cơ sở học thuyết mà tác giả Lê Văn Ngữ nói đến hay
được ơng sử dụng đến có cơ sở căn cứ vững chắc khơng, qua đó có thể nhận định
được những đóng góp của tác giả về mặt lý luận, thực tiễn cho việc nghiên cứu học
thuật của mình.
Phần kết luận, tóm lược lại những nội dung đã trình bày cụ thể theo cấu trúc
bố cục đã phân chia rõ ràng. Tổng kết và đúc rút những vấn đề cơ bản nhất, bên
cạnh việc nêu ra những ưu điểm thì cũng chỉ ra những hạn chế nhược điểm còn tồn
tại của luận văn để xin hướng đóng góp ý kiến cho hồn chỉnh hơn.
Nguyễn Thị Thu Hiền - Cao học Hán Nôm K52

7


“Phụ tra tiểu thuyết” của Lê Văn Ngữ - Khảo cứu và phiên dịch

Phần cuối cùng là phụ lục tác phầm. Phần này luận văn đánh lại một số thiên
trong văn bản rồi thực hiện công tác phiên âm dịch nghĩa nội dung của các thiên đó.

Sau cùng là danh mục các tài liệu tham khảo trong quá trình thực hiện đề tài.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Bất kì một bài nghiên cứu khoa học hay một chuyên luận nào muốn đạt được
yêu cầu và mục đích đặt ra cần phải vận dụng được những phương pháp phù hợp
cho hướng phát triển đề tài của mình.
Trước hết luận văn sử dụng phương pháp văn bản học nhằm điều tra, sưu
tầm các tài liệu, bài viết, nghiên cứu có liên quan đến tác giả - tác phẩm, để biết
được tác phẩm trên thực tế đã được quan tâm nghiên cứu hay chưa đối với cả học
giả trong nước cũng như nước ngoài. Đây là phương pháp không thể thiếu trong
bấy kỳ một cơng trình khoa học nào, bởi vì khâu tiếp cận văn bản, mở rộng tìm
hiểu những vấn đề hay bài viết có liên quan là rất quan trọng gúp chúng ta có
những nhận định, cơ sở so sánh và tổng hợp.
Tiếp theo luận văn sử dụng phương pháp phân tích ngữ văn nhằm tìm hiểu
nội dung cụ thể thơng qua việc dịch nghĩa một số thiên trong tác phẩm lựa chọn để
nghiên cứu. Việc sử dụng phương pháp này luận văn mong muốn có thể tìm hiểu
được một cách sâu hơn nhũng nội dung tư tưởng của tác giả và ý nghĩa giá trị học
thuật của tác phẩm.
Việc vận dụng các phương pháp vào bài làm cụ thể, mục đích của luận văn
khơng nằm ngồi việc làm sao có thể tổng hợp, thâu tóm và đánh giá một cách cơ
bản nhưng phải nổi bật được những vấn đề quan trọng được tác giả đề cập tới trong
tác phẩm của mình. Từ đó mới có thể mang lại cho học giả quan tâm sự nhìn nhận

Nguyễn Thị Thu Hiền - Cao học Hán Nôm K52

8


“Phụ tra tiểu thuyết” của Lê Văn Ngữ - Khảo cứu và phiên dịch

và đánh giá khi tiếp cận bài viết cũng như hiểu được những giá trị to lớn của tác

phẩm.
6. Yêu cầu cần đạt
Trong luận văn, chúng tôi sẽ giới thiệu khái quát tác phẩm, những nội dung
đã được tác giả đề cập trong tác phẩm của mình. Vì đây là một cuốn nhật ký được
ghi lại trong suốt hành trình đi Pháp của tác giả nên tính chất của nó cũng có phần
đặc biệt. Tác giả ghi lại những điều mắt thấy tai nghe về những điều bản thân
chứng kiến. Nhưng không hẳn chỉ đơn thuần là ghi chép lại mà tác giả cịn có sự
so sánh giữa những điều mình đang được tận mắt chứng kiến với thực tế xã hội
phương Đông để cho chúng ta thấy được sự tiến bộ trong cách nghĩ, cách tư duy
hay cuộc sống của người phương Tây.Và vấn đề chính mà tác giả muốn hướng tới
chính là để mọi người biết đến các học thuyết và các giá trị tư tưởng Nho giáo của
mình, sự tiên tiến trong cách tư duy mà tác giả tiếp thu được trong chuyến đi của
mình.
Luận văn rất mong muốn có thể tìm hiểu được các vấn đề một cách kỹ
lưỡng, làm rõ được những nội dung tư tưởng của tác giả để thấy được sự khác nhau
trong hệ tư tưởng của Nho giáo và phương Tây lúc bấy giờ. Tuy nhiên ở một giới
hạn cho phép luận văn cũng cố gắng để đạt đến yêu cầu cần đạt khi thực hiện đề tài,
cố gắng thâu tóm những vấn đề cơ bản nhất để khái quát thành những vấn để
nghiên cứu riêng.

Nguyễn Thị Thu Hiền - Cao học Hán Nôm K52

9


“Phụ tra tiểu thuyết” của Lê Văn Ngữ - Khảo cứu và phiên dịch

CHƢƠNG 1: TÁC GIẢ LÊ VĂN NGỮ VÀ SỰ NGHIỆP
TÁC PHẨM
Trong chương 1, luận văn đi tìm hiểu và trình bày các vấn đề chính về tác giả,

sự nghiệp trước tác để sơ bộ mang đến cái nhìn tổng qt nhất về cuộc đời cũng
như những đóng góp to lớn của tác giả Lê Văn Ngữ trên con đường nghiên cứu học
thuật nói riêng. Tiếp đó luận văn sẽ đi riêng tìm hiểu văn bản “Phụ tra tiểu thuyết”
và những cấu trúc nội dung được sắp xếp căn cứ theo văn bản chính văn, tóm lược
nội dung được tác giả nói đến trong các thiên cụ thể. Cuối cùng luận văn đưa ra
những đánh giá về mặt giá trị của tác phẩm để thấy được những giá trị đáng được
ghi nhận, kế thừa và có thể là hướng lựa chọn nghiên cứu cho bất kỳ học giả nào.
1.1 Tác giả Lê Văn Ngữ
Theo tư liệu được biết trong cuốn “Tên tự tên hiệu của các tác gia Hán nôm
Việt Nam” của tác giả Trịnh Khắc Mạnh thấy ghi rằng Lê Văn Ngữ tên hiệu là Lê
Văn Ngữ, tự là Ứng Hòa, người xã Vạn Lộc, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định
nhưng trên thực tế thì thân thế và sự nghiệp của ông cũng chưa được rõ ràng, chỉ
biết ông sống vào khoảng cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.
Trên những căn cứ đã được ghi chép lại, các nhà nghiên cứu đi trước đã tìm
hiểu được thân thế của tác giả: ông sinh ra ở làng Vạn Lộc, nay thuộc xã Xuân
Phong, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định, đất đai của gia đình ơng hiện đang
nằm ở xóm 12 xã Xuân Phong và từ đó dần hiểu thêm về gia thế của ông. Lê Văn
Ngữ sinh ra trong một gia đình có truyền thống 5 đời dạy học, bản thân Lê Văn
Ngữ là một nhà hào phú, thơng gia với cử nhân tri phủ Vân Đình là Trần Trác. Lê
Văn Ngữ thường hay làm phúc và khi đó các quan phủ Xuân Trường đều rất nể
Nguyễn Thị Thu Hiền - Cao học Hán Nôm K52

10


“Phụ tra tiểu thuyết” của Lê Văn Ngữ - Khảo cứu và phiên dịch

ông. Theo lời kể của một người cháu đời thứ 3 của ông được biết rằng Lê Văn Ngữ
sinh vào năm 1860 và mất năm 1934 (Theo nghiên cứu điền dã được ghi lại trong
luận văn thạc sỹ của Mai Thu Quỳnh). Họ Lê của ông xuất phát từ họ Phạm ở Kiến

Xương - Thái Bình. Cụ tổ bốn đời của ông lấy con gái họ Lê ở Vạn Lộc và sinh
sống ở Vạn Lộc nên đã đổi sang họ Lê. Mẹ Lê Văn Ngữ là một người cơng giáo,
đến cuối đời thì Lê Văn Ngữ lại theo kito giáo. Ơng đã từng theo đồn đi sứ của
triều đình nhà Nguyễn đi sứ sang Pháp, cũng từng tiếp đón các văn thân của phong
trào Duy Tân ở nhà mình. Về sau ơng có gửi sách cho triều đình Huế, triều đình
nhận và tặng ơng tước Cửu Phẩm văn gian và một đồng tiền vàng. Từ đó mọi người
gọi ông là Cửu Ngữ. Lê Văn Ngữ đã từng cưới 3 người vợ sinh được 8 người con
trai và 5 người con gái. Mặc dù theo khảo cứu biết được Lê Văn Ngữ được sinh
trưởng trong một gia đình khoa bảng nhưng con đường hoạn lộ của ông không
được suôn sẻ khi ông không trúng tuyển một kỳ khảo thí nào. Đây cũng chính là
một lý do dẫn đến việc những thông tin về bản thân cũng như gia đình ơng tương
đối ít mặc dù những đóng góp của ông trong thời kỳ này cũng có khá nhiều. Sau
khi khơng sn sẻ trên con đường khoa bảng, ơng đóng cửa khơng tham gia thi cử
trong các khóa thi nữa mà dành thời gian chuyên tâm nghiên cứu học thuật các kinh
điển Nho giáo. Tuy không dấn thân vào con đường quan lộ nữa nhưng khơng phải
vì thế mà Lê Văn Ngữ trở thành một ẩn sĩ lánh đời, mà trái lại khát vọng và mong
muốn đem hết tài trí của mình phục vụ cho việc chấn hưng Nho giáo chưa một
ngày ngi ngoai.
Như vậy ta có thể khái qt những nét cơ bản về tác giả Lê Văn Ngữ, ơng là
một nhà trí thức Nho học nổi tiếng. Ơng sinh ra, lớn lên và sống gần như trọn đời ở
làng Vạn Lộc, Xuân Trường, Nam Định. Năm 40 tuổi ông được phụ tá đệ tam giáp
tiến sĩ Từ Đạm sang Pháp và trở thành một người cơng giáo. Ơng vốn là một nho sĩ
Nguyễn Thị Thu Hiền - Cao học Hán Nôm K52

11


“Phụ tra tiểu thuyết” của Lê Văn Ngữ - Khảo cứu và phiên dịch

có tấm lịng nhân bản, sớm tiếp xúc với tri thức và tư tưởng mới của phương Tây

đương thời, có đầu óc cách tân và cũng ln ấp ủ lý tưởng tiên ưu và trị bình của
nhà Nho. Mặc dù cuối đời ông theo kito giáo nhưng những tác phẩm của ông được
viết từ thuở trung niên nên nó vẫn là những tác phẩm thuộc hệ thống thư tịch của
Nho gia và thấm đượm tinh thần của nhà nho buổi giao thời. Cuộc đời ông gắn liền
với các trứ tác cùng những tư tương mà ông theo đuổi với mong muốn được người
đời biết đến. Tuy ông viết nhiều và cũng đưa ra cách nhìn nhận mới trong việc tiếp
thu tư tưởng Nho giáo qua các thư tịch cổ nhưng đáng buồn thay là những cố gắng
của ông chưa thực sự được ghi nhận và đánh giá cao, các học giả cũng chưa biết
đến. Có thể nói cuộc đời ông là sự cống hiến không mệt mỏi cho nền học thuật
nước nhà, những cố gắng ấy tuy mãi sau này mới được tìm hiểu và nghiên cứu do
bối cảnh lịch sử xã hội cũng có nhiều đổi thay, tác động. Những đóng góp to lớn
trong cuộc đời cũng như sự nghiệp nghiên cứu của Lê Văn Ngữ chính là một tấm
gương cho những kẻ hậu học tiếp bước trên con đường nghiên cứu học thuật của
mình.
1.2 Sự nghiệp trƣớ c thuâ ̣t
Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỉ 20 là thời kì khoa cử Nho học đã hoàn toàn bị bãi
bỏ trên cả ba miền đất nước ta. Đứng trước thời cuộc suy tàn của Nho học truyền
thống, các nhà Nho kiểu cũ trong đó có Lê Văn Ngữ đã ra sức vãn hồi lại đạo Nho.
Sự ra đời một loạt các tác phẩm là minh chứng cho hành động và những mong
muôn khôi phục lại nền Nho học của nước nhà trong bối cảnh lịch sử xã hội lúc bấy
giờ. Các tác phẩm của ông bao gồm:
Tác phẩm “Chu dịch cứu nguyên” được chia làm ba phần. Phần đầu là “Bức
thư của thống sứ Bắc kỳ” gửi tác giả (nguyên văn chữ Pháp được dịch ra chữ quốc
Nguyễn Thị Thu Hiền - Cao học Hán Nôm K52

12


“Phụ tra tiểu thuyết” của Lê Văn Ngữ - Khảo cứu và phiên dịch


ngữ) đề năm 1928. Phần “Chu dịch đồ thuyết” gồm các hình vẽ về hà đồ, lạc thư và
64 quẻ của kinh dịch do một người tên là Sỹ biên soạn. Phần nội dung gồm một số
bài chuyên khảo về kinh dịch như nguồn gốc kinh dịch, hà đồ, lạc thư….
Tác phẩm “Đại học tích nghĩa”, biên soạn và viết tựa vào năm 1927.
Tác phẩm “Trung dung thuyết ước” được soạn năm Bảo Đại thứ 2 tức năm
1927. Tóm lược lại nội dung 13 chương sách Trung dung (chữ hán) và có bức thư
gửi thống sứ Bắc kì (chữ nơm) đặt ở đầu sách.
Tác phẩm “Y học toản yếu” gồm 20 bài bàn về thái cực, vận khí, tạng phủ,
khí huyết, trời và người là một. Mối liên quan giữa y học và kinh dịch tim mạch,
tính chất của các vị thuốc, châm huyệt, xem bệnh…..
Tác phẩm “Luận ngữ tiết yếu”, được biên tập và đề tựa năm Bảo Đại Đinh
Mão (năm 1927). Những nội dung chính được chia làm các thiên như đạo học, đạo
giáo, cư xử, ứng đối vấn đáp, nghị luận, phẩm bình…..
1.3 Văn bản và cấ u trúc nô ̣i dung “Ph ụ tra tiểu thuyết”
Để đi sâu tim
̀ hiể u văn bản và cấ u trúc nô ̣i dung tác phẩ m , trước hết luâ ̣n văn
sẽ đi tìm hiểu về sự ra đời của tác phẩm đặt trong bối cảnh lịch sử xã hội thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX. Tiếp đó luận văn phân chia cấu trúc nội dung tác phẩm theo
từng phần và khái quát nội dung chủ yếu trong các thiên sao cho có thể truyền tải
được những nội dung cơ bản và trọng tâm trong tác phẩm , làm tiền đề cho việc đi
sâu phân tić h ở những chương tiế p theo . Cuối cùng là sự ghi nhận những đóng góp
về mặt giá trị tư tưởng của tác phẩm trong hệ thống các tác phẩm của Lê Văn Ngữ
nói riêng với những ý nghĩa thiết thực của nó trong bối cảnh lịch sử xã hội lúc bấy
giờ.

Nguyễn Thị Thu Hiền - Cao học Hán Nôm K52

13



“Phụ tra tiểu thuyết” của Lê Văn Ngữ - Khảo cứu và phiên dịch

1.3.1 Sự ra đời của tác phẩ m và cấ u trúc nội dung tác phẩ m
Ở Việt Nam đầu thế kỷ XX đa số các nhà nho đều muốn vứt bút lơng đi viết
bút chì. Trong bối cảnh đó số ít người cịn nghiên cứu Nho học đã tiến hành cơng
việc của mình với những mục đích và cách thức khác nhau tiến tới việc giữ lại nền
Nho học đã được hình thành và phát triển từ thời cha ông Trong số những nhà Nho
tiêu biểu cho trào lưu tư tưởng cứu vãn đạo Nho có những người mang tư tưởng
muốn cải cách hoàn toàn nhưng cũng có những người lại mong muốn được kế thừa
cái học cũ nhưng có sự kết hợp giao lưu với những cái mới bên ngoài. Tiêu biểu
cho những nhà Nho có hệ tư tưởng như vậy phải kể đến Phan Bội Châu và Lê Văn
Ngữ. Nếu Phan Bội Châu coi Nho học là đối tượng và công cụ để hướng đến cải
cách xã hội thì Lê Văn Ngữ lại sử dụng thành tựu văn minh của cả châu Âu và châu
Á đương thời để xiển phát nội dung Nho học.
Lịch sử Việt Nam kéo dài đến cuối đời Nguyễn đã chứng kiến cảnh Pháp đô
hộ. Kẻ thống trị lạ mặt này vào cướp nước ta mục đích là để thơn tính và thay đổi
Việt Nam từ hình dạng đến lối sống. Chúng cho rằng dân Việt Nam đang sống
trong cảnh mu muội cần phải được khai thơng hóa và hành động của chúng vào
cướp nước ta trong cách nghĩ chúng cho rằng mình giống như một đại ân nhân
mang đến cho dân Việt Nam những tiến bộ, những cải cách và cách cai trị là đem
nền văn hóa phương Tây du nhâp vào đời sống của người dân Việt Nam - một nền
văn hóa rất khác lạ mà chúng ta chưa được biết đến, nó khác hẳn nền văn hóa
phương Đông chúng ta chịu ảnh hưởng trực tiếp từ Trung Quốc bấy lâu nay. Trước
sức ép của chính sách đơ hộ, kinh tế và văn hóa Việt Nam đầy khủng hoảng, tình
hình đó đã tác động mạnh mẽ đến giới tri thức Việt Nam. Nền văn hóa mà họ tiếp
nhận lúc này là nền văn hóa đề cao tây học, bài xích hán học. Đa số những nhà nho
ưu thời mẫn thế không khỏi buồn bã và tiếc nuối trước sự suy tàn của nền Nho học
Nguyễn Thị Thu Hiền - Cao học Hán Nôm K52

14



“Phụ tra tiểu thuyết” của Lê Văn Ngữ - Khảo cứu và phiên dịch

nước nhà, nhưng cũng do họ sống trong thời buổi đang có sự giao thoa giữa cái học
cũ và những nền tri thức mới cho nên những nhìn nhận hay bình chú về các kinh
điển Nho gia thời kỳ này bắt đầu có sự hồi nghi khoa học. Tất cả họ đều có cái
nhìn có chiều hướng đưa những tư duy của tư tưởng phương Tây vào phân tích hay
tổng hợp các tư tưởng Nho giáo. Sống trong giai đoạn lịch sử xã hội có những biến
cố thăng trầm như vậy nên tư tưởng của những nhà nho yêu nước này vẫn mong
muốn làm sao cái học cũ, và những tư tưởng đã được hình thành từ rất lâu đời của
Nho giáo không mất đi, vẫn luôn giữ được nền tảng, gốc rễ.
Tiếp thu tư tưởng của các nhà nho canh tân cuối thế kỷ XIX, một số nhà tư
tưởng đầu thế kỷ XX như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng,
Nguyễn An Ninh….tiếp tục phát triển tư tưởng đó lên trình độ mới, cao hơn về
chất. Các ông đã từ bỏ dần hệ tư tưởng phong kiến, mạnh dạn đi tìm hệ tư tưởng
mới cho dân tộc. Theo Phan Bội Châu, hệ tư tưởng Nho giáo đã hết vai trò lịch sử
và chỉ làm cho dân tộc ta mất dần sức sống. Ông viết:
“Nước Việt Nam mơ màng đôi mắt ngủ, uể oải một thân bệnh, tôn quân
quyền, ức dân quyền, trọng hư văn, khinh võ sĩ, trộm cướp rình mị ngồi sân mà
vợ con say hát trong nhà, chủ nhân nằm dài trên giường luôn luôn ngáp mỏi mệt.
Than ôi! Nguy ngập lắm thay”. Trong bối cảnh xã hội như vậy, đứng trước nguy cơ
mất nước Phan Bội Châu đã thấy được những lạc hậu trong tư tưởng của Nho giáo.
Thực dân Pháp đang nhăm nhe, đẩy mạnh những hành động nhằm thôn tính nước
ta, biến nước ta trở thành thuộc địa vì thế ơng đã cùng với một số nhà nho có tư
tưởng cùng thời công khai tuyên chiến với ý thức hệ lạc hậu phong kiến. Tư tưởng
của Phan Bội Châu lúc này là coi sách Thánh hiền làm công cụ để hướng đến mục
tiêu đổi mới và cải tạo xã hội. Ông nhận thấy những mặt hạn chế của tư tưởng Nho
giáo cũ đã làm cho con người ta trì trệ, đất nước không đi lên được, nếu giữ những
Nguyễn Thị Thu Hiền - Cao học Hán Nôm K52


15


“Phụ tra tiểu thuyết” của Lê Văn Ngữ - Khảo cứu và phiên dịch

tư tưởng quan điểm cũ đó thì dân ta, nước ta không bao giờ trở nên tự cường được.
Xưa nay, trong truyền thống văn hoá Nho giáo, chưa hề có chuyện các nhà Nho đả
kích kịch liệt tư tưởng Nho giáo như vậy. Người ta phê phán từ cách học, cách thi
cho đến hệ thống những giá trị luân lý xa rời cuộc sống của xã hội. Người ta đề cao
khoa học kỹ thuật và lấy tính hiện đại của văn minh xã hội làm phương châm cứu
nước. Để chống lại tư tưởng của những kẻ làm tay sai cho giặc, chỉ thừa nhận đạo
đức kinh viện của giai cấp phong kiến, hoặc sùng bái học thuật của bọn thực dân,
các nhà Nho yêu nước đã phác họa hình ảnh con người mới. Đó là mẫu người có
tinh thần: yêu nước quật cường, yêu đồng bào, ghét cường quyền, trọng danh dự,
trọng nghĩa vụ, thông minh, can đảm, lấy quyền lợi chung của tổ quốc, nhân dân
đặt trên lợi ích cá nhân … Cuộc đấu tranh chống thực dân và tay sai phong kiến
lồng trong cuộc đấu tranh xây dựng nền văn hoá mới làm xuất hiện những khuynh
hướng sau: Hoặc lấy cường quốc Nhật làm tấm gương để canh tân đất nước; hoặc
dựa vào văn minh Pháp để xây dựng, phục hưng dân tộc. Các nhà nho duy tân
khơng chỉ nhìn nhận đối với xã hội lý tưởng mà cịn thay đổi cả cách nhìn lịch sử.
Khơng có một xã hội tận thiện mỹ như các nhà nho xưa nói về thời Đường Ngu.
Thời thái cổ không thể tốt đẹp hơn hiện tại và tương lai, lịch sử khơng vận động theo
lối tuần hồn, thịnh suy, trị loạn đắp đổi để quay về với Đạo, quay về thời thịnh trị
Nghiêu Thuấn. Lịch sử không theo sự sắp đặt của Thiên mệnh và cũng không trông
cậy ở các thánh vương bắt chước Trời. Văn minh là làm cho con người được hạnh
phúc và tự do, đất nước phú cường, cho nên để xây dựng xã hội như thế không thể
trông chờ vào kết quả tu dưỡng đạo đức. Tư tưởng đổi mới của các nhà Nho thời kỳ
này khơng phải là hồn tồn xóa bỏ những tư tưởng đã được các bậc Thánh hiền vun
đắp từ ngàn đời nay mà họ có sự thay đổi trong tư duy, họ không muốn quay lại với

nền Nho học đã bộc lộ rõ những hạn chế nhất định của mình. Họ nhìn phương Tây
Nguyễn Thị Thu Hiền - Cao học Hán Nôm K52

16


“Phụ tra tiểu thuyết” của Lê Văn Ngữ - Khảo cứu và phiên dịch

với con mắt khách quan hơn, muốn học hỏi những cái tốt đẹp, những cái tích cực
trong tư tưởng của Tây âu. Họ nhận ra Tây âu cũng có những thánh hiền, những đại
trước tác khơng những làm thay đổi một cách nhìn thiển cận mà thực sự là sự giải
phóng tư tưởng, mở rộng tầm mắt.
Với cách tiếp thu tư tưởng dân chủ phương Tây mà các nhà Nho xã hội truyền
thống phương Đơng khơng hình dung trải qua một cuộc cách mạng. Con người vẫn
là thành viên của cộng đồng chứ không phải là cá nhân, vẫn định tính bằng có đức,
nhưng bên cạnh tư đức thì có thêm cơng đức. Con người làm đơn vị cho xã hội và
nhà nước mang theo đủ các quan hệ cha - con, anh - em, vợ - chồng. Tam cương hay
Ngũ luân của Nho giáo chỉ cần xóa đi một quan hệ vua - tơi và thay vào đó là nghĩa
đối với nước, với đồng bào, quy định bằng trách nhiệm đối với xã hội.
Cũng là một nhà Nho sống cùng ở thế kỷ XX, Lê Văn Ngữ cũng mang những
tư tưởng tương đồng. Lê Văn Ngữ muốn phục hồi lại nền Nho học truyền thống, ông
luôn ý thức trách nhiệm của một nhà Nho và chưa lúc nào qn nhiệm vụ của mình,
ơng ln đứng trên lập trường của một nho sĩ, hành động với mục đích khơi phục lại
vị trí và giá trị vốn có của Nho học. Cho nên ơng đã có những cố gắng rất nhiều
trong công cuộc vãn hồi đạo nho bằng thực tiễn viết sách của mình và thực tiễn hành
động của mình. Trong bức thư gửi triều đình Huế ơng đã giải thích lý do viết sách
của mình như sau: 士家世業儒幸值大同盛會見儒書之廢講,惧儒教之日衰,遂
乃閉關謝客潛心考究現下釋得 - Sĩ gia thế nghiệp nho hạnh trị đại đồng thịnh hội.
Kiến nho thư chi phế giảng, cụ Nho giáo chi nhật suy, toại nãi bế môn tạ khách tiềm
tâm khảo cứu, hiện hạ thích đắc. (Kẻ sĩ tơi thuộc gia đình đời đời theo Nho học, may

sống trong buổi đại đồng, tôi thấy sách Nho học không được giảng học nữa, sợ Nho
giáo ngày càng suy tàn bèn đóng cửa tại khách lắng lịng tìm hiểu).

Nguyễn Thị Thu Hiền - Cao học Hán Nôm K52

17


“Phụ tra tiểu thuyết” của Lê Văn Ngữ - Khảo cứu và phiên dịch

Trong bức thư gửi Thống sứ Bắc Kỳ, Lê Văn Ngữ tiếp tục trình bày mục đích
viết sách của mình: Tơi đem cái học mới để suy lại cái học cũ, nay nhân thừa sức
học lại chữ nho, tơi đem cả lịng xin quan lớn thương xét, rồi đưa lên quan tồn
quyền xin rộng thương xứ Đơng Dương này mà giương ra tòa hội đồng xét lại có
nên cho học những sách này thì xin phụ cho ấn bản mà ban xuống dân gian cho
được kịp thời học tập. Tôi lại xin phép gửi ra các nước hội đồng dịch ra xét lại để
học giới mỗi ngày mỗi sáng thì kẻ hậu học ngày sau cũng được nhớ ơn quan lớn hết
thảy.
Rõ ràng tác giả đã tự giới thiệu phương pháp làm sách của mình: đem học mới
suy lại học cũ, tức là sử dụng những thành tựu của khoa học hiên đại để giải thích
các vấn để của khoa học truyền thống. Đồng thời từ đoạn trích bức thư trên, tác giả
cịn bày tỏ mong muốn của mình được cho in, được dịch và được cho học ở các
trường học của Pháp ở Việt Nam. Đây thực sự là một dự định táo bạo của một học
giả cận đại với tinh thần giao lưu học thuật, hoằng dương đạo học rất đáng trân trọng
và học tập. Tinh thần giao lưu học tập của tác giả còn được bộc lộ trong hành động
gửi thư của tác giả đến Quảng học hội ở Thượng Hải để trao đổi ý kiến. Chủ trương
đưa kinh điển Nho giáo vào nền giáo dục của xã hội đương thời tức là muốn đi đến
kết quả là đưa cả đời sống văn hóa, tư tưởng của xã hội đương thời quay về với Nho
gia.
Sự khác nhau trong mục đính hành động của Lê Văn Ngữ và Phan Bội Châu

cũng thể hiện tinh thần và thái độ khác nhau của mỗi cá nhân đối với nền Nho học
nước nhà. Phan Bội Châu khẳng định cái học cũ không phải là cái học hủ bại và cái
học mới cũng không phải là cái học phù hoa vơ giá trị. Sở dĩ ơng có chủ trương dung
hợp văn hóa đơng - tây là bởi ơng nhận thức rõ ràng nền Nho học cũ không phải là
cái học lỗi thời mà nó chỉ tiềm ẩn những điểm lạc hậu, nó vẫn ln khẳng định được
Nguyễn Thị Thu Hiền - Cao học Hán Nôm K52

18


“Phụ tra tiểu thuyết” của Lê Văn Ngữ - Khảo cứu và phiên dịch

giá trị đối với xã hội đương thời. Bên cạnh đó ơng cũng khơng ủng hộ lối sống theo
tư tưởng phương Tây là tốt đẹp mà ông chỉ thừa nhận sự phát triển đi lên của xã hội
phương Tây là thức thời bởi họ có sự tiến bộ trong tư tưởng và sự phát triển của khoa
học hiện đại nó là một nhân tố tích cực cho Việt Nam học tập để kiến tạo đất nước.
Nói đến Phan Bội Châu không thể không kể đến “Khổng học đăng” - một tác phẩm
mang nhiều nội dung truyền bá, chấn hưng Nho giáo và mục đích lớn hơn cả là kiến
tạo lại nền văn hóa Việt Nam tương lai. Trong ánh sáng của ngọn đèn Khổng học,
ông hi vọng thức tỉnh người Việt Nam nhận thức những giá trị tốt đẹp của Nho giáo,
trên cơ sở đó tự giác kết hợp Nho giáo với khoa học hiện đại phương Tây làm nên
một diện mạo mới cho văn hóa Việt Nam.
Nối tiếp nhiệm vụ cùng với những nhà Nho sống cùng thời, Lê Văn Ngữ
cũng tích cực dùng ngịi bút, tri thức của mình và hiện thực hóa bằng hành động
sáng tác, đưa các tác phẩm với những nội dung tư tưởng của Nho giáo vào trong đó
để mong mọi người nhận thức được tầm quan trong của tư tưởng Nho giáo trong
đời sống xã hội, trong đó “Phụ tra tiểu thuyết ” là một trong số những tác phẩm của
ông thể hiện rõ những tư tưởng, những mong muốn thiết lập lại nền Nho học truyền
thống. Ông viết: “ …所見所聞參合古今隨事紀論及平日所擬辨疑解惑旁稽互証
編輯成篇顏之曰 “附差小說” - ….Sở kiến sở văn tham cổ kim tùy sự kỷ luận

cập bình nhật sở ngưng biện nghi giải hoặc bàng kê hỗ chính biên tập thành thiên
nhan chi viết “Phụ tra tiểu thuyết” (Tôi đem những điều mắt thấy tai nghe và tham
khảo thêm những việc từ cổ tới kim để luận bàn, biện giải những điều còn nghi
hoặc thường ngày, khảo cứu và biên tập viết thành sách có tựa đề “Phụ tra tiểu
thuyết”). 俾資考究庻足以寬十餘年寥寂之懷而一得効愚或可以仰答 - Bỉ tư
khảo cứu độ túc dĩ khoan thập dư niên liêu tịch nhi nhất đắc hiệu ngu hoặc khả dĩ
ngưỡng đáp (Tư chất kém cỏi, việc khảo cứu chỉ mong làm rộng lớn những tư
Nguyễn Thị Thu Hiền - Cao học Hán Nôm K52

19


“Phụ tra tiểu thuyết” của Lê Văn Ngữ - Khảo cứu và phiên dịch

tưởng ôm ấp suốt hơn 10 năm nay cho thành hiệu quả mà có thể ngưỡng đáp được
nhiều điều cịn mờ tối nghi hoặc).
Mục đích viết cuốn “Phụ tra tiểu thuyết” của tác giả để nhằm đưa những
điều còn nghi hoặc cần làm tỏ tường được khai thông, kết hợp với những điều mắt
thấy tai nghe mà biện giải để xiển phát nội dung Nho học trong đời sống. Tác phẩm
là tập hợp các bài viết về chuyến đi sứ phụ tá Từ Đạm sang Pháp của Lê Văn Ngữ
từ lịch trình chuyến đi, những điều tác giả thấy, những điều tác giả muốn bàn luận,
thư của tác giả thay mặt Từ Đạm viết gửi triều đình. Trong cuốn này tác giả kể rằng
mình cùng phái đồn đi Pháp từ ngày 2/4 năm Thành Thái 12 (1900) đến ngày 7/8
năm Thành Thái thứ 12 (1900) thì về đến Hải Phòng: Kẻ bất tài từng theo quan đốc
học Thái Nguyên đi sang Pháp, nhưng theo ghi chép của chính Từ Đạm trong cuốn
“Lãm tây kỷ lược” - mục “lãm tây kỷ trình” ở cuối sách thì khi đó ông giữ chức Tri
phủ Xuân Trường: Đạm tôi lúc đó vâng nhận chức Tri phủ Xuân Trường, vì thế
chúng ta nên theo Từ Đạm để đính chính lại thơng tin khi Lê Văn Ngữ phụ tá Từ
Đạm sang pháp thì Từ Đạm đang giữ chức Tri phủ Xuân Trường chứ không phải
giữ chức đốc học tỉnh Thái Nguyên như Lê Văn Ngữ nói trong tác phẩm. Cuốn

sách này cịn chép bài “phụ lục tại hành vấn đáp” viết năm Thành Thái thứ 17
(1905), từ đó suy ra sách này được ra đời trong khoảng từ năm 1900 - 1905 , tức là
được viết trước các tác phẩm nói trên của ơng. Nhưng có lẽ tác phẩm được viết
theo tính chất là một cuốn nhật ký cho nên “Phụ tra tiểu thuyết” không được kể
đến trong danh mục các tác phẩm được tác giả viết và gửi đi nhằm khẳng định tên
tuổi của mình và chấn hưng Nho học.
Như vậy căn cứ theo thời gian ra đời ta khẳng định được “Phụ tra tiểu
thuyết” là tác phẩm được viết đầu tiên của Lê Văn Ngữ trong hệ thống các trứ tác
của ông. Hiện tác phẩm còn được lưu giữ tại viện nghiên cứu Hán Nơm mang kí
Nguyễn Thị Thu Hiền - Cao học Hán Nôm K52

20


“Phụ tra tiểu thuyết” của Lê Văn Ngữ - Khảo cứu và phiên dịch

hiệu VHv.1881. Văn bản tác phẩm gồm tất cả 178 trang nhưng trong đó có có 8
trang cuối chữ khó đọc, cịn lại đều được viết bằng lối chữ chân rõ ràng. Tìm hiểu
sơ bộ tổng quát tác phấm, cách viết của tác giả chúng tôi thấy về mặt bố cục của tác
phẩm tác giả dường như phân ra khá rõ ràng làm các phần : Phần ký, phần khảo và
biện giải, các bài tóm lược và luận bàn theo đúng như chủ trương viết sách của tác
giả. Luâ ̣n văn xin đươ ̣c khái quát về nô ̣i dung trong các phầ n đươ ̣c chia theo bố cu ̣c
của tác giả như sau: Phần ký, phần khảo - biện và phần lược giải, luận bàn.
Ở phần “ký” này, chủ yếu là những ghi chép cụ thể của tác giả về hành trình
của chuyến đi, từ ngày tháng xuất hành, địa điểm đến cho tới những cảm nhận về
các sự vật hiện tượng xung quanh mình như cảm nhận về quán trọ nơi mình ở, cảm
nhận về mảnh đất nơi mình đặt chân đến và cũng là địa điểm chính trong chuyến
cơng du đi Pháp của tác giả đó chính là thành Pari….. Phần này, tác giả chia thành
nhiều bài viết với những nội dung khác nhau, nhưng đều là những ghi chép trên
chặng đường đi của mình, những điều tác giả thấy khác lạ so với phương Đông

chúng ta. Luận văn xin được liệt kê các bài viết và tóm lược những nội dung chính.
- 海程記 Hải trình ký (ghi chép về hành trình chuyến đi): Tác giả ghi lại hành trình
chuyến đi cơng du sang Pháp của mình, từ ngày giờ địa điểm xuất phát: 8 giờ sáng
ngày mùng 2 tháng 4 năm Thành Thái bắt đầu khời hành. Bản quan do Thống sứ
phủ lệnh chỉ 5 giờ chiều xuống thuyền về phía Nam. Hành trình chuyến đi của tác
giả đi qua rất nhiều nơi như tới của biển Hải Phòng, qua Quảng Nam - Đà Nẵng,
Quy Nhơn, Khánh Hòa, Nha Trang, Cần Thơ, Ga Định. Vượt ngàn dặm xa xôi con
thuyền công du đưa tác giả qua các nước như Anh, Ấn Độ Dương….
- 火輪船記 Hỏa luân thuyền ký (Ghi chép việc đi tàu): Nội dung bài viết tác giả có
nói rằng: Trước đây khi kỹ thuật hàng hải chưa được phát triển, người ta đi biển
điều đáng sợ là gió bão, đáng sợ nhất là sương mù. Nhưng từ khi biết vận dụng cơ
Nguyễn Thị Thu Hiền - Cao học Hán Nôm K52

21


“Phụ tra tiểu thuyết” của Lê Văn Ngữ - Khảo cứu và phiên dịch

khí để thao túng do con người điều khiển thì việc đi tàu thuyền cũng giống như
đường bộ vậy.
- 住館記 Trụ quán ký (Ghi chép về quán trọ): Ghi lại những cảm nhận về nơi ở
của tác giả khi đặt chân đến thành Pari: Quán trọ trong thành Pari là một tòa cao
khoảng 4 - 5 tầng, mỗi tầng có gần một nghìn phịng, trong phịng lại được trang trí
lộng lẫy. Các phịng đều đẹp, phịng bếp được quét dọn sạch sẽ sáng sủa. Khách tới
trọ hàng ngày nhiều vô kể, không dưới 100 người. Từ 8 giờ sáng đến 10 giờ tối
khách vãng lai và khách trong thành từ già trẻ gái trai đều đông đúc, tiếng người
nói, tiếng xe chạy, tiếng ngựa phi thật huyên náo. Gian nhà ăn tiếng sáo tấu lên như
có yến tiệc. Giá cơm được phân ra làm bốn hạng. Hạng một 10 quan tiền tây, hạng
2 là 7 quan tiền tây, hạng 3 là 5 quan tiền tây, hạng 4 là 3 quan tiền tây. Trong nhà
được kết cấu một đường ngầm ở mỗi tầng đều được lắp đặt một máy cao khoảng 20

- 30 thước tây chuyên để bố trí truyền đường điện dẫn nước tới các phịng. Trong
ống dây đồng lại bố trí một con ốc có nút đóng mở để tiện cho việc dẫn đèn thắp
sáng ở trong phịng ngồi cửa.
- 商務記 Thương vụ ký (Ghi chép về thương vụ): Là những ghi chép của tác giả
về thương vụ. Ở phần viết này tác giả nêu bật lên ưu điểm và những thế mạnh của
các nước phương Tây họ đầu tư và phát triển thương vụ như thế nào và liên hệ so
sánh với sự phát triển thương vụ còn rất nhiều hạn chế ở các nước phương Đơng,
đó chính là ngun nhân tại sao phương Tây họ tiến bộ, họ phát triển kinh tế hơn
phương Đông. Tác giả nói rằng: Phàm là con người sống mà khơng giao dịch thì
sao có thể đầy đủ được, cho nên thời xưa con người mong muốn mở rộng đất đai
mà chăm lo nông vụ, hàng ngày tập trung vào bn bán. Từ trước đến nay người ta
nói rằng sinh kế phồn vinh thì dần thức ăn cũng khơng đủ cung cấp cho nên phải
mở mang thương vụ….Việc phát triển thương vụ phải đi đôi với phát triển khoa
Nguyễn Thị Thu Hiền - Cao học Hán Nôm K52

22


“Phụ tra tiểu thuyết” của Lê Văn Ngữ - Khảo cứu và phiên dịch

học kỹ thuật bởi vì khi cơ khí chưa phát triển thì hàng hóa làm ra khơng được tinh
xảo, mà như thế thì hàng ngoại nhập sẽ phát triển, dân ta sẽ phải tiêu thụ hàng hóa
từ bên ngoài mà lợi lại chẳng được bao nhiêu. Và ngược lại, khi con người chế tạo
được ra những hàng hóa tinh xảo mà lại khơng có giao thương thì cũng không sinh
lợi được. Lê Văn Ngữ cũng nhận xét rằng: Xem xét ở các nước phương Tây, ngân
hàng nhà nước và các ngân hàng tư nhân đều có mối tương thơng với nhau và nó là
một thể thống nhất với thương vụ. Cho nên phàm là những điều gì có hại cho
thương vụ thì nhà nước khơng làm, nếu có lợi cho thương vụ thì nhà nước sẽ mở
đường. Nếu sức của một người chưa đủ thì tập trung sức của nhiều người lại, nếu
sức của nhiều người tập trung lại vẫn chưa đủ thì nhà nước sẽ cùng giúp sức. Còn ở

nước ta thương vụ chưa phát triển là do chưa mở rộng quan sát, kỹ nghệ chưa điêu
luyện, các quan thương thế lực chỉ cầu danh, làm việc quá trọng nghi thức, coi
trọng văn chương. Muốn chấn hưng thương vụ phải mở mang xem xét học hỏi, như
các nước phương Tây từ trước tới nay thời nào họ cũng biện biệt phân tích rõ
những điều lợi điều hại đối với thương vụ.
- 巴移城記 Pari thành ký (Ghi chép về thành Pari): Cảm nhận của tác giả khi đặt
chân đến Pari thủ đô của nước Pháp: Thành Pari - thủ đô của nước Pháp, được kiến
tạo từ cách đây năm trăm mấy mươi năm, dân cư đông đúc, hiện nay có khoảng
hơn bảy vạn sáu ngàn hộ. Thành Pari rất rộng lớn khoảng hơn hai vạn mẫu tính
theo thước Tây, đây là một nơi buôn bán sầm uất, nhiều thương gia giàu có, nhiều
lầu son gác tía. Giao thông tấp nập, tàu hỏa, xe điện, xe ngựa, xe đạp ngày đêm đi
lại không ngớt…Những cảm nhận về cuộc sống tấp nập ở thành Pari này quá khác
xa so với nơi tác giả sống nên ông không thể không ghi chép lại.
- 濃霧記 Nông vụ ký (Ghi chép về nông vụ): Thiên này, tác giả đề cập đến sự phát
triển của nông vụ được chú trọng ra sao ở phương Tây nói chung và những hạn chế
Nguyễn Thị Thu Hiền - Cao học Hán Nôm K52

23


×