Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

(Luận văn thạc sĩ) đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh thừa thiên huế trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.98 MB, 124 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ



NGUYỄN THÀNH MINH

ĐỔI MỚI VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC Ở
TỈNH THỪA THIÊN HUẾ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2010


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


NGUYỄN THÀNH MINH

ĐỔI MỚI VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
Ở TỈNH THỪA THIÊN HUẾ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số:

60 22 85


Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. NGUYỄN QUỐC PHẨM

HÀ NỘI - 2010


MỤC LỤC
Trang
Mở ĐầU......................................................................................................... 0
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài .............................................................. 3
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn .................... 9
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn ...................................... 9
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu ............................... 9
6. Đóng góp mới của luận văn................................................................... 10
7. Kết cấu của luận văn ............................................................................. 10
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về chính sách dân tộc và sự cần thiết
phảI đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc ........................................ 11
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn
đề dân tộc và chính sách dân tộc ............................................................... 11
1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về chính sách dân tộc .. 27
1.3. Sự cần thiết phải đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc và khái
qt q trình đổi mới thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước
ta ............................................................................................................... 35
Chương 2. THực trạng và những vấn đề đặt ra trong việc thực hiện chính sách
dân tộc ở tỉnh thừa thiên huế ......................................................................... 43
2.1. Đặc điểm về điều kiện địa lý, kinh tế - xã hội, văn hóa và mối quan hệ
giữa các dân tộc thiểu số ở tỉnh Thừa Thiên Huế ..................................... 43
2.2. Thực trạng việc thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Thừa Thiên Huế 54
2.3. Những vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh
Thừa Thiên Huế ........................................................................................ 79

Chương 3. Quan điểm và giảI pháp cơ bản nhằm đổi mới việc thực hiện chính sách
dân tộc ở tỉnh thừa thiên huế trong giai đoạn hiện nay ....................................... 83
3.1. Quan điểm chỉ đạo ............................................................................. 83
3.2. Các nhóm giải pháp cơ bản nhằm đổi mới việc thực hiện chính sách
dân tộc ở tỉnh Thừa Thiên Huế .................................................................. 87
KếT LUậN ................................................................................................ 103
DANH MụC TàI LIệU THAM KHảO .................................................... 106

0


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em trong đó có
53 dân tộc thiểu số chủ yếu sinh sống rải rác trên những vùng rừng núi của đất
nước, nơi có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, an ninh, quốc
phịng và mơi trường sinh thái. Tuy có tập qn, tâm lý, trình độ phát triển
khác nhau nhưng các dân tộc đều là anh em một nhà, tương thân, tương ái,
cùng tạo ra bản sắc văn hóa đặc trưng của Việt Nam trong nền văn hóa đa
dạng của các tộc người.
Sự phát triển của lịch sử cộng đồng các dân tộc Việt Nam gắn liền với
cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước, là lịch sử của tinh thần đoàn kết tạo
nên sức mạnh to lớn để chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Truyền thống đoàn
kết đã trở thành bản sắc văn hóa riêng của con người Việt Nam, nó được bắt
nguồn từ hàng ngàn năm lịch sử và được nâng lên một tầm cao mới kể từ khi
có sự lãnh đạo của Đảng.
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã coi việc vận động đồng bào các dân
tộc thiểu số như một trong những cơng tác quan trọng có ý nghĩa chiến lược.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I (3-1935) đã xác định: “Trung
ương, các xứ ủy và các tỉnh ủy (trong những tỉnh có dân tộc thiểu số) phải

cử ra một số người chuyên môn nghiên cứu và chỉ đạo công tác vận động
các dân tộc thiểu số ”[22, tr.74]. Cách mạng Tháng Tám thành công, dưới
điều kiện mới là một nước Việt Nam độc lập, cơng tác dân tộc đã được
Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ Tịch đặc biệt quan tâm. Ngày 9- 9 - 1946,
Chính phủ ra nghị định số 359 thành lập nha dân tộc thiểu số để nghiên cứu
và giải quyết mọi vấn đề có liên quan đến cơng tác dân tộc trên tồn đất
nước. Từ đó đến nay, vấn đề dân tộc nói chung và dân tộc thiểu số nói

1


riêng ln chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong các quyết sách của Đảng
và Nhà nước ta. Trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Đảng ta
đã nêu rõ “vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược, cơ
bản, lâu dài trong sự nghiệp cách mạng ”[21, tr.121]
Trong những thắng lợi vĩ đại của lịch sử dân tộc dưới sự lãnh đạo của
Đảng, cùng với cả nước, đồng bào các dân tộc thiểu số đã có những đóng góp
cực kỳ to lớn. Vùng đồng bào các dân tộc là cái nôi của những căn cứ cách
mạng, của chiến khu xưa, là bàn đạp cho những cuộc tiến công và nổi dậy
đánh đuổi kẻ thù xâm lược. Ngày nay, đất nước đã có những bước chuyển
biến to lớn và vươn lên mạnh mẽ trong công cuộc đổi mới, vùng miền núi và
đồng bào các dân tộc thiểu số đã và đang tạo ra thế chiến lược lâu dài cho sự
tăng trưởng kinh tế - xã hội, là lá chắn vững chắc cho sự nghiệp giữ vững nền
độc lập dân tộc. Bên cạnh những thành tựu phát triển to lớn của đất nước,
đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi, ở các vùng sâu, vùng xa vẫn cịn
tình trạng nghèo khó, bệnh tật và thất học...Thực trạng đó địi hỏi cần phải đổi
mới hơn nữa chính sách dân tộc nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho đồng bào, góp phần ổn định chính trị, giữ vững an ninh biên giới, tăng
cường đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tỉnh Thừa Thiên Huế có hai huyện miền núi là Nam Đơng và A Lưới,

bốn huyện có xã miền núi là Hương Trà, Phú Lộc, Phong Điền, Hương Thủy.
Các dân tộc thiểu số sinh sống ở Thừa Thiên Huế chủ yếu gồm Tà - Ơi, Pa kơ,
Pa hy, Vân kiều, Cơ tu và một bộ phận nhỏ các dân tộc khác, tập trung chủ yếu
ở các huyện xã trên. Tuy nhiên, hiện nay giữa địa phương và Trung ương vẫn
chưa thống nhất tên gọi của một số tộc người. (Người Pa kơ, Pa hy khơng có
trong danh mục các dân tộc ở Việt Nam, mặc dù tỉnh Thừa Thiên Huế đã nhiều
lần đề nghị bổ sung vào danh mục dân tộc Pa kơ). Đây là một khó khăn lớn
trong thực hiện chính sách dân tộc, đặc biệt trên phương diện tâm lý tộc người.

2


Với truyền thống đoàn kết, tinh thần yêu nước, các dân tộc thiểu số tỉnh
Thừa Thiên Huế đã góp phần to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo
vệ Tổ quốc. Từ sau khi thống nhất đất nước, đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh
Thừa Thiên Huế đã và đang tạo ra thế chiến lược lâu dài cho sự phát triển
kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị trên địa bàn, góp phần vào thắng
lợi của công cuộc đổi mới đất nước. Tuy nhiên, cùng với những thành tựu
phát triển của tỉnh Thừa Thiên Huế trong những năm vừa qua, so với mặt
bằng chung của cả nước, vùng dân tộc thiểu số và miền núi ở Thừa Thiên Huế
đang gặp rất nhiều những khó khăn: đời sống kinh tế, văn hóa - xã hội cịn
thấp, sự chênh lệch về trình độ dân trí giữa miền xi và miền núi, giữa dân
tộc này với dân tộc khác ngày càng rõ rệt, những tiềm năng to lớn của đồng
bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh chưa được phát huy một cách hiệu
quả. Bên cạnh đó, tàn tích của chiến tranh đặc biệt là chất độc màu da cam
cũng để lại những hậu quả nặng nề. Tất cả những khó khăn trên đã tạo khe hở
để các thế lực thù địch lợi dụng nhằm đẩy mạnh việc thực hiện âm mưu “diễn
biến hịa bình”, xun tạc chính sách đồn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước
ta, gây mất trật tự an ninh trên địa bàn tỉnh.
Trước tình hình trên, vấn đề đặt ra là phải thực hiện những chính sách

thích hợp nhằm phát huy tối đa thế mạnh của đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh
Thừa Thiên Huế, đưa đồng bào ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, vững
bước đi lên cùng với các dân tộc anh em khác trên địa bàn tỉnh cũng như cả
nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì vậy, tác giả chọn đề tài
“Đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc ở Tỉnh Thừa Thiên Huế trong giai
đoạn hiện nay” làm luận văn thạc sỹ triết học chuyên ngành chủ nghĩa xã hội
khoa học. Đây là đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề dân tộc và việc thực hiện chính sách dân tộc là một trong những

3


nội dung có ý nghĩa chiến lược trong cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. Đây còn là vấn đề thực tiễn nóng bỏng địi hỏi phải giải quyết một
cách khoa học, đúng đắn và thận trọng. Vì thế, trong những năm vừa qua vấn
đề dân tộc luôn được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm cụ thể hóa bằng
các nghị quyết, chỉ thị của Đảng; bằng hệ thống pháp luật của Nhà nước. Trên
tinh thần đó, các nhà nghiên cứu đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu khoa
học, những đề tài, bài báo khoa học tập trung vào vấn đề dân tộc và việc thực
hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta như:
- Bước đầu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc Việt Nam,
Ủy ban dân tộc và miền núi, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996. Đề tài đã nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh
về vấn đề dân tộc và chỉ ra những phương hướng giải quyết vấn đề dân tộc
theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
- 50 năm công tác dân tộc 1946 - 1996, Ủy ban dân tộc và miền núi,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997. Bằng nhiều hình ảnh và tư liệu quý
báu, tác phẩm đi sâu vào tổng kết công tác dân tộc và miền núi trên tất cả
các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa - giáo dục trong suốt nửa thế kỷ từ 1946

- 1996. Tác phẩm cũng đã bước đầu đưa ra những giải pháp và chính sách
chủ yếu nhằm đẩy mạnh đoàn kết các dân tộc trong sự nghiệp đổi mới,
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm thực hiện tốt chính sách dân
tộc của Đảng và Nhà nước.
- Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt
Nam, Nguyễn Quốc Phẩm - Trịnh Quốc Tuấn, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1999. Cơng trình đã đi sâu vào giải quyết những vấn đề lý
luận và thực tiễn của quan hệ dân tộc ở nước ta trong tình hình mới.
- Vấn đề dân tộc và công tác dân tộc ở nước ta, Ủy ban dân tộc và miền
núi, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001. Tác phẩm trình bày những quan

4


điểm, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, những yêu cầu nhiệm vụ
đối với người cán bộ làm công tác dân tộc trong giai đoạn hiện nay.
- Vấn đề dân tộc và định hướng xây dựng chính sách dân tộc trong thời
kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, Viện nghiên cứu chính sách dân tộc và
miền núi, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Đây là tập hợp những bài
báo khoa học tham gia hội thảo: Vấn đề dân tộc và định hướng xây dựng
chính sách dân tộc trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa do TS Bế
Trường Thành chỉ đạo biên soạn. Nội dung cuốn sách trình bày những vấn đề
lý luận, nhận thức về dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta.
Những định hướng cơ bản trong việc quy hoạch dân cư, đẩy nhanh nhịp độ
phát triển kinh tế hàng hóa, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đồng thời, tác
phẩm cũng kiến nghị những giải pháp nhằm phát triển kinh tế, giải quyết các
vấn đề xã hội, phát huy bản sắc văn hóa, ổn định và cải thiện đời sống đồng
bào dân tộc.
- Một số vấn đề về bảo vệ môi trường vùng dân tộc và miền núi, Vụ
chính sách dân tộc thuộc ủy ban dân tộc, Hà Nội, 2005. Với mười chuyên đề

được trình bày một cách khoa học, cuốn sách là tài liệu tham khảo bổ ích cho
cán bộ bảo vệ môi trường công tác trong lĩnh vực dân tộc và miền núi. Tác
phẩm chủ yếu đi vào phân tích những vấn đề về mơi trường, vai trị của việc
bảo vệ mơi trường ở vùng dân tộc và miền núi, thực trạng môi trường ở vùng
dân tộc và miền núi, đề xuất các giải pháp khoa học nhằm bảo vệ môi trường
và phát triển bền vững ở vùng dân tộc và miền núi.
- Một số vấn đề dân tộc và phát triển, PGS,TS Lê Ngọc Thắng, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. Tác phấm chủ yếu đề cập đến một số nội
dung về vấn đề lý luận, chính sách dân tộc; các vấn đề về phát triển kinh tế,
bảo tồn và phát huy các bản sắc văn hóa, ổn định xã hội của vùng dân tộc và
miền núi; đổi mới nội dung và phương thức cơng tác dân tộc; vai trị của

5


nghiên cứu khoa học đối với công tác dân tộc; phát triển bền vững và bảo vệ
môi trường ở vùng dân tộc và miền núi. Tác phẩm mang lại những gợi ý quan
trọng về hệ thống các vấn đề thuộc nội dung công tác dân tộc hiện nay.
- Giải pháp cải thiện đời sống cho đồng bào các dân tộc thiểu số, Viện
dân tộc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2006. Với hai nhóm nội dung cơ bản:
1, Nhóm nội dung mang tính tổng quan về lý thuyết và định hướng chính
sách; 2, Nhóm nội dung đề cập các giải pháp cụ thể trong các lĩnh vực: sản
xuất nông nghiệp, chuyển giao khoa học công nghệ, đào tạo và sự dụng cán
bộ, chính sách tái định cư, đa dạng hóa thu nhập của đồng bào dân tộc và
miền núi. Cuốn sách đã đề cập đến các vấn đề liên quan trực tiếp và gián tiếp,
trước mắt và lâu dài nhằm góp phần tìm ra các giải pháp hữu hiệu, thiết thực,
phù hợp nhằm cải thiện đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số.
- Phát triển bền vững vùng dân tộc thiểu số và miền núi Việt Nam, ủy
ban dân tộc, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2006. Tác phẩm chủ yếu đi sâu
vào nghiên cứu vấn đề phát triển bền vững ở vùng dân tộc thiểu số và vùng

núi ở Việt Nam. Trong đó, các tác giả đã tập trung làm sáng tỏ những vấn đề
lý luận liên quan đến phát triển bền vững, thực trạng tình hình phát triển bền
vững ở vùng dân tộc thiểu số và vùng núi, vạch ra những định hướng chiến
lược phát triển bền vững và giới thiệu một số mơ hình phát triển bền vững.
- Cơng bằng và bình đẳng xã hội trong quan hệ tộc người ở các quốc gia
đa dân tộc, Nguyễn Quốc Phẩm (chủ biên), Nhà xuất bản Lý luận chính trị,
Hà Nội, 2006. Đây là cơng trình nghiên cứu của tập thể tác giả Viện Chủ
nghĩa xã hội khoa học thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh do
PGS, TS Nguyễn Quốc Phẩm làm chủ biên. Cơng trình đã nghiên cứu những
di sản kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng
bằng, bình đẳng xã hội từ góc độ dân tộc và quan hệ dân tộc. Tác giả cũng đã
nhìn nhận, đánh giá những vấn đề dân tộc, sự phát triển của các quốc gia dân

6


tộc hiện nay và đề xuất những kiến nghị trong việc thực hiện cơng bằng, bình
đẳng xã hội trong các tộc người, trong phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng
dân tộc thiểu số và miền núi của Việt Nam.
- Đảm bảo bình đẳng và tăng cường hợp tác giữa các dân tộc trong phát
triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay, Hồng Chí Bảo (chủ biên), Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009. Đây là kết quả của một đề tài khoa học
độc lập cấp nhà nước gồm nhiều đề tài nhánh khác nhau do GS,TS Hồng Chí
Bảo làm chủ nhiệm. Cơng trình đã nêu rõ những nhận thức lý luận mới về dân
tộc, quan hệ dân tộc và chính sách dân tộc, đánh giá thực trạng và đề xuất
những giải pháp nhằm giải quyết các vấn đề dân tộc và công bằng, bình đẳng
giữa các dân tộc trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay.
- Viết về vấn đề dân tộc và miền núi ở tỉnh Thừa Thiên Huế cũng có một
số tác phẩm như:
- Tài liệu các chuyên đề, nghiệp vụ, chính sách dân tộc cho cán bộ địa

phương tỉnh Thừa Thiên Huế của Ban Dân tộc tỉnh Thừa Thiên Huế, năm
2005. Tác phẩm chủ yếu đề cập đến những nội dung chủ yếu trong công tác
dân tộc ở tỉnh Thừa Thiên Huế và trang bị cho cán bộ làm công tác dân tộc
những kỹ năng cần thiết nhằm thực hiện tốt trách nhiệm của mình.
- Đồng bào các dân tộc thiểu số Thừa Thiên Huế mang họ Hồ của chủ
tịch Hồ Chí Minh của Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế, năm 2004. Đây là tập hợp
những bài viết của các tác giả nghiên cứu về đồng bào dân tộc ít người tỉnh
Thừa Thiên Huế mang họ Hồ trong đó chủ yếu đi sâu vào nghiên cứu lịch sử,
ý nghĩa của sự kiện đồng bào các dân tộc thiểu số Thừa Thiên Huế mang họ
Hồ và vai trò của đồng bào dân tộc thiểu số mang họ Hồ ở tỉnh Thừa Thiên
Huế đối với cách mạng Việt Nam.
- Góp phần tìm hiểu văn hóa dân gian dân tộc Tà - Ôi A Lưới - Thừa

7


Thiên Huế của tác giả Trần Hoàng và Nguyễn Thị Sửu, Nxb Văn hóa dân tộc,
Hà Nội, 2003. Tác phẩm chủ yếu tìm hiểu những nét văn hóa đặc sắc của dân
tộc Tà - Ôi ở huyện A Lưới - tỉnh Thừa Thiên Huế được thể hiện qua kiến
trúc nhà ở, trang phục, các món ăn dân tộc, những lễ hội hàng năm và các tục
lệ của người Tà - Ơi.
Ngồi ra cịn có một số luận văn, luận án nghiên cứu về vấn đề dân
tộc như: “Đổi mới chính sách của Đảng, nhà nước trong đào tạo, sử dụng
đội ngũ cán bộ dân tộc miền núi phía Bắc nước ta hiện nay” của tác giả Lô
Quốc Toản ( năm 1993). “Đổi mới thực hiện chính sách dân tộc trong thời
kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa (từ thực tiễn các tỉnh miền núi
phía Bắc)” của tác giả Nguyễn Thị Phương Thủy (năm 2001). Hai luận văn
này sau khi bảo vệ thành công đã được các tác giả phát triên nghiên cứu và
bảo vệ thành công ở mức luận án tiến sĩ triết học. Luận văn của thạc sỹ Lô
Quốc Toản được kế thừa nghiên cứu và nâng cao trong luận án tiến sỹ:

"Phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc
nước ta hiện nay"(2009). Luận văn của thạc sỹ Nguyễn Thị Phương Thủy
được nâng cấp thành luận án: "Đổi mới thực hiện chính sách dân tộc trong
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa"(2006). Bên cạnh đó cịn
có nhiều đề tài khác như: “Đổi mới thưc hiện chính sách dân tộc đối với
đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Kiên Giang hiện nay” của tác giả Ngô Kim
Y (năm 2001). “Đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Yên Bái
hiện nay” của tác giả Lâm Thị Bích Nguyệt (năm 2005). “Đổi mới việc thực
hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Điện Biên trong giai đoạn hiện nay” của tác
giả Vũ Quang Trọng (năm 2006),...
Như vậy, vấn đề dân tộc và việc đổi mới chính sách dân tộc đã được
nhiều tác giả nghiên cứu trên những phạm vi khác nhau từ khái quát trên địa

8


bàn cả nước đến các địa phương. Đây là những tài liệu tham khảo rất giá trị
cho những nghiên cứu khoa học về vấn đề đân tộc, chính sách dân tộc ở nước
ta hiện nay. Tuy nhiên, đề tài Đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc ở
tỉnh Thừa Thiên Huế trong giai đoạn hiện nay chưa có một cơng trình nghiên
cứu trực tiếp nào đề cập tới. Do đó, nội dung này cần được nghiên cứu một
cách nghiêm túc, khoa học nhằm tạo điều kiện thực hiện tốt chính sách dân
tộc ở Thừa Thiên Huế.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến
việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở tỉnh Thừa Thiên
Huế từ giai đoạn đổi mới đất nước tới nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
4.1. Mục đích
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,

những chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước và thực trạng
việc thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Thừa Thiên Huế, luận văn luận giải
những quan điểm và giải pháp nhằm đổi mới thực hiện chính sách dân tộc ở
tỉnh Thừa Thiên Huế trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận có liên quan đến chính sách dân tộc
và việc thực hiện chính sách dân tộc.
- Đánh giá, phân tích thực trạng việc thực hiện chính sách dân tộc và yêu cầu
đặt ra đối với việc đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Thừa Thiên
Huế.
- Đề xuất và luận giải những quan điểm, giải pháp cơ bản nhằm đổi mới
việc thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Thừa Thiên Huế.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu

9


- Cơ sở lý luận và thực tiễn
+ Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước
về vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc.
+ Cơ sở thực tiễn của luận văn là thực trạng đời sống kinh tế - xã hội và
văn hóa của vùng đồng bào dân tộc thiểu số và việc triển khai thực hiện các
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp lôgic - lịch sử, tổng hợp, phân tích tài
liệu, khảo sát thực tế, điều tra xã hội học,v.v..
6. Đóng góp mới của luận văn
- Trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, luận
văn đánh giá khách quan khoa học thực trạng việc thực hiện chính sách dân tộc và

yêu cầu phải đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất những giải pháp cơ
bản nhằm đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Thừa Thiên Huế
trong giai đoạn hiện nay.
- Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo
phục vụ công tác dân tộc và giảng dạy các môn học như: dân tộc học, chủ
nghĩa xã hội khoa học, triết học, đồng thời luận văn cũng là một tài liệu tham
khảo để nghiên cứu những vấn đề liên quan đến vấn đề dân tộc và việc thực
hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Thừa Thiên Huế.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu luận
văn gồm có 3 chương, 8 tiết.

10


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐỔI MỚI VIỆC THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc
Từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX diễn ra những cuộc tranh luận gay
gắt xung quanh vấn đề dân tộc - quốc gia và điều kiện hình thành quốc gia
dân tộc tư bản chủ nghĩa. C.Mác và Ph.Ăngghen đã nghiên cứu về vấn đề dân
tộc ở góc độ q trình phát triển để hình thành dân tộc: từ thị tộc đến bộ lạc,
bộ tộc rồi đến dân tộc.
Một mặt, C.Mác, Ph.Ăngghen đều coi sự ra đời của dân tộc với tư cách
là một cộng đồng người gắn với chủ nghĩa tư bản - dân tộc tư sản là phổ biến

ở châu Âu. Mặt khác, C.Mác, Ph.Ăngghen đều đề cập đến loại hình dân tộc
tiền tư bản trong những trường hợp đặc thù. Một số quan điểm của C.Mác,
Ph.Ăngghen về vấn đề dân tộc đã được V.I.Lênin đã kế thừa, bổ sung, phát
triển. V.I.Lênin đã có cơng lao to lớn trong việc soạn thảo cương lĩnh về vấn
đề dân tộc làm cơ sở, định hướng cho việc giải quyết vấn đề dân tộc trong
thời đại tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, cả C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin
đều chưa đưa ra một định nghĩa đầy đủ về dân tộc.
C.Mác và Ph.Ăngghen luôn quan tâm đến vấn đề dân tộc và gắn vấn
đề dân tộc với vấn đề giai cấp. Trong đó vấn đề cơng bằng và bình đẳng
giữa các dân tộc được nêu lên như là một yếu tố tiên quyết khi giải quyết
vấn đề dân tộc. Hai ông đã nhiều lần nhấn mạnh rằng quan hệ dân tộc là quan
hệ hết sức phức tạp, khi xem xét giải quyết nó cần phải có quan điểm lịch sử
11


cụ thể. Trong tác phẩm “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”(1848), C.Mác và
Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng: “Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai
cấp tư sản, dù về mặt nội dung, không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc,
nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh dân tộc”[34, tr.93] và các ông đã
đặt ra yêu cầu đối với giai cấp công nhân mỗi nước: “...giai cấp vơ sản mỗi
nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải vươn lên thành giai cấp dân
tộc, phải tự mình trở thành dân tộc”[34, tr.105].
Trong việc giải quyết những quan hệ cơ bản của dân tộc hình thành cùng
với sự ra đời và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác
và Ph.Ăngghen đã đề cập đến cơng bằng bình đẳng giữa các dân tộc, tộc
người trong mối quan hệ với vấn đề giai cấp trong xã hội và hai ơng đã nhất
trí cho rằng vấn đề cơng bằng, bình đẳng giữa các dân tộc chỉ được thực hiện
khi thủ tiêu mọi áp bức giai cấp. C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ “Khi mà sự
đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không cịn nữa thì sự thù
địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo”[34, tr.106]. Từ đó, hai ơng

khẳng định “Hãy xóa bỏ tình trạng bóc lột người thì tình trạng dân tộc này
bóc lột dân tộc khác cũng bị xóa bỏ”[34, tr.106].
Như vậy, ngay từ khi chủ nghĩa Mác ra đời, vấn đề dân tộc đã được đặt
lên vị trí trung tâm trong chiến lược đấu tranh của giai cấp công nhân. Cùng
với giai cấp, giải quyết vấn đề dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
cuộc đấu tranh cách mạng.
Những quan điểm về vấn đề dân tộc của C. Mác và Ph.Ănghen đã được
Lênin kế thừa, bổ sung và phát triển thành những quan điểm chung của chủ
nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc trong điều kiện đế quốc chủ nghĩa và
cách mạng vô sản. Trên cơ sở tư tưởng của C.Mác và Ph.Ănghen về vấn đề
dân tộc, sự tổng kết kinh nghiệm đấu tranh của phong trào cách mạng thế giới
cũng như cách mạng nước Nga và cả sự phân tích sâu sắc về hai xu hướng

12


khách quan của phong trào dân tộc trong giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, Lênin
đã viết rất nhiều tác phẩm kinh điển về vấn đề dân tộc như: “Ý kiến phê phán
về vấn đề dân tộc”, “Quyền dân tộc tự quyết”, “Cách mạng xã hội chủ nghĩa
và quyền dân tộc tự quyết”, “Tổng kết cuộc tranh luận về quyền dân tộc tự
quyết”,... Đặc biệt tháng 7/1920, Lênin viết sơ thảo lần thứ nhất “những luận
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” trình bày trong Đại hội II của Quốc tế
cộng sản và được Đại hội thông qua, trở thành những chính sách của Quốc tế
cộng sản về vấn đề dân tộc - thuộc địa. “Cương lĩnh dân tộc” của Đảng Cộng
sản với ba nội dung cơ bản: các dân tộc hồn tồn bình đẳng, các dân tộc có
quyền tự quyết, liên hiệp công nhân các dân tộc lại.
+ Các dân tộc có quyền bình đẳng
Các dân tộc đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau trong quan hệ xã hội
cũng như quan hệ quốc tế. Khơng có đặc quyền, đặc lợi của dân tộc này đối
với dân tộc khác. Lênin đã chỉ ra rằng: “nguyên tắc bình đẳng hoàn toàn gắn

liền chặt chẽ với việc đảm bảo quyền lợi của các dân tộc thiểu số…bất cứ một
thứ đặc quyền nào dành cho một dân tộc, và bất cứ một sự vi phạm nào đến
quyền lợi của một dân tộc thiểu số đều bị bác bỏ”[28, tr.179].
Trong những quốc gia đa dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc
được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội,
được pháp luật bảo vệ và được thể hiện sinh động trong thực tế. Phấn đấu để
xóa đi khoảng cách, sự chênh lệch về kinh tế, trình độ phát triển giữa các dân
tộc trong quốc gia có ý nghĩa rất quan trọng.
Trên bình diện quốc tế, bình đẳng dân tộc trong giai đoạn hiện nay gắn
liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa
sôvanh, gắn liền với cuộc đấu tranh chống lại áp bức bóc lột của các nước tư
bản đối với các nước chậm phát triển và cả các nước thuộc địa, phụ thuộc.
Điều này đòi hỏi trước hết phải thủ tiêu tình trạng giai cấp này áp bức giai cấp

13


khác để trên cơ sở đó, xố bỏ tình trạng dân tộc này nô dịch dân tộc khác, tạo
điều kiện để các dân tộc giúp đỡ nhau phát triển trên con đường tiến bộ.
Bình đẳng giữa các dân tộc trước hết phải trên phương diện kinh tế. Giải
quyết những mối quan hệ dân tộc đều phải đặt trong mối quan hệ về lợi ích
kinh tế. Ở phương diện này, bình đẳng dân tộc phụ thuộc và sự đồng đều về
trình độ phát triển kinh tế của các dân tộc, cốt lõi là sự phát triển đồng đều về
lực lượng sản xuất. Bất cứ đặc quyền nào dành riêng cho các dân tộc đều dẫn
đến sự vi phạm lợi ích của các dân tộc khác, dẫn đến sự bất bình đẳng dân tộc.
Bình đẳng về kinh tế là điều kiện thiết yếu để các dân tộc trong một quốc gia
đa dân tộc thực hiện sự đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng phát triển.
Bên cạnh bình đẳng về kinh tế thì bình đẳng về chính trị là quyền thiêng
liêng của mỗi dân tộc. Đối với các dân tộc bị áp bức, thuộc địa, phụ thuộc thì
việc đấu tranh giành quyền bình đẳng về chính trị là điều kiện để thực hiện

quyền bình đẳng của mình trên các phương diện khác của đời sống xã hội.
Lênin đã chỉ rõ vấn đề bình đẳng về chính trị liên quan đến quyền tự quyết dân
tộc. Nhận thức và giải quyết đúng đắn vấn đề bình đẳng chính trị và quyền tự
quyết trong các quốc gia cụ thể nhất là các quốc gia đa dân tộc là vấn đề đặc
biệt quan trọng đối với giai cấp vơ sản và những người mácxít chân chính. Mọi
biểu hiện của tư tưởng dân tộc cực đoan, sự kỳ thị, phân biệt, đối xử bất bình
đẳng giữa các dân tộc - tộc người đều là những mưu đồ chính trị của các thế lực
phản động nhằm đồng hóa các dân tộc nhỏ yếu. Chủ nghĩa Mác cương quyết
đấu tranh chống lại những tư tưởng trên.
Trước vấn đề bình đẳng về văn hóa, Lênin cho rằng bình đẳng về văn hóa
phải ln ln gắn liền với bình đẳng về kinh tế và về chính trị. Để thực hiện
quyền bình đẳng dân tộc về văn hóa, trước hết phải cương quyết đấu tranh
chống lại chủ nghĩa cơ hội và các hình thức tinh vi xảo quyệt núp dưới chiêu
bài “tự trị dân tộc về văn hóa”, chống lại các chiêu bài mị dân thông qua khẩu

14


hiệu địi “tự trị dân tộc về văn hóa”. Lênin đã chỉ rõ rằng chiêu bài tự trị dân
tộc về văn hóa chính là biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc tinh vi và độc hại của
giai cấp tư sản âm mưu chống lại chủ nghĩa Mác. Người viết: “đấy là kế
hoạch của chủ nghĩa dân tộc tinh vi, một kế hoạch nhằm làm đồi trụy và chia
rẽ giai cấp công nhân”[29, tr.168], Người cũng khẳng định: “quyền dân tộc tự
trị về văn hóa", với "việc tách nhà trường khỏi sự quản lý của nhà nước" là
biểu hiện của sự dốt nát thảm hại nhất. Khơng có nơi nào trên thế giới mà
những người mác-xít (thậm chí những người dân chủ) lại phủ nhận việc
giảng dạy bằng tiếng mẹ đẻ. Khơng có nơi nào trên thế giới mà những người
mác-xít lại thông qua cương lĩnh về "quyền dân tộc tự trị về văn hóa”[29,
tr.169].
+ Các dân tộc có quyền tự quyết

Đây là nguyên tắc quan trọng thứ hai trong cương lĩnh dân tộc của
Lênin. Thực chất đây là quyền làm chủ của một dân tộc, tự mình quyết định
vận mệnh của dân tộc mình, quyền tự quyết định chế độ chính trị xã hội và
con đường phát triển của dân tộc mình, là giải phóng các dân tộc bị áp bức
khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc và đi theo
con đường tiến bộ xã hội. Lênin chỉ ra rằng: “Quyền dân tộc tự quyết hồn
tồn chỉ có nghĩa là các dân tộc có quyền độc lập về chính trị, có quyền tự do
phân lập, về mặt chính trị, khỏi dân tộc áp bức họ. Nói một cách cụ thể, u
sách địi dân chủ chính trị đó có nghĩa là hồn tồn tự do tuyên truyền cho
việc phân lập và có nghĩa là giải quyết vấn đề phân lập bằng con đường trưng
cầu dân ý trong dân tộc muốn phân lập. Như vậy là u sách đó hồn tồn
khơng đồng nghĩa với u sách đòi phân lập, phân tán thành lập những quốc
gia nhỏ. Nó chỉ là biểu hiện triệt để của cuộc đấu tranh chống mọi áp bức dân
tộc” [30, tr.327]. Bên cạch đó, Lênin cũng khẳng định quyền tự quyết cịn bao
gồm cả quyền tự nguyện liên hiệp lại với các dân tộc khác khi có điều kiện và

15


trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi để đủ sức mạnh chống lại các nguy cơ xâm
lược từ bên ngoài, giữ vững độc lập chủ quyền và tận dụng những thuận lợi
để phát triển quốc gia - dân tộc. Lênin cũng chỉ rõ, chỉ có chủ nghĩa xã hội
mới tạo điều kiện để cho các dân tộc thực hiện quyền dân tộc tự quyết. Người
viết, “Chủ nghĩa xã hội có mục đích khơng những xóa bỏ tình trạng nhân loại
bị chia thành những quốc gia nhỏ và xóa bỏ mọi trạng thái biệt lập giữa các
dân tộc, không những làm cho các dân tộc gần gũi nhau, mà cũng nhằm thực
hiện việc hợp nhất các dân tộc lại…Nhân loại chỉ có thể trải qua thời kỳ quá độ
của chuyên chính của giai cấp bị áp bức, mới có thể xóa bỏ các giai cấp, cũng
giống như vậy, nhân loại chỉ có thể trải qua thời kỳ q độ hồn tồn giải
phóng tất cả các dân tộc bị áp bức, nghĩa là thời kỳ các dân tộc được tự do phân

lập, thì mới có thể đạt tới sự hợp tác tất nhiên giữa các dân tộc”[30, tr.328].
Quyền tự quyết trong cương lĩnh dân tộc của Lênin có ý nghĩa sâu sắc.
Đây là quyền cơ bản của dân tộc. Nó là cơ sở để xố bỏ sự hiềm khích, thù
hằn giữa các dân tộc; đảm bảo sự tồn tại, phát triển độc lập cho các dân tộc;
phát huy tiềm năng của các dân tộc vào sự phát triển chung của nhân loại.
+ Liên hiệp công nhân các dân tộc lại
Theo Lênin thì đồn kết cơng nhân tất cả các dân tộc lại chính là điều
kiện thực hiện tốt các quan hệ dân tộc, thực hiện quyền bình đẳng và quyền
dân tộc tự quyết trên thực tế. Đây là liên minh quốc tế trong cuộc đấu tranh
chống áp bức giai cấp và áp bức dân tộc vì sự giải phóng dân tộc và xã hội, là
liên minh của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa dân tộc hẹp
hòi. Lênin cho rằng liên hiệp công nhân các dân tộc lại là một nhu cầu khách
quan. Chính lợi ích của giai cấp cơng nhân địi hỏi cơng nhân thuộc tất cả các
dân tộc ở trong một nước cũng như nhau nhất định phải hợp nhất lại trong các
tổ chức vô sản thống nhất thì giai cấp cơng nhân mới có thể tiến hành được
một cuộc chiến đấu thắng lợi chống tư bản quốc tế và các thế lực phản động.

16


Liên hiệp công nhân các dân tộc lại phản ánh bản chất quốc tế của phong
trào công nhân, phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và
giải phóng giai cấp. Chủ nghĩa quốc tế vơ sản phản ánh những ước mơ, khát
vọng tiến bộ của nhân dân lao động ở tất cả các dân tộc, nó đối lập với sự thù
hằn, chia rẽ giữa các dân tộc trong chủ nghĩa tư bản. Liên hiệp công nhân tất
cả các dân tộc là cơ sở vững chắc để đoàn kết các tầng lớp lao động rộng rãi
thuộc các dân tộc trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì độc lập
dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì thế, chủ nghĩa quốc tế vơ sản là ngọn cờ của
nhân dân lao động thế giới trong cuộc dấu tranh chống áp bức dân tộc. Liên
hiệp công nhân các dân tộc còn là điều kiện tiên quyết để thực hiện thắng lợi

sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, là cơ sở để giải quyết đúng đắn vấn
đề dân tộc và giải phóng các dân tộc bị áp bức, nó quy định mục tiêu hướng
tới, quy định đường lối và phương pháp giải quyết quyền dân tộc tự quyết và
quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Từ đó, đảm bảo cho phong trào giải phóng
dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng lợi.
Năm 1913, định nghĩa dân tộc của Xtalin ra đời. Trong tác phẩm “chủ
nghĩa Mác và vấn đề dân tộc”, Xtalin viết, “dân tộc là một cộng đồng ổn định,
được hình thành trong lịch sử dựa trên cơ sở cộng đồng về tiếng nói, lãnh thổ,
sinh hoạt kinh tế và tâm lý, biểu hiện trong cộng đồng về văn hóa”[66,
tr.357]. Định nghĩa dân tộc của Xtalin đã đưa ra được các tiêu chí để nhận
biết, đã nhấn mạnh rằng, nói đến dân tộc là nói đến những cộng đồng người
thống nhất, ổn định, bền vững so với cộng đồng bộ tộc. Nếu so sánh với
những quan niệm trước đó, định nghĩa dân tộc của Xtalin đã có nhiều nét mới
tiến bộ. Vì thế, một thời gian dài ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa xem định
nghĩa trên của Xtalin như là một định nghĩa kinh điển về dân tộc. Tuy nhiên,
từ thập kỷ 70 của thế kỷ XX trở lại đây, định nghĩa trên về dân tộc của Xtalin
đã trở nên lỗi thời và ảnh hưởng của nó cũng giảm dần trong giới khoa học do

17


những hạn chế được phát hiện ra trong thực tiễn giải quyết vấn đề dân tộc.
Thứ nhất, định nghĩa trên của Xtalin chưa đưa ra một tiêu chí rõ ràng để
phân biệt khái niệm dân tộc trong quốc gia dân tộc với khái niệm tộc người.
Xtalin khẳng định phải có đủ bốn nhân tố (ngôn ngữ, lãnh thổ, kinh tế, văn
hóa) mới hình thành dân tộc. Tuy nhiên, trong thực tế có những cộng đồng
chưa hội tụ cả bốn nhân tố nhưng cộng đồng đó vẫn xứng đáng là dân tộc.
Định nghĩa trên của Xtalin chỉ phù hợp với dân tộc - quốc gia mà thôi.
Thứ hai, từ định nghĩa trên của mình đi đến việc Xtalin phủ nhận các
hình thức dân tộc tiền tư bản chủ nghĩa. Ông cho rằng cộng đồng quốc gia

tiền tư bản chủ nghĩa là bộ lạc, bộ tộc tương ứng với xã hội nguyên thủy và xã
hội có giai cấp của thời kỳ nơng nghiệp. Điều này chỉ đúng ở các quốc gia
Châu Âu. Việc không thừa nhận sự tồn tại của các dân tộc trước chủ nghĩa tư
bản là một hạn chế, không đúng với thực tế lịch sử đặc biệt là lịch sử hình
thành của các dân tộc Châu Á trong đó có Việt Nam.
Thứ ba, từ việc đề cập nhiều đến cộng đồng dân tộc theo nghĩa quốc gia
nên dẫn đến việc Xtalin chỉ chú ý nhiều đến những cộng đồng chủ thể trong
một quốc gia; những cộng đồng có quy mơ và sức mạnh thật sự để có thể trở
thành một quốc gia hoặc có điều kiện trong việc liên minh với các cộng đồng
khác để trở thành một quốc gia trong khi thực tế vẫn có nhiều cộng đồng bé
nhỏ khác chưa được Xtalin chú ý đúng mức.
Từ những hạn chế trên trong định nghĩa dân tộc của Xtalin, chúng ta
thấy cần thiết phải có sự phân định rõ ràng giữa khái niệm quốc gia dân tộc và
khái niệm dân tộc - tộc người để tránh sự nhầm lẫn trong nghiên cứu khoa học
cũng như trong những hoạt động thực tiễn. Cố GS Vương Hoàng Tuyên đã
kiến nghị: “Đã đến lúc cần phải làm rõ khái niệm của thuật ngữ dân tộc; và
trong nhiều trường hợp khác nhau, nên dùng những từ cho thích hợp, khơng

18


nên dùng những thuật ngữ dân tộc một cách quá rộng tới mức gần như bừa
bãi”[55, Tr. 184]
Từ yêu cầu trên, nhiều khái niệm mới về dân tộc đã xuất hiện. Tựu
chung lại trong hệ thống những khái niệm đó, chúng ta có thể thấy, dân tộc
được hiểu theo hai nghĩa cơ bản đó là quốc gia - dân tộc và tộc người. Điều
này đã phản ánh đúng thực trạng trên thế giới hiện nay đang tồn tại hai cộng
đồng: cộng đồng quốc gia dân tộc và cộng đồng tộc người. Xin trích dẫn một
số định nghĩa về dân tộc và tộc người như sau:
Từ điển Bách khoa Việt Nam Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn từ

điển bách khoa Việt Nam đã định nghĩa: “Dân tộc. 1. Dân tộc(nation) hay
quốc gia dân tộc là cộng đồng chính trị - xã hội được chỉ đạo bởi một nhà
nước, thiết lập trên một lãnh thổ nhất định, ban đầu được hình thành do sự tập
hợp của nhiều bộ lạc, sau này của nhiều cộng đồng mang tính tộc người
(ethnie) của bộ phận tộc người. Tính chất của dân tộc phụ thuộc vào những
phương thức sản xuất khác nhau. Bước vào giai đoạn phát triển công nghiệp,
rõ rệt nhất là ở các nước phương Tây, do u cầu xóa bỏ tính cát cứ của các
lãnh địa trong một dân tộc, nhằm tạo ra một thị trường chung, nên cộng đồng
dân tộc được kết cấu chặt chẽ hơn. Kết cấu của cộng đồng dân tộc rất đa dạng,
phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội trong khu vực và bản thân.
Một cộng đồng dân tộc thường bao gồm nhiều cộng đồng người, với
nhiều ngơn ngữ, yếu tố văn hóa thậm chí nhiều chủng tộc khác nhau. Ngày
nay, do khơng gian xã hội được mở rộng mang tính tồn cầu, do phương tiện
đi lại, mỗi cộng đồng dân tộc ngày lại có thêm nhiều bộ phận của các cộng
đồng dân tộc người tham gia, nên tình trạng dân tộc đa dân tộc là phổ biến. 2.
Dân tộc (ethnie) còn đồng nghĩa với cộng đồng mang tính tộc người, ví dụ
dân tộc Tày, dân tộc Bana… Cộng đồng có thể là một bộ phận chủ thể hay
thiểu số của một dân tộc(nation) sinh sống ở nhiều quốc gia, dân tộc khác
19


nhau được liên kết với nhau bằng những đặc điểm về ngơn ngữ, văn hóa và
nhất là ý thức tự giác tộc người.”[26, Tr.655]
- Từ điển tiếng Việt của Trung tâm từ điển học viết: “Dân tộc. 1. Tên gọi
các cộng đồng người hình thành trong lịch sử ở những giai đoạn phát triển
khác nhau: dân tộc Kinh, dân tộc Tày, đoàn kết các dân tộc anh em. 2. Tên
gọi những cộng đồng người có chung một ngơn ngữ, một lãnh thổ, một nền
kinh tế và một truyền thống văn hóa: dân tộc Việt Nam ln u chuộng hịa
bình, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. 3. dân tộc thiểu số: học sinh người
dân tộc, chính sách của nhà nước đối với đồng bào dân tộc.” [56, Tr.398]

- Đại từ điển tiếng Việt định nghĩa: “Dân tộc. 1. Cộng đồng người ổn
định hình thành trong quá trình lịch sử của xã hội có chung tiếng nói, lãnh
thổ, đời sống kinh tế và tâm lý: đoàn kết dân tộc. 2. Dân tộc thiểu số, nói tắt:
ưu tiên học sinh dân tộc, cán bộ dân tộc. 3. Cộng đồng người ổn định hình
thành nhân dân một nước, một quốc gia gắn bó với nhau trong truyền thống,
nghĩa vụ và quyền lợi: dân tộc Việt Nam.”[67, Tr. 520]
Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học của Hội đồng Trung ương chỉ đạo
biên soạn giáo trình quốc gia các bộ mơn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh viết: “Hiện nay khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa, trong
đó có hai nghĩa được dùng phổ biến nhất:
- Chỉ cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có chung
sinh hoạt kinh tế, có ngơn ngữ riêng, văn hóa có những nét đặc thù; xuất hiện
sau bộ lạc, bộ tộc; kế thừa, phát triển cao hơn những nhân tố tộc người ở bộ
lạc, bộ tộc và thể hiện thành ý thức tự giác tộc người của dân cư cộng đồng
đó.
Chỉ một cộng đồng người ổn định hình thành nhân dân một nước, có
lãnh thổ quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự
thống nhất quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh

20


tế, truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình
dựng nước và giữ nước.
Với nghĩa thứ nhất, dân tộc là một bộ phận của quốc gia, ví dụ: dân tộc
Kinh, dân tộc Bana, dân tộc Ê đê...ở nước ta. Với nghĩa thứ hai dân tộc là tồn
bộ nhân dân của quốc gia đó (quốc gia dân tộc), ví dụ: dân tộc Ấn độ, quốc
gia Trung Hoa, quốc gia Việt Nam”[27, tr. 316]
Qua những khái niệm trên chúng ta thấy, dân tộc hiểu theo nghĩa quốc
gia (nation) bao gồm năm đặc trưng cơ bản:

- Có sự quản lý của một nhà nước thống nhất
- Ngôn ngữ giao tiếp chung
- Lãnh thổ chung
- Phương thức kinh tế chung
- Những đắc điểm chung về tâm lý, văn hóa
Cịn dân tộc hiểu theo nghĩa tộc người (ethnie) thì có ba đặc trưng cơ
bản: ngơn ngữ, văn hóa và ý thức tự giác tộc người. Khơng thể có một khái
niệm chung cho cả hai cấp độ dân tộc - quốc gia và dân tộc - tộc người.
Như vậy, hai khái niệm hiện nay đã trở nên quen thuộc đó là khái niệm
dân tộc (nation) và tộc người(ethnie). Tuy nhiên, nhiều lúc vẫn có sự nhầm
lẫn giữa hai khái niệm này. Sự nhầm lẫn này dẫn đến việc đưa ra những nhận
định thiếu khoa học khi giải quyết vấn đề dân tộc trên cả phương diện lý luận
và thực tiễn. Đây là sai lầm cần khắc phục đối với những nghiên cứu về vấn
đề dân tộc.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và việc thực hiện
chính sách dân tộc ở Việt Nam
Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh ln giành sự quan tâm đặc biệt đến chính
sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Bác đã xác định: “chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước ta là: các dân tộc đều bình đẳng và đồn kết chặt chẽ, thương

21


yêu giúp đỡ nhau như anh em. Đồng bào miền xuôi phải ra sức giúp đỡ đồng bào
miền ngược cùng tiến bộ về mọi mặt”[38, 639]. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn
đề dân tộc và chính sách dân tộc bao gồm những nội dung cơ bản sau:
+ Chính sách dân tộc phải hướng đến đoàn kết toàn dân tộc. Đây là mục
tiêu, nhiệm vụ hàng đầu, là vấn đề có ý nghĩa chiến lược quyết định thành
cơng của cách mạng Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh, đồn kết tồn dân tộc là đoàn kết “mọi con dân Việt

Nam”, “mỗi một người con rồng cháu tiên”, không phân biệt già, trẻ, gái trai,
giàu nghèo quý tiện, không phân biệt thiểu số hay đa số. Trong đó, Bác đã dành
sự quan tâm đặc biệt đến những dân tộc thiểu số. Người đánh giá rất cao vai
trị, vị trí của các dân tộc thiểu số và miền núi trong sự nghiệp chung của đất
nước. Vì thế, ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Bác đã chỉ đạo
thành lập Nha Dân tộc thiểu số để nghiên cứu giải quyết các vấn đề, chính sách
đối với đồng bào các dân tộc thiểu số trên tồn quốc. Ngày 19/4/1946, Chủ tịch
Hồ Chí Minh dự họp Hội đồng Chính phủ bàn về Dự án ngân sách lương thực
của quân đội, vấn đề lập Nha Dân tộc thiểu số và vấn đề tài chính. Cùng ngày,
Người đã gửi thư cho đồng bào dân tộc thiểu số Miền Nam nhân Đại hội các
dân tộc thiểu số Miền Nam tại Plâycu, trong thư Bác đã chỉ rõ: “Đồng bào
Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các
dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt.
Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau.
...
Sơng có thể cạn, núi có thể mịn, nhưng lịng đồn kết của chúng ta
khơng bao giờ giảm bớt. Chúng ta quyết góp chung lực lượng lại để giữ vững
quyền tự do, độc lập của chúng ta.”[36, tr.545-546].
Qua nhiều bài viết, thư từ, các buổi nói chuyện, chủ tịch Hồ Chí Minh
ln quan tâm đến nhiệm vụ đồn kết dân tộc. Người ln nhắc nhở, đồng
bào các dân tộc là những người anh em ruột thịt, phải có nghĩa vụ thương yêu
22


×