Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

(Luận văn thạc sĩ) tổ chức và sử dụng tài liệu trong kho lưu trữ trung ương đảng phục vụ nghiên cứu lịch sử đảng (giai đoạn 19300 1945)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.28 MB, 118 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC QUÓC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐAI HOC KHOA HOC XÂ HÔI VÀ NHÂN VÁN
----------- ------o O o ------------------

HOANG THI BẠCH YÊN

T ổ CHỨC VÀ SỬ DỤNG TÀI LIỆU
rRONG KHO LƯU TRỮ TRUNG ƯƠNG ĐẢNG
PHỤC VỤ NGHIÊN cứ u LỊCH sử ĐẢNG
(Giai đoạn 1930 -1945)

LUẬN VÃN THẠC s ĩ L ưu TRỮ HỌC


Chuyên ngành
Mã số





: Lưu trữ học và tư liệu học.
: 5 ì 002

Người hướng dẫn khoa học: PGS. Lê Mậu Hãn

Hà nội - 2001



MỤC LỤC

Mục lục
Bảng chữ viết tắt
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài.
2. Mục đích nghiên cúu của đề tài.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đé.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu.
6. Đóng góp của luận văn.
7. Kết cấu của đề tài.
Chương 1: Tình hình tổ chức và sử dụng tài liệu trong Kho
Lưu trữ Trung ương Đảng phục vụ nghiên cứu lịch sử

Đảng (giai đoạn 1930 - 1945).
1.1. Vị trí và ý nghĩa của tài liệu lưu trữ với việc nghiên cứu lịch
sử Đảng.
1.2. Tổ chức tài liệu Kho Lun trữ Trung ương Đảng.
1.3. Tinh hình sử dụng tài liệu năm 1930-1945 trong Kho Lưu trữ
Trung ương để nghiên cứu lịch sử Đảng.
Chương 2: Tài liệu lưu trữ Đảng giai đoạn 1930-1945,
nguồn sử liệu quý đê nghiên cứu lịch sử Đảng.

2.1. Một số đặc điểm của tài liệu lun trữ giai đoạn 1930-1945.
2.2. Tài liệu lưu trữ Đảng giai đoạn 1930-1945, nguồn sử liệu quý
để nghiên cứu lịch sử Đảng.
2.3. Giới thiệu một số vấn để về lịch sử Đảng cần được nghiên cứu
giải quyết.



Chương 3: Để xuất một sỏ biện pháp nhàm nâng cao hiệu quá
tổ chức và sử dụng tài liệu trong Kho Lưu trữ Trung
ưrnig Đảng phục vụ nghiên cứu lịch sử Đảng.

3.1. Tổ chức xác minh, thẩm định, đảm bảo tính xác thực của tài
liệu.
3.2. Tăng cường hệ thống cơng cụ tra tìm tài liệu.
3.3. Xây dựng và bổ sung các quy chế, quy định vể quản lý và
khai thác tài liệu lưu trừ lịch sử.
3.4. Các biện pháp khác.
Kết luận
Tài liệu tham khảo


BẢN G C Á C C H Ữ V IẾ T T Ắ T

BCHTW
BCHON
BCT
BTV
CSDL
ĐCSĐD
ĐCSVN
ĐCS
LTTW
QTCS
TNCS

Ban chấp hành Trung ương

Ban chỉ huy ở ngồi
Bộ Chính Trị
Ban Thường vụ
Cơ sở dữ liệu
Đảng cộng sản Đông Dương
Đảng cộng sản Việt Nam
Đảng cộng sản
Lưu trữ trung ương
Quốc tế cộng sản
Thanh niên cộng sản


MỞ ĐẨU
1- Tính cấp thiết của đé tài:
Gần 40 năm qua, được sự quan tâm chỉ đạo của Ban chấp hành Trung
ưmg và của các cấp uỷ Đảng, việc nghiên cứu biên soạn lịch sử Đảng cộng
sm Việt Nam ở cấp Trung ương và các địa phương được triển khai rộng
kiắp, đồng đều và đã thu được những thành tựu to lớn, góp phần đắc lực
vto việc tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo, chi đạo của Đảng, hoạch định
díờng lối chính sách và cơng tác nghiên cứu lý luận, cơng tác tuyên truyền,
gáo dục truyền thống trong cán bộ đảng viên và cho nhân dân.
Trong những năm gần đây, công tác nghiên cứu và biên soạn lịch sử
ỉảng ngày càng được xúc tiến mạnh mẽ. Sự nghiệp đổi mới của Đảng ta
đit ra yêu cầu cho khoa học nghiên cứu lịch sử Đảng là: “ Khoa học lịch sử
í ảng phải góp phần làm sáng tỏ về lý luận con đường cách mạng xã hội
C1Ỉ1 nghĩa với mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh

mư Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã vạch
n”[55.71]. Những diễn biến phức tạp trên thế giới trong những năm gần
điy, sự sụp đổ của mơ hình chủ nghĩa xã hội ở một số nước có tác động

tực tiếp đến cách mạng nước ta. Thực tế đó địi hỏi khoa học lịch sử Đảng
piải sát cánh cùng các ngành khoa học xã hội khác làm sáng tỏ những
rựuyên nhân chủ quan và khách quan của sự sụp đổ đó và đóng góp thành
qiả nghiên cứu của mình cho sự nghiệp đấu tranh vì thắng lợi của lý tưởng
ong sản chủ nghĩa. Chưa khi nào công tác tổng kết lịch sử, nhất là lịch sử
ĩảng, lịch sử các cuộc kháng chiến do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo,
drợc Đảng và Nhà nước ta quan tâm như hiện nay. Nhiều cơng trình nghiên
cru và tổng kết lịch sử đã và đang được biên soạn trong những năm gần
áiy: Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nơm, Biên niên lịch sử Trung ương Cục

1


Miền Na tu, Lịch sử kháng chiến chống thực clủỉì Pháp, Lịch sử cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước.Y.v.
Tài liệu lưu trữ của Đảng nói chung, tài liệu trong Kho lưu trữ Trung
ương Đảng nói riêng đã và đang đóng góp vai trị đáng kể trong cơng tác
nghiên cứu lịch sử Đảng. Các cơ quan và những người làm công tác nghiên
cứu lịch sử Đảng đều nhận thức rõ được vị trí và tầm quan trọng của tài liệu
lưu trữ, coi đâv là nguồn sử liệu gốc đáng tin cậy và chủ yếu để tiến hành
nghiên cứu và biên soạn lịch sử Đảng. Vì vậy, các yêu cầu khai thác tài liệu
trong Kho lun trữ Trung ương Đảng để biên soạn lịch sử Đảng ngày càng
tăng.
Cùng với những người làm cơng tác lưu trữ nói chung, những người
làm cơng tác lưu trữ Đảng cũng nhận thức rõ rằng mục đích cuối cùng của
công tác lưu trữ là đưa tài liệu lun trữ phục vụ có hiệu quả cho xã hội, phục
vụ nghiên cứu khoa học, trong đó có khoa học lịch sử Đảng. Bởi vì “Tổ
chức sử dụng tài liệu là cơng đoạn cuối cùng của cả q trình hoạt động
nghiệp vụ lưu trữ. Sử dụng tài liệu lưu trữ là mục đích hoạt động của ngành
lưu trữ và là kết quả cuối cùng để đánh giá trinh độ phát triển của công tác

lưu trữ xã hội và đánh giá kết quả đóng góp của ngành lưu trữ vào sự
nghiệp chung” [27.1]. Điều này cũng được lãnh đạo Đảng khẳng định và
chi đạo cụ thể công tác lưu trữ: “Chức năng cơ bản của công tác lưu trữ là
đảm bảo thông tin quá khứ, phục vụ lãnh đạo và quản lý, phục vụ nghiên
cứu khoa học, biên soạn lịch sử, tổng kết kinh nghiệm, giáo dục truyền
thống” [43.1]. Vì vậy, mọi nội dung nghiệp vụ công tác trong Kho lưu trữ
Trung ương Đảng cũng đều nhằm mục tiêu: tổ chức khoa học tài liệu trong
Kho để tạo điều kiện sử dụng tài liệu lưu trữ một cách có hiệu quả nhất.
Tuy nhiên, trong thực tế côns tác tổ chức và sử dụng tài liệu trong Kho Lưu
trũ Trung ương Đảng, cịn một sơ vấn đề đặt ra cần được giải quyết để đáp
ứng tốt hơn các yêu cầu nghiên cứu, sử dụng tài liệu trong giai đoạn mới,
2


mất là các tài liệu từ năm 1945 trở về trước. Đó là các vấn đề về cơng tác
p)ân loại, hệ thống hoá, xác

m inh,

sưu tầm bổ sung tài liệu, về hệ thống

cong cụ tra tìm tài liệu, về cơ chế quản lý và khai thác tài liệu v.v...
Để góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng tài liệu trong Kho Lun trữ
Tung ương Đảng phục vụ cho công tác nghiên cứu lịch sử nói chung,
nghiên cứu lịch sử Đảng nói riêng, chúng tơi chọn đề tài này để nghiên cứu
làn luận văn cao học.
2. M ục đích nghiên cứu của đề tài:
Nhiệm vụ và và mục tiêu cuối cùng của công tác lưu trữ là nhằm đưa
tă liệu lưu trữ ra phục vụ có hiệu quả cho xã hội, phục vụ cơng tác nghiên
cru, trong đó có nghiên cứu lịch sử Đảng. Là một cán bộ công tác tại Kho

Lru trữ Trung ương Đảng, tôi cũng nhận thức rằng: phục vụ các yêu cầu
n;hiên cứu lịch sử Đảng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Kho
Líu trữ.
Đề tài “Tổ chức và sử dụng tài liệu Kho Lưu trữ Trung ương Đảng
piục vụ nghiên cứu lịch sử Đảng (giai đoạn 1930-1945)” được nghiên cứu
niằm mục đích:
- Xác định rõ vị trí, tầm quan trọng của tài liệu lưu trữ đối với việc
nghiên cứu và biên soạn lịch sử Đảng.
- Giới thiệu và đánh giá một cách khái quát tình hình tổ chức và sử
ding tài liệu trong Kho lưu trữ Trung ương Đảng phục vụ công tác nghiên
cru lịch sử Đảng.
- Tập trung phân tích sâu hơn các khối, phống tài liệu từ năm 1945 trở
v: trước nhằm giới thiệu nguồn sử liệu quý cho các cơ quan và cán bộ
n;hiên cứu lịch sử Đảng.


-

Trên cơ sở đó đề xuất một sơ biện pháp nhăm góp phần đổi mới và

nâng cao hiệu quả của công tác tổ chức và sử dụng tài liệu trong Kho Lưu
trữ Trung ương Đảng nói chung, tài liệu giai đoạn từ 1945 trở về trước nói
riêng để phục vụ công tác nghiên cứu lịch sử Đảng.

3- Lịch sử nghiên cứu vấn để:
Đề tài “Tổ chức và sử dụng tài liệu trong Kho Lưu trữ Trung ương
Đảng phục vụ nghiên cứu lịch sử Đảng (giai đoạn 1930-1945)” là vấn đẻ
nghiên cứu liên quan trực tiếp đến lưu trữ học, sử liệu học và khoa học lịch
sử Đảng. Đây là vấn đề đề cập trực tiếp đến các nội dung nghiệp vụ của
cống tác lưu trữ, từ việc tổ chức tài liệu trong kho lưu trữ đến việc tổ chức

sừ dụng tài liệu lưu trữ trong kho ở khía cạnh là nguồn sử liệu phục vụ cho
cồng tác nghiên cứu và biên soạn lịch sử Đảng, nên đã được các tác giả
trong nước và ngoài nước nghiên cứu, đề cập đến ở những phạm vi, mức độ
và góc độ khác nhau. Đó là các cuốn sách: “Lý luận và thực tiễn công tác
lun trữ” của các tác giả Đào Xuân Chúc, Nguyên Văn Hàm, Vương Đình
Quyền, “Lý luận và thực tiễn công tác lưu trữ ở Liên xô”, “Lý luận và thực
tiễn công tác lưu trữ ở Liên xô” của tập thể các giáo sư Liên xồ, “Phương
pháp Mác xít-Lênin nít nghiên cứu lịch sử Đảng” của Maxlốp, “Lưu trữ
Pháp” của Cục lưu trữ Cộng hồ Pháp ... Ngồi ra có nhiều bài viết, bài nói
của các lãnh tụ như Lênin, Hồ Chí Minh, của các đồng chí lãnh đạo Đảng
và Nhà nước: Trường Chinh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, của các nhà nghiên
cứu sử học, lưu trữ học trong và ngồi nước. Tuy nhiên, các tác phẩm, bài
nói, bài viết của các tác giả cũng chỉ đề cập đến ở góc độ lý luận chung của
cơng tác lưu trữ, phương pháp luận nghiên cứu, hoặc ở phạm vi chung của
mối quan hệ giữa công tác lưu trữ và công tác nghiên cứu sử dụng tài liệu
nói chung. Một số đề tài luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ cũng đề cập đến
mối quan hệ giữa tài liệu lưu trữ với công tác nghiên cứu và biên soạn lịch
sử Đảng, như đề tài “Nghiên cứu lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam từ nguồn
4


tài liệu lun trữ” của thạc sĩ Đinh Văn Đường, đề tài ‘‘Công cụ xác định giá
trị sử liệu trong phông lưu trữ Đảng cộng sản Việt Nam” của tiến sĩ Nguyễn
Lệ Nhung”, nhưng theo khía cạnh về yêu cầu đổi mới cơng tác nghiên cứu
lịch sử Đảng hoặc khía cạnh về công tác xác định giá trị nguồn sử liệu
phông lưu trữ ĐCSVN.
Đề tài mà chúng tôi lựa chọn để làm luận vãn đi sâu vào nghiên cứu,
phân tích một cách cụ thể trên cơ sở phương pháp luận và thực tiễn về công
tác tổ chức tài liệu trong Kho Lưu trữ Trung ương Đảng và công tác tổ chức
sử dụng tài liệu trong Kho phục vụ các yêu cầu nghiên cứu nói chung,

nghiên cứu lịch sử Đảng nói riêng, ở góc độ của người làm cống tác lưu trữ.
Trong đó đi sâu phân tích và giới thiệu về các khối, phông lưu trữ thuộc giai
đoạn từ măm 1945 trở về trước với khía cạnh là nguồn sử liệu q có tính
chân thực cao phản ánh một giai đoạn lịch sử đầy hy sinh gian khổ nhưng
vô cùng oanh liệt của Đảng, của dân tộc, nhưng chưa được khai thác sử
dụng có hiệu cao để phục vụ xã hội. Mặc dù trong những năm gần đây, việc
xuất bản các tập Văn kiện Đảng tồn tập đã cơng bố nhiều tài liệu quan
trọng của Đảng thuộc giai đoạn 1945 trở vể trước, nhưng trong Kho Lưu trữ
Trung ương vẫn còn rất nhiều tài liệu có giá trị chưa được cơng bố do nhiều
lý do (không phải là văn kiện của Đảng, chưa được giải mật, chưa được xác
minh...) cần được tổ chức và đưa ra sử dụng có hiệu quả hơn để phục vụ các
yêu cầu của xã hội trong đó có việc nghiên cứu và biên soạn lịch sử
ĐCSVN. Đây là vấn đề chưa được nghiên cứu và còn mới mẻ.

4- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tải:
Đối tượng nghiên cứu của để tài “Tổ chức và sử dụng tài liệu trong
Kho Lưu trữ Trung ương Đảng phục vụ nghiên cứu lịch sử Đảng giai đoạn
1930-1945” là:

5


- Nghiên cứu việc tổ chức tài liệu trong Kho Lưu trữ Trung ương
Đảng; đặc biệt là việc tổ chức các khối, phông tài liệu thuộc giai đoạn từ
năm 1945 trở về trước;
- Nghiên cứu việc tổ chức sử dụng tài liệu trong Kho lưu trữ Trung

ưưng Đảng phục vụ cổng tác nghiên cứu và biên soạn lịch sử Đảng giai
đoạn 1930-1945.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là: nghiên cứd việc tổ chức và sử dụng

tài liệu trong Kho Lưu trữ Trung ương để phục vụ công tác nghiên cứu lịch
sử Đảng cộng sản Việt Nam giai đoạn 1930-1945. ở đây có vấn đề cần
trình bày thêm về đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài: theo tên của
đé tài thì đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn trong phạm vi
công tác tổ chức và sử dụng tài liệu trong Kho Lưu trữ Trung ương Đảng để
phục vụ nghiên cứu lịch sử Đảng giai đoạn 1930- 1945. Tuy nhiên, như vậy
khơng có nghĩa là phạm vi tài liệu lưu trữ được đề cập đến trong đề tài cũng
chỉ giới hạn trong khoảng thời gian từ năm 1930- 1945, mà phạm vi tài liệu
lưu trữ còn gồm cả tài liệu từ những năm 1920 có trong Kho lưu trữ Trung
ương. Những tài liệu này có nội dung phản ánh phong trào đấu tranh yêu
nước của nhân dân ta trong những năm đầu thế kỷ 20 và quá trình chuẩn bị
và thành lập Đảng cộng sản Việt Nam. Như vậy, phạm vi tài liệu được đề
cập đến và nghiên cứu trong đề tài là tồn bộ tài liệu từ năm 1945 trở về
trước có trong Kho Lưu trừ Trung ương.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Cơ sở lý luận để tiến hành nghiên cứu đề tài là lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin về công tác lưu trữ, về khoa học lịch sử Đảng và sử liệu học.
Để phục vụ việc nghiên cứu đề tài, chúng tôi đã sử dụng các tác phẩm kinh
điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, các tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
các tài liệu văn kiện của Đảng, các xuất bản phẩm, giáo trình, tư liệu, tài
6


liệu nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước về lưu trữ học, sử liệu

học, về khoa học nghiên cứu lịch sử nói chung và lịch sử Đảng nói riêng.
Trên cơ sở lý luận chung của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời căn cứ vào tình hình
thực tiễn cống tác tổ chức và sử dụng tài liệu Kho Lưu trữ Trung ương
Đảng, để tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu của lưu trữ học

và tư liệu học. Mặt khác, do yêu cầu của đề tài, nên chúng tối thấy cần đi
sâu vào phương pháp nghiên cứu phán tích, phương pháp nghiên cứu hê
thông và phương pháp nghiên cứu liên ngành để giải quyết vấn đề mà đề tài
đạt ra (lưu trữ học và tư liệu học, sử liệu học, văn bản học v.v...).
Về thực tiễn công tác tổ chức và sử dụng tài liệu Kho Lưu trữ Trung
ương Đảng, chúng tôi đã có thời gian làm việc tại Kho hơn 20 năm, trực
tiếp tham gia các công việc về tổ chức và sử dụng tài liệu trong Kho Lưu trữ
Trung uơng. Ngồi ra để thực hiện luận văn, chúng tơi đã tiến hành khảo
sát, nghiên cứu các khối, phông lưu trữ trong kho; khảo sát, đánh giá kết
quả việc tổ chức sử dụng tài liệu phục vụ các yêu cầu nghiên cứu nói
chung, nghiên cứu và biên soạn lịch sử Đảng nói riêng. Đặc biệt là đi sâu
nghiên cứu phồng Chủ tịch Hồ Chí Minh và tất cả các phơng, sưu tập tài
liệu thuộc giai đoạn 1945 trở về trước gồm: sưu tập các tổ chức Tiền thân
của Đảng (1925-1930); phông Hội nghị hợp nhất, Đại hội I, Ban lãnh đạo
Trung ương Đảng (1930-1945); sưu tập Sách, Báo, Tạp chí, Truyền đơn của
Đảng (1930-1945); sưu tập các Xứ uỷ Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ (19301945); sưu tập tài liệu chính quyến thực dân Pháp có liên quan đến hoạt
động của Đảng ta (1925-1930).
6- Đóng góp của luận văn:
Nội dụng của luận văn khảng định vị trí, ý nghĩa của tài liệu lưu trữ
đối với nghiên cứu lịch sử dân tộc và lịch sử Đảng. Phân tích và nêu rõ
7


dược những ưu điểm và hạn chế trong cóng tác tổ chức và sử dụng tài liệu
trong Kho Lun trữ Trung ương Đảng phục vụ các yêu cầu của xã hội nói
chung, cóng tác nghiên cứu lịch sử Đảng nói riêng.
Luận văn giới thiệu sâu hơn về thành phần, nội dung, đặc điểm của
khôi tài liệu lưu trữ từ năm 1945 trở về trước với khía cạnh là nguồn sử liệu
quý cho việc nghiên cứu lịch sử Đảng, cần được khai thác và sử dụng có
hiệu quả hơn. Đồng thời luận văn cũng kiến nghị với những người làm công

tác nghiên cứu lịch sử Đảng một số vấn đề về lịch sử Đảng cần đi sâu
nghiên cứu mà tài liệu lưu irữ trong Kho Lun trữ Trung ương đã phản ánh
khá rõ nét. Trên cơ sở đó luận văn cũng góp phần vào việc cơng bố và giới
thiệu nguồn sử liệu phong phú phục vụ công tác nghiên cứu và biên soạn
lịch sử Đảng, lịch sử dân tộc.
Luận văn đề xuất một số biện pháp đổi mói và tăng cường tính khoa
học của việc tổ chức và sử dụng tài liệu lưu trữ, nhằm nâng cao hiệu quả
của việc đưa tài liệu lưu trữ của Đảng ra phục vụ các yêu cầu của đời sống
xã hội nói chung, nghiên cứu và biên soạn lịch sử Đảng nói riêng.
7. Kết cấu của đề tài:

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận
văn có 3 chương:
-

Chương 1: Tinh hình tổ chức và sử dụng tài liệu trong Kho lưu trữ

Trung ương Đảng phục vụ nghiên cứu lịch sử Đảng ( giai đoạn 1930 1945).
Trong chương này đề tài tập trung phân tích nhằm nêu bật được vị trí,
ý nghĩa của tài liệu lưu trữ đối với cổng tác nghiên cứu lịch sử Đảng; giới
thiệu về tình hình tổ chức tài liệu trong Kho Lun trữ Trung ương và việc tổ
chức sử dụng tài liệu đề phục vụ công tác nghiên cứu lịch sử Đảng, những
8


kết quả đã đạt được và những điểm còn tồn tại cần được giải quyết nhàm tổ
chức khoa học tài liệu trong Kho Lưu trữ Trung ương và sử dụng có hiệu
quả tài liệu lưu trữ để phục vụ cơng tác nghiên cứu lịch sử Đảng. Chương
này gồm 3 nội dung chính sau:
1.1. Vị trí và ý nghĩa của tài liệu lun trữ với việc nghiên cứu lịch sử

Đảng.
1.2 Tổ chức tài liệu trong Kho Lưu trữ Trung ương Đảng.
1.3.

Tinh hình sử dụng tài liệu từ năm 1930-1945 trong Kho Lưu trữ

Trung ương Đảng để nghiên cứu lịch sử Đảng.
-

Chương 2: Tài liệu lưu trữ của Đảng giai đoạn 1930-1945 nguồn sử

liệu quý giá để nghiên cứu lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam.
Chương này đi sâu phân tích các đặc điểm và giới thiệu cụ thể về tình
hình, thành phần, nội dung của tài liệu lưu trữ giai đoạn 1930-1945 trong
Kho Lưu trữ Trung ương với khía cạnh là nguồn sử liệu để nghiên cứu lịch
sử nói chung, lịch sử Đảng nói riêng. Đồng thời trên cơ sở tình hình thực
tiễn tài liệu trong Kho Lưu trữ Trung ương, đề tài giới thiệu cụ thể một số
thông tin tài liêụ lưu trữ trong Kho Lun trữ Trung ương nhằm phục vụ cho
việc nghiên cứu một số vấn đề lịch sử Đảng cịn chưa được làm rõ hoặc cịn
ít được nghiên cứu. Gồm các mục sau::
2.1. Một số đặc điểm của tài liệu lưu trữ giai đoạn 1930-1945.
2.2. Tài liệu lưu trữ của Đảng giai đoạn 1930-1945, nguồn sử liệu quý
giá để nghiên cứu lịch sử Đảng.
2.3. Giới thiệu một sổ vấn để về lịch sử Đảng cần được nghiên cứu giải
quyết.

9


-


Chưưng 3: Để xuất một số biện pháp Iihăm nâng cao hiệu quả sử

dụng tài liệu trong Kho Lưu trữ Trung ương Đảng phục vụ nghiên cứu lịch
sử Đảng cộng sản Việt Nam.
Trên cơ sở thực tế công tác tổ chức và sử dụng tài liệu trong Kho phục
vụ công tác nehiên cứu lịch sử Đảng nói chung, lịch sử Đảng giai đoạn
1930-1945 nói riêng; căn cứ vào những yêu cầu nghiên cứu lịch sử Đảng
phuc vụ cho cóng cuộc đổi mới của đất nước trong giai đoạn hiện nay và
trong những năm tới; căn cứ vào yêu cầu của khoa học lưu trữ trong xu thế
chung trên thế giới hiện nay và yêu cầu đổi mới tại Kho Lưu trữ Trung
ương Đảng nói riêng, đề tài đề xuất một số biện pháp cụ thể mà Kho Lưu
trữ Trung ương cần tập trung giải quyết, nhằm nâng cao hiệu quả phục vụ
nghiên cứu lịch sử Đảng. Cụ thể:
3.1. Tổ chức xác minh, thẩm định tài liệu, đảm bảo tính xác thực của
tài liệu lưu trữ.
3.2. Tăng cường hệ thống công cụ tra cứu tài liệu.
3.3. Xây dựng và bổ sung hoàn chỉnh các quy chế, quy định về quản lý
và khai thác tài liệu lưu trữ lịch sử.
3.4. Các biện pháp khác.

10


CHƯƠNG 1. TÌNH HÌNH T ổ CHỨC VÀ s ử DỤNG TÀI LIỆU TRONG
KHO LUU TRỮTRƯNG UƠNCi ĐẢNG PHỤC v ụ NGHIÊN c ú u LỊCH
SỬĐẢNG (giai đoạn 1930 - 1945).

1.1.


Vị trí và V nghĩa của tài liệu lưu trữ với việc nghiên cứu lịch sử

Đảng.
“Tài liệu lưu trữ là những tài liệu có giá tri được lựa chọn trong tồn bộ
khối tài liệu hình thành trong hoạt động của các cơ quan, đồn thể, xí
nghiệp và cá nhân được bảo quản cố định trong các lưu trữ để khai thác
phục vụ các mục đích chính trị, kinh tế, văn hố, khoa học, lịch sử ... của
tồn xã hội” [9.72],
Khái niệm này nói lên rằng, phần lớn tài liệu lưu trữ có nguồn gốc là
tài liệu văn thư (tài liệu hình thành trong quá trình hoạt động của các cơ
quan, đồn thể...), nhưng khơng phải là tất cả tài liệu văn thư đều trở thành
tài liệu lưu trữ, mà chúng chỉ gồm những tài liệu có ý nghĩa chính trị, kinh
tế, văn hoá, khoa học, lịch sử... và chỉ khi những tài liệu đó được đưa vào
bảo quản trong các phịng, kho lưu trữ, thì mới gọi là tài liệu lưu trữ.
Tài liệu lưu trữ có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, tài liệu lưu trữ chứa đựng những thông tin về quá khứ. Bởi vì
tài liệu lưu trữ được hình thành trong quá trình hoạt động của các cơ quan,
tổ chức, cá nhân, do đó tài liệu lưu trữ chứa đựng các thông tin phản ánh về
các sự kiện, hiện tượng, biến cố lịch sử, những hoạt động của một nhà nước,
một cơ quan hoặc một cá nhân trong quá trình tồn tại...
Thứ hai, tài liệu lun trữ là bản gốc, bản chính của các văn bản, nói theo
ngơn ngữ thồng tin, đó là những tài liệu chứa đựng thơng tin cấp một.
Chúng mang những bằng chứng thể hiện độ chân thực cao như bút tích của
11


tác giả, chữ ký của người có thẩm quyền, dấu của cơ quan, địa danh và
ngày tháng làm ra văn bản... được lưu giữ và bảo quản trong các kho lưu trữ
với các ký hiệu lưu trữ được xác định cho từng tài liệu, từng đom vị bảo
quản trong kho. Chính do dặc điểm này, nên tài liệu lưu trữ có một giá trị

đặc biệt, nhất là ở khía cạnh sử liệu, tài liệu lưu trữ được coi là tư liệu gốc,
sử liệu gốc phục vụ đắc lực cho công tác nghiên cứu lịch sử.
Thứ ba, ở Việt nam tài liệu lưu trữ do Đảng và Nhà nước quản lý
thống nhất, được tập trung bảo quản và đưa ra sử dụng theo những quy định
chặt chẽ. Pháp lệnh bảo vệ tài liệu lun trữ quốc gia nêu rõ: “Tài liệu lưu trữ
quốc gia thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước quản lý theo nguyên tắc tập
*

trung thống nhất; không một cơ quan, tập thể hoặc cá nhân nào được chiếm
làm của riêng” [47.432].
Phông lưu trữ Quốc gia của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là “toàn bộ tài liệu có ý nghĩa thực tiễn và lịch sử về chính trị, kinh tế, khoa
học, văn hố- xã hội thuộc sở hữu Quốc gia, không phụ thuộc vào thời gian
sản sinh ra, phương pháp và kỹ thuật chế tác, được bảo quản trong các kho
lưu trữ của Đảng, Nhà nước và kho lun trữ của các tổ chức thuộc thành
phần kinh tế- xã hội khác trong toàn quốc.” [9.64]
Tài liệu lưu trữ Quốc gia là tài liệu lưu trữ thuộc sở hữu tồn dân, gồm
tài liệu phơng lưu trữ Nhà nước Việt Nam và tài liệu phông lưu trữ Đảng
cộng sản Việt Nam.
Phông lưu trữ Nhà nước của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là “toàn bộ tài liệu lun trữ có ý nghĩa thực tiễn và lịch sử về chính trị,
kinh tế, khoa học, văn hố- xã hội... thuộc sở hữu của Nhà nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không phụ thuộc vào thời gian sản sinh,
phương pháp và kỹ thuật chế tác, được bảo quản trong các kho lưu trữ của
Nhà nước.” [9.63].
12


Phóng lưu trữ Đảng cộng sản Việt Nam là: “tồn bộ tài liệu lưu trữ của
Đaig và Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh có ý nghĩa thực tiễn và

lien sử vể chính trị, kinh tế, khoa học, văn hoá- xã hội... thuộc sở hữu của
Đang cộng sản Việt Nam, khơng phụ thuộc

vào

thời gian sản

sinh,

phương

ph-íp và kỹ thuật chế tác, được bảo quản trong hệ thống các kho lưu trữ của
Đmg” [9.63]
Xuất phát từ đặc thù của hệ thống chính trị ở nước ta với cơ chế Đảng
lãrh đạo Nhà nước, đồng thời học tập kinh nghiệm của các nước xã hội chủ
ngiĩa về công tác lưu trữ, từ cuối những năm 1950, đầu những năm 1960, ở
nưSc ta đã hình thành 2 tổ chức lưu trữ độc lập: lưu trữ Đảng và lưu trữ Nhà
niức. Năm 1959, Ban Bí thư trung ương Đảng (Khố II) ra thơng tri sổ'
25)-TT/TW “Một số điểm về công tác lưu trữ công văn tài liệu” có đoạn
nêj: “Mỗi cơ quan (hành chính, sự nghiệp, xí nghiệp, đơn vị quân đội,
taờng học, chi bộ...) dù to, nhỏ đều phải để ra phần việc lưu trữ, nhằm: sưu
tần, thu thập, thống kê, sắp xếp và bảo quản những hồ sơ, văn kiện cần
thết của cơ quan mình, nhằm trước mắt phục vụ cho cơng tác của cơ quan,
đcng thời cũng để sau này chọn những thữ cần thiết đưa vào kho lưu trữ của
Đaig hay Nhà nước” [28.2]
Đến năm 1962 Cục lưu trữ Nhà nước được thành lập theo nghị định số
102-CP của Hội đồng Chính phủ ban hành ngày 4-9-1962, với chức năng
quín lý tài liệu lưu trữ của Nhà nước và nghiên cứu, hướng dẫn chỉ đạo
ngiiệp vụ lưu trữ đối với các cơ quan chính quyền và đồn thể. Phịng lưu
trì Văn phòng Trung ương được thành lập từ năm 1958 với chức năng quản

lý Kho lun trữ Trung ương và hướng dẫn chỉ đạo nghiệp vụ văn thư lưu trữ
cá; cấp uỷ Đảng. Tuy nhiên đến năm 1971 mới có chỉ thị số 187-CT/TW
củi Ban Bí thư Trung ương Đảng (Khố III) ban hành ngày 4-1-1971 “về
viíc tập trung quản lý những tài liệu văn kiện, tư liệu và hiện vật thuộc về
lịci sử Đảng và lịch sử dân tộc”, trong đó quy định: ’’Những tài liệu văn


kiện và tư liệu lịch sử của Đảng bao gồm: Những tài liệu văn kiện và tư
liệu nói lên chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và của Mặt trận
dân tộc thống nhất hoặc các đoàn thể nhân dân trong Mặt trận qua các thời
kỳ vận động cách mạng Việt Nam ở cả hai miền Nam Bắc nước ta. Những
tài liệu văn kiện và tư liệu của chính quyền thực dân và phong kiến có liên
quan đến hoạt động của Đảng ta.
Những tài liệu văn kiện và tư liệu thuộc vể chủ trương và chính sách cụ
thể do chính quyền nhân dân và các cấp chỉ huy của quân đội nhân dân
Việt Nam ban hành thì do các cơ quan lưu trữ của quân đội và Nhà nước
phụ trách thu thập và bảo quản” [28.3]
Chỉ thị 187 - CT/TW cũng giao trách nhiệm cho Văn phòng Trung
Ương Đảng giúp Trung ương: sưu tầm, thu thập, xác minh và chỉnh lý
ĩihững tài liệu văn kiện của Đảng và tổ chức quản lý tài liệu để phục vụ cho
việc nghiên cứu lịch sử Đảng và tổng kết kinh nghiêm cách mạng Việt
Nam; theo dõi và hướng dẫn các cấp uỷ Đảng và các Ban chuyên môn của
Đảng thi hành chỉ thị này. Chỉ thị 187 của Ban Bí thư đã đặt nền móng bước
đầu cho việc hình thành phơng lưu trữ và hệ thống lưu trữ của Đảng.
Nãm 1987, phồng lưu trữ Đảng cộng sản Việt Nam mới chính thức
được thành lập theo Quyết định số 20-QD/TW của Ban Bí thư Trung ương
Đảng (Khố VI) ban hành ngày 23-9-1987 “về phơng lưu trữ Đảng cộng
sản Việt Nam”. Quyết định 20-QD/TW nêu rõ: “tài liệu phông lưu trữ Đảng
cộng sản Việt Nam là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ tài liệu lưu trữ
quốc gia, là di sản văn hố vơ cùng quý báu của Đảng và của dân tộc ta,

thuộc sở hữu của toàn Đảng” [28.6]
Tại hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện Quyết định 20-QĐ/TVV của
Ban Bí thư Trung ương Đảng về Phông lưu trữ Đảng cộng sản Việt Nam
(1987-1997), đồng chí Lê Khả Phiêu, uỷ viên Thường vụ, Thường trực Bộ
14


Chính trị cũng đã khẳng định lại một lần nữa quan điểm của Đảng về tài
liệu lưu trữ

tài liệu liệu lưu trữ là di sản văn hoá của dân tộc, là tài sản

quốc gia, và tài liệu lưu trữ của Đảng là một bộ phận có giá trị đặc biệt
trong toàn bộ tài liệu lưu trữ quốc gia. Tài liệu lưu trữ phải được quản lý
theo nguyên tắc tập trung thống nhất trong hệ thống các cơ quan lun trữ của
Nhà nước và của Đảng nhằm bảo vệ an toàn và khai thác sử dụng có hiệu
quả tài liệu lưu trữ vì lợi ích của dân tộc, của cách mạng. Mọi cơ quan, mọi
cán bộ đảng viên và mọi công dân phải có trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ
tài liệu lưu trừ quốc gia”. [43.2],
Tài liệu lưu trữ do nguồn gốc hình thành và với những đặc điểm riêng
của nó, được xác định là nguồn sử liệu quý báu, là chứng cứ xác thực của
lịch sử, có ý nghĩa rất lớn đối với việc nghiên cứu lịch sử.
Như chúng ta đã biết, hoạt động chủ yếu của khoa học lịch sử là nhận
thức q khứ, phân tích q trình phát triển của các sự kiện lịch sử nhằm
khái quát thành những quy luât, những bài học lịch sử để phục vụ cho
những nhu cầu của đời sống xã hội hiện tại. Để thực hiện được các nhiệm
vụ đó, khoa học lịch sử phải dựa vào các nguồn sử liệu. Sử liệu luổn luôn là
cơ sở. là phương tiện để nhận thức lịch sử. Nếu khơng có nguồn sử liệu thì
khơng thể tiến hành được việc nghiên cứu lịch sử. v ề vai trò của sử liệu
trong nghiên cứu lịch sử, chúng ta đều biết rằng: nghiên cứu lịch sử là

nghiên cứu một sự kiện, một quá trình lịch sử cụ thể. Trên cơ sở xác định
giới hạn của chủ đề của một đối tượng nghiên cứu về không gian, thời gian,
người nghiên cứu cũng xác định giới hạn của nguồn sử liệu. “Nếu như
nguồn sử liệu không được phát hiện thì cũng khơng có khả năng thực hiện
để tài. Điều đó nói lên nguồn sử liệu là phương tiện, là cơ sở để nhận thức
sự kiện lịch sử... Trên mọi phương diện phản ánh lịch sử, sử liệu luôn luôn
là cơ sở, là phương tiện để nhận thức lịch sử” [45.57].


Sử liệu là khái niệm chung đế chỉ các nguồn tài liệu, tư liệu phục vụ
cho việc nghiên cứu lịch sử. Có nhiều loại sử liệu: sử liệu viết, sử liệu sống
(hồi ký, hồi tuởng), sử liệu vật thật, sử liệu hình ảnh... Tài liệu lưu trữ là
nguồn sử liệu phong phú và có độ tin cậy cao. Bởi vì, tài liệu lưu trữ là sản
phẩm trực tiếp ghi lại hoạt động lãnh đạo và quản lý, tài liệu lưu trữ chứa
dựng những kinh nghiệm phong phú được tích lũy liên tục trong quá trình
hoạt động của các thế hệ nối tiếp nhau, là nguồn thông tin gốc xác thực
phản ánh ĩcàn diện nhiều mặt hoạt động của các cấp uỷ, của từng Cử quan,
tổ chức nói riêng cũng như của tồn xã hội nói chung. Có thể nói, tài liệu
lưu trữ là nguồn sử liệu trực tiếp phản ánh các sự kiện, hiện tượng và biến
cố lịch sử dưới các dạng: tài liệu chữ viết, tài liệu ảnh, phim điện ảnh, tài
liệu ghi âm... Tài liệu lun trữ của Đảng được hình thành trong quá trình
hoạt động của Đảng và của phong trào cách mạng Việt Nam từ những năm
đầu của thế kỷ 20 cho đến thời điểm hiện nay, là nguồn sử liệu rất quan
trọng và chủ yếu để nghiên cứu lịch sử Đảng Việt Nam. Trong bài phát biểu
tại Hội nghị cán bộ lãnh đạo các cơ quan Đảng ở Trung ương về công tác
văn thư-lưu trữ, ngày 18-5-1988, đồng chí Đỗ Mười, u ỷ viên Bộ Chính trịBí thư Trung ương Đảng đã khẳng định về vai trò của tài liệu lưu trữ của
Đảng đối với việc nghiên cứu lịch sử Đảng: “Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng
nói “lịch sử Đảng ta là cả một pho lịch sử bằng vàng”. Và chính những tài
liệu lưu trữ của Đảng là những bằng chứng lịch sử hùng hồn nhất vể pho sử
vàng ấy của Đảng ta. Đó là cơ sở sử liệu chân thực nhất, khách quan nhất,

đầy đủ nhất, giúp cho việc tổng kết kinh nghiêm lãnh đạo của Đảng, tổng
kết kinh nghiệm xây dựng Đảng, nghiên cứu biên soạn lịch sử Đảng ta và
nghiên cứu những vấn đề lý luận về cách mạng Việt Nam một cách khoa
học” [38.9]. Nói về vai trị của tài liệu lưu trữ đối với công tác nghiên cứu
lịch sử Đảng, đồng chí Trường Chinh, cố Tổng bí thư Ban chấp hành Trung
ương Đảng, thời kỳ là trưởng ban đầu tiên của Ban Nghiên cứu lịch sử
Đảng đã nêu rõ: “sự thật là điểm xuất phát và căn cứ của công tác nghiên


cứu, cho nên muốn nghiên cứu lịch sử Đảng thì trước hết phải có đầy đủ
những tài liệu cơ bản về lịch sử Đảng với tất cả chi tiết của nó. Thực hiện
cơng tác tài liệu tức là chuẩn bị cơ sở vật chất cho công tác nghiên cứu và
biên soạn lịch sử Đảng [3 .17J. Điều này cũng đã được Trung ương Đáng ta
xác định rõ trong Quyết định số 20- QD/TW ngày 23-9-1987 về Phỏng lưu
trữ Đảng cộng sản Việt Nam: “Tài liệu lun trữ của Đảng ta phản ánh mọi
mặt hoạt động của Đảng và của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì
vậy cần tập trung thống nhất việc quản lý và khai thác tài liệu lưu trữ của
Đảng để phục vụ công tác lãnh đạo của Trung ương, của các ngành, các
cấp, phục vụ việc tổng kết kinh nghiêm, xây dựng lịch sử Đảng” [28.7],
Phông lưu trữ Đảng cộng sản Việt Nam với thành phần được quy định
của nó, chứa đựng khối tài liệu phong phú nhất, gồm các nguồn tài liệu lưu
trữ mà Đảng cộng sản Việt Nam có được cho tới hiện nay. Hầu hết các
nguồn tài liệu là duy nhất và không thể thay thế được. Đây là nguồn sử liệu
phong phú và rất quý giá để phục vụ cho công tác nghiên cứu lịch sử Đảng.

1.2. Tổ chức tài liệu trong Kho lưu trữ trung ương Đảng.
1..2.1 .Phạm vi quản lý của Kho lưu trữ trung ương Đảng (thành phần
tài liệu thuộc diện quản lý của Kho).
Quyết định số 20 - QD/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về
“Phông lưu trữ Đảng cộng sản Việt Nam” quy định:


Thành phần tài liệu trong Phông lưu trữ Đảng cộng sản Việt Nam
gốm:
Tài liệu của các tổ chức Tiền thân của Đảng;
Tài liệu của Đảng và các đoàn thể quần chúng của Đảng trước Cách
mang tháng Tám năm 1945;

r.Ạ. HC' "ioCC <_■'* "•

ru'MG(AM Ỉ1

17

Tu


Tài liệu của các Đại hội toàn quốc của Đảng và đại hội đảng bộ các
cấp, của Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, của các cấp
uỷ Đảng cộng sản Việt Nam (trước kia là Đảng cộng sản Đỏng Dương,
Đảng Lao động Việt Nam); tài liệu của các Đảng bộ trực thuộc, các ban,
dảng đoàn, trường đảng, báo, tạp chí, nhà xuất bản... của Đảng và Đoàn
thanh niên;
Tài liệu của Trung ương Cục miền Nam, các xứ uỷ, liên khu uỷ, khu
uy, ban và đảng uỷ trực thuộc trung ương đã giải thể;
Tài liệu về thân thế, sự nghiệp và hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, các lãnh tụ tiền bối của Đảng, các đồng chí trong Bộ Chính trị, Ban
Bí thư và các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của các cấp uỷ tỉnh, thành, đặc
khu;
Tài liệu về một sô cán bộ, đảng viên tiêu biểu do Ban Bí thư
Trung ương Đảng quy định trong từng thời kỳ;

Hồi ký cách mạng của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt và các cán bộ
lão thành cách mạng;
Tài liệu về quá trình xây dựng và hoạt động của Đồn thanh niên cộng
sản Hồ Chí Minh các cấp và của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đoàn.
Tài liệu về hoạt động của các đảng cộng sản và công nhân, của các tổ
chức và phong trào quốc tế có liên quan với Đảng ta; về những quan hệ giữa
đảng ta và các đảng, các tổ chức và phong trào quốc tế; về những chiến sĩ
quốc tế đã hoạt động trên đất nước ta và những đảng viên tiêu biểu của
đảng ta làm nhiệm vụ quốc tế ở các nước khác;

18


Tài liệu của chế độ thực dân phong kiến, đế quốc xâm lược và các
chính quyền tay sai phản động có liên quan trực tiếp đến hoạt động của
đảng ta.
Để quản lý phông lưu trữ Đảng cộng sản Việt Nam, điều 5 và điều 6
của Quyết định 20-QD/TW quy định: “Phông lưu trữ Đảng cộng sản Việt
Nam do Cục lun trữ Trung ương Đảng thống nhất quản lý và được bảo quản
trong các kho lưu trữ của Đảng ở các cấp uỷ từ trung ương đến địa phương
và kho lưu trữ Trung ương Đồn TNCS Hồ Chí Minh”.
Hệ thơng các cơ quan ỉưu trữ của Đáng được quy định gồm:
Cục lưu trữ Trung ương trực thuộc Ban Bí thư. Cục lưu trữ Trung ương
Đảng có nhiệm vụ: nghiên cứu soạn thảo các văn bản của Trung ương Đảng
chỉ đạo công tác văn thư và lun trữ, giúp Ban Bí thư kiểm tra việc thực hiện
các văn bản chỉ đạo ấy; trực tiếp quản lý Kho lưu trữ Trung ương; hướng
dẫn chỉ đạo thống nhất nghiệp vụ khoa học vể công tác văn thư và lưu trữ
đối với các cơ quan của Đảng và Đoàn thanh niên.
Các kho lưu trữ trực thuộc tỉnh uỷ, thành uỷ, đặc khu uỷ đặt trong văn .
phòng cấp uỷ.

Các kho lưu trữ ở cấp uỷ huyện, quận, thị, thành phố trực thuộc tỉnh
đặt trong văn phòng cấp uỷ.
Các kho lưu trữ tỉnh, thành uỷ, đặc khu uỷ và các kho lưu trữ huyện
quận, thị uỷ có nhiệm vụ: trực tiếp quản lý kho lưu trữ của cấp uỷ; hướng
dẫn chỉ đạo nghiệp vụ văn thư, lưu trữ đối với các cơ quan của Đảng, Đoàn
thanh niên cùng cấp và kho lưu trữ cấp uỷ cấp dưới.

19


ở trung ương Đồn TNCS Hồ Chí Minh có kho lưu trữ trực thuộc
Trung ương Đoàn. Các kho lưu trữ của cấp uỷ tỉnh, thành, đặc khu và
huyện, quận, thị quản lý cả tài liệu của đồn TNCS Hồ Chí Minh cùng cấp.

Thành phần tài liệu thuộc phạm vi quản lý của Kho Lưu trữ Trung
ương Đảng:
Kho lưu trữ Trung ương Đảng thuộc Cục Lưu trữ Trung ương, với chức
năng quản lý tài liệu thuộc Phông lưu trữ của Đảng ử cấp trung ương (trừ tài
liệu của Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh được quán lý ở Kho lưu trữ
Trung ương Đoàn), gồm các thành phần cụ thể sau:
Tài liệu của các tổ chức Tiền thân của Đảng;
Tài liệu của các đoàn thể quần chúng của Đảng trước Cách mạng
tháng Tám năm 1945;
Tài liệu các Đại hội, hội nghị toàn quốc của Đảng, tài liệu của Ban
chấp hành trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư trung ương Đảng cộng sản
Việt Nam (trước kia là Đảng cộng sản Đông Dương, Đảng lao động Việt
Nam); tài liệu của các Đảng bộ trực thuộc Trung ương, tài liệu của các Ban
tham mưu giúp việc Trung ương Đảng, các đảng uỷ, đảng đồn, ban cán sự,
trường Đảng, báo, tạp chí, nhà xuất bản trực thuộc trung ương Đảng;
Tài liệu của Trung ương Cục miền Nam, các xứ uỷ, liến khu uỷ, khu

uỷ, ban và đảng uỷ trực thuộc trung ương đã giải thể;
Tài liệu về thân thế, sự nghiệp và hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, các lãnh tụ tiền bối của Đảng, các đồng chí trong Bộ Chính trị, Ban
Bí thư trung ương Đảng;
Hồi ký cách mạng của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng;
20


Tài liệu về các hoạt động của Đảng cộng sản và công nhân, của các tổ
chức và phong trào quốc tế có liên quan với Đảng ta; về những quan hệ giữa
Đảng ta và các đảng, các tổ chức và phong trào quốc tế; về những chiến sĩ
quốc tế đã hoạt động trên đất nước ta và những đảng viên tiêu biểu của
Đảng ta làm nhiệm vụ quốc tế ở các nước khác;
Tài liệu của chính quyên thục dân Pháp có liên quan trực tiếp đến hoạt
dỏng của Đảng ta.
1.

2.2. S ố lượng, thành phần và việc tổ chức tài liệu trong Kho lưu trữ

Trung ương.
1.2.2.1. Số lượng, thành phần:
Kho lưu trữ Trung ương hiện bảo quản hơn 100 phông và sưu tập lưu
trữ với gần 10.000 cặp ba dây.
Kho lưu trữ Trung ương Đảng hiện đã tập trung quản lý hầu hết các
thành phần tài liệu thuộc phạm vi quản lý của Kho, gồm: tài liệu của các tổ
chức Tiền thân của Đảng; tài liệu các Đại hội, hội nghị toàn quốc của
Đảng, tài liệu của Ban chấp hành trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư từ
khi thành lập Đảng đến nay; tài liệu của Trung ương Cục miển Nam, các
xứ uỷ, liên khu uỷ, khu uỷ, các ban, các đảng uỷ trực thuộc trung ương đã
giải thể; tài liệu của phần lớn các ban, các đảng uỷ trực thuộc trung ương

đang hoạt động; tài liệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của các lãnh tụ tiền bối
và của các đồng chí trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư trung ương Đảng. Cụ
thể:
-

Tài liệu các tổ chức Tiền thân của Đảng: gồm các tuyên ngôn, nghị

quyết, điểu lệ, biên bản, thư, truyền đơn, sách, báo... của các tổ chức: Hội
Việt Nam cách mạng thanh niên, An nam cộng sản Đảng, Đông Dương
cộng sản Đảng, Tân Việt cách mạng Đảng.
21


×