Tải bản đầy đủ (.docx) (71 trang)

luận văn thạc sĩ giám sát của ủy ban mặt trận tổ quốc việt nam từ thực tiễn huyện an lão, bình định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.47 KB, 71 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ MỸ

GIÁM SÁT CỦA
ỦY BAN MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN AN LÃO, BÌNH ĐỊNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - Năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ MỸ

GIÁM SÁT CỦA
ỦY BAN MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN AN LÃO, BÌNH ĐỊNH

Chun ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8.38.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


TS. TRẦN MINH ĐỨC

HÀ NỘI - Năm 2020


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong gần 90 năm qua cùng với quá trình phát triển của cách mạng Việt
Nam, Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam đã khơng ngừng đổi mới, mở rộng
những hình thức tổ chức, các tên gọi khác nhau trong mỗi giai đoạn cách
mạng nhằm để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đọan
lịch sử của đất nước và đã có nhiều thành quả, những nhân tố quyết định cho
sự nghiệp thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Xuất phát từ những đặc điểm của nước ta, là một nước chỉ có duy nhất
một Đảng cầm quyền, khơng đa nguyên, đa đảng nên nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa và sự lãnh đạo của Đảng, hoạt động của Nhà nước của nước ta ở trạng
thái phát triển khơng có đối kháng. Chính vì những lý do đó mà nguy cơ chủ
quan, tiềm ẩn những rủi ro mà Đảng ta phải gánh chịu, đó là tệ quan liêu,
tham nhũng, độc đốn, cửa quyền của cán bộ cơng chức nhà nước, vi phạm
quyền dân chủ của nhân dân… chính vì những lý do đó đã làm cho vai trị
lãnh đạo của Đảng bị giảm sút, uy tín của cán bộ cơng chức bị phai nhạt.
Do vậy, vấn đề cấp bách hiện nay là cần phải xem lại hệ thống kiểm soát
quyền lực, vai trò giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam nhằm giới
hạn quyền lực, tránh xu lướng lạm quyền, vi phạm nguyên tắc tập trung dân
chủ.
Đứng trước tình thế cấp bách như vậy, Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt
Nam các cấp phải nâng cao vai trị giám sát của mình theo quy định của pháp
luật.
Từ khi có Luật Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam (1999); Hiến pháp năm 2013
ghi nhận vị trí, vai trị của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam; Quyết định số



217/QĐ-TW ngày 12/12/2013 về việc ban hành quy chế giám sát, phản biện
xã hội của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam và các Đồn thể chính trị - xã hội…thì
phạm vi giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam các cấp đã được mở
ra ở tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội, nhằm nâng cao vị thế của Mặt
trận, mang lại những thành quả thiết thực cho nhân dân. Ở huyện An Lão, tỉnh
Bình Định, trong thời gian qua cũng đã bám sát các quy định trên, đã và đang
thực hiệt tốt, mang lại những kết quả khả quan, nhưng trong quá trình triền
khai hoạt động cũng còn những hạn chế, nội dung và phương thức thực hiện
chưa phát huy hết khả năng vốn có của mình.
Đứng trước tình hình khó khăn như vậy, tại Đại hội Đại biểu Ủy ban Mặt
trận Tổ Quốc Việt Nam huyện An Lão, tỉnh Bình Định lần thứ X, nhiệm kỳ
2019-2024 đã nhấn mạnh: Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam các cấp trong
huyện cần phải tăng cường hơn nữa hoạt động giám sát trên tất cả các mặt của
đời sống xã hội, đặc biệt là giám sát việc thực hiện các chủ trương, chính sách
của Đảng và pháp luật của Nhà nước liên quan đến quyền và lợi ích chính
đáng của nhân dân.
Cơng tác giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam các cấp trong
huyện vẫn còn những hạn chế nhất định, nhiều lĩnh vực giám sát chưa được
xây dựng kế hoạch, công tác phối hợp giữa Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt
Nam các cấp trong huyện và các tổ chức thành viên chưa chặt chẽ, đồng bộ,
cơng tác giám sát cịn rời rạc, từng hội đoàn thể nào tự thực hiện giám sát
từng nội dung đó, lĩnh vực giám sát cịn hẹp nên hiệu quả pháp lý và công tác
thuyết phục chưa cao.
Từ những yêu cầu bức xúc về lý luận và thực tiễn nêu trên, học viên
chọn đề tài “Giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam từ thực tiễn
huyện An Lão, Bình Định”, trong quá trình nghiên cứu đề tài bản thân sẽ góp



ý kiến của mình, nhằm nâng cao hiệu quả cơng tác giám sát của Ủy ban Mặt
trận Tổ Quốc Việt Nam huyện An Lão, tỉnh Bình Định nói riêng và công tác
giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua công tác giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc
Việt Nam đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, tiếp cận với nhiều góc độ, quy
mô khác nhau trên cơ sở dựa vào các cơng trình khoa học liên quan đến cơng
tác giám sát như: Nguyễn Đức Thành (2012), “Hoạt động giám sát và phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam và các đồn thể nhìn từ thực tiễn
tỉnh Nghệ An”; Ngơ Sách Thực (2017), “Phát huy vai trị giám sát và phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam”; Thu Hà (2018), “Phát huy vai
trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam”; Trần
Thanh Mẫn (2019), “Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam các cấp tăng cường thực
hiện giám sát, phản biện xã hội đáp ứng yêu cầu nguyện vọng của các tầng lớp
nhân dân”; Hoàng Thị Ánh (2015), luận văn thạc sĩ luật học “Giám sát và
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ Quốc thành phố Đà Nẵng”…Thực tế đã có
rất nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học nghiên cứu về công tác giám sát và
phản biện của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam. Và từ sau khi Luật Mặt trận Tổ
Quốc Việt Nam ra đời năm 2015; Hiến pháp năm 2013 và Quyết định số
217/QĐ-TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị (khóa XI). Chính vì vậy, việc
chọn đề tài luận văn thạc sĩ: “Giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam từ thực tiễn huyện An Lão, Bình Định” để làm sáng tỏ kết quả đạt được
và những hạn chế, bất cập, cũng như đề ra các giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng hoạt động giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam cấp cơ sở,
là khơng trùng lặp với các cơng trình đã cơng bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu


Mục đích tổng quát của đề tài là xây dựng luận cứ khoa học cho việc đề

xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc
Việt Nam huyện An Lão, Bình Định và trên cả nước nói chung, đồng thời hỗ
trợ cho cơng tác giám sát, kiểm tra, thanh tra của Nhà nước nhằm góp phần
xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, làm cho bộ máy Nhà nước trong
sạch, vững mạnh, hoạt động ngày càng có hiệu lực, quản lý tốt mọi mặt đời
sống xã hội theo pháp luật nhà nước, thể hiện được quyền lực của nhân dân,
bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
-

Đánh giá thực trạng của công tác giám sát và đưa ra những kết quả và

hạn chế của công tác giám sát từ thực tiễn giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ
Quốc Việt Nam các cấp của huyện An Lão, tỉnh Bình Định.
-

Làm sáng tỏ cơ sở lý luận hoạt động giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam.
-

Từ kết quả nghiên cứu của hoạt động giám sát của Ủy ban Mặt trận

Tổ Quốc Việt Nam huyện An Lão, tỉnh Bình Định, đề xuất những giải pháp
mang tính khoa học để góp phần nâng cao hiệu quả của công tác giám sát.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các quan niệm khoa học, hệ thống chủ trương, chính
sách, pháp luật về giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam; vị trí, vai
trị, chức năng của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam huyện An Lão, Bình

Định; thực tiễn hoạt động giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam
huyện An Lão, Bình Định đối với một số đề án, dự án, chủ trương, chính sách
trong q trình xây dựng và phát triển.
4.2. Phạm vi nghiên cứu


-

Về không gian:

Luận văn nghiên cứu về hoạt động giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ
Quốc Việt Nam huyện An Lão, Bình Định trên cơ sở Hiến Pháp 2013, Luật
Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam 1999, Quyết định số 217, 218 của Bộ Chính trị,
Luật Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam 2015 và Luật Tổ chức chính quyền địa
phương năm 2015.
-

Về thời gian: Thời gian nghiên cứu của luận văn là việc thực hiện

giấm sát của Ủy ban MTTQ Việt Nam huyện An Lão, Bình Định từ năm 2014
– 2019.
5.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa
Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm sốt quyền lực Nhà nước, về
dân chủ; vai trò của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam về công tác giám sát,
tham gia xây dựng Đảng, xây dưng chính quyền.

5.2. Phương pháp nghiên cứu
-

Phương pháp hệ thống

-

Phương pháp so sánh

-

Phương pháp phân tích tổng hợp…
6.

-

Ý nghĩa của đề tài:

Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần nâng cao chất lượng và

hiệu quả hoạt động giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam huyện
An Lão, Bình Định.


-

Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ nghiên cứu,

giảng dạy, học tập lý luận cho đội ngũ cán bộ Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc trong
việc thực hiện chức năng giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc.

7.

Cơ cấu của luận văn

Gồm 3 phần: phần mở đầu, phần kết luận và phần nội dung, riêng phần
nội dung được chia thành 3 chương:
-

Chương I. Những vấn đề lý luận và pháp lý về giám sát của Ủy ban

Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam
-

Chương 2. Thực trạng giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt

Nam tại huyện An Lão, Bình Định
-

Chương 3. Phương hướng và các giải pháp nâng cao hiệu quả giám

sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ thực tiễn huyện An Lão, Bình
Định


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ
GIÁM SÁT CỦA ỦY BAN MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò giám sát của Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm về giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam
Để đưa ra cách hiểu về giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam là gì, trước hết cần làm rõ một số khái niệm sau:
- Giám sát là gì?
Giám sát là thuật ngữ được dùng nhiều trong các văn bản của cơ quan
Đảng và Nhà nước.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì: “giám sát là một hình thức hoạt
động của cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội nhằm bảo đảm pháp chế hoặc
sự chấp hành những quy định chung nào đó”.
Từ điển Luật học định nghĩa: “giám sát được hiểu là sự theo dõi, quan
sát hoạt động thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp
tích cực để buộc và hướng hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát đi đúng
quỹ đạo, quy chế nhằm đạt được mục đích, hiệu quả xác định từ trước, bảo
đảm cho pháp luật được tuân thủ nghiêm chỉnh” (32, tr.389).
Xét về cấu trúc, giám sát được thực hiện bởi hai loại chủ thể: giám sát của
các cơ quan quyền lực nhà nước (giám sát trong hệ thống nhà nước) và giám sát
của các chủ thể xã hội (giám sát từ bên ngoài vào hệ thống nhà nước).
Hoạt động giám sát của các chủ thể xã hội được gọi là giám sát chính trị xã hội. Giám sát chính trị - xã hội phân biệt với giám sát nhà nước ở chỗ: chủ thể
giám sát chính trị - xã hội là nhân dân trực tiếp tham gia giám sát hoặc thông qua
các tổ chức do mình ủy nhiệm. Giám sát chính trị - xã hội khơng mang tính


quyền lực nhà nước, đối tượng giám sát xã hội là các cơ quan quyền lực nhà
nước, phương thức giám sát chính trị - xã hội cũng linh loạt, năng động và
khách quan hơn giám sát nhà nước vì nó là giám sát từ bên ngoài vào hệ
thống nhà nước.
Mặc dù có sự diễn đạt khác nhau, từ các định nghĩa này, có thể thấy
những đặc trưng duy nhất của giám sát: Là hoạt động phản ánh mối quan hệ
giữa chủ thể và đối tượng trong một hệ thống, cấu trúc xã hội xác định.
Mục đích là nhằm phịng ngừa, uốn nắn những sai phạm có thể xảy ra

trong quá trình thực hiện và đảm bảo cho hệ thống vận hành đạt hiệu quả cao.
Trong hệ thống xã hội, hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay, giám sát
được thực hiện bởi nhiều cấp độ chủ thể khác nhau: Giám sát của Đảng, giám
sát của Nhà nước, giám sát của nhân dân và giám sát của xã hội.
Từ những phân tích trên, có thể nêu định nghĩa. Giám sát là hình thức
giám sát của các chủ thể ngồi nhà nước thơng qua các tổ chức xã hội hoặc
bằng hình thức giám sát trực tiếp của công dân đối với tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước, của đảng cầm quyền nhằm đảm bảo thực thi quyền lực
của nhân dân.
Từ khái niệm trên, có thể rút ra các đặc điểm giám sát của Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam:
Tại khoản 2, Điều 25, Luật Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam năm 2015 đã
nêu “Giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam mang tính xã hội, đại
diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, kịp thời
phát hiện và kiến nghị xử lý sai phạm, khuyết điểm; kiến nghị sửa đổi, bổ
sung chính sách, pháp luật; phát hiện, phổ biến những nhân tố mới, các điển
hình tiên tiến và những mặt tích cực; phát huy quyền làm chủ của Nhân dân,
góp phần xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh.[14,tr.9]
Hoạt động giám sát được thực hiện bởi hoạt động giám sát của các chủ


thể xã hội và hoạt động giám sát của cơ quan Nhà nước. Hoạt động giám sát
của các chủ thể xã hội gọi là giám sát xã hội, chủ thể giám sát xã hội là các
đảng chính trị, các tổ chức chính trị- xã hội, báo chí, cơng dân. Đảng cầm
quyền là chủ thể xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy và trực tiếp lãnh đạo Nhà
nước. Phương thức giám sát xã hội được thực hiện thông qua Ủy ban Mặt trận
Tổ Quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội nghề
nghiệp, các đồn thể... bằng hình thức giám sát gián tiếp (thông qua đại diện)
hoặc giám sát trực tiếp. Giám sát xã hội là sự bổ sung khách quan cho cho
hính thức giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước và hệ thống. Hoạt động

giám sát phải được thực hiện theo nguyên tắc phát huy quyền làm chủ của
nhân dân và thành viên của Mặt trận.
Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội trong hệ thống
chính trị ở nước ta là những thiết chế tổ chức vừa mang tính chính trị, vừa
mang tính xã hội và tính nhân dân.
Thứ nhất, tính chính trị của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
đoàn thể - xã hội
-

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội do Đảng Cộng sản

Việt Nam sáng lập và lãnh đạo.
Đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tính chính trị cần được xác
định
rõ nét trong quy định: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị.
Thứ hai, tính chất xã hội của ủy ban Mặt trận Tổ Quốc và các tổ chức
đoàn thể xã hội
- Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, là
nơi tập hợp quần chúng, hiệp thương ý chí nguyện vọng của quần chúng nhân
dân.


-

Các tổ chức đồn thể chính trị - xã hội là các tổ chức tự nguyện, tập

hợp, đoàn kết và đại diện cho ý chí, lợi ích của các hội viên, đồn viên. Đồng
thời, các đồn thể chính trị - xã hội này là tổ chức bảo vệ lợi ích hợp pháp,
chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của các đồn viên, hội viên, vì sự phát
triển của cộng đồng và xã hội.

Các tổ chức chính trị - xã hội là thành viên của Mặt trận Tổ Quốc Việt
Nam đồng thời cũng là thành viên của hệ thống chính trị.
Các tổ chức chính trị - xã hội có quan hệ với Mặt trận Tổ Quốc Việt
Nam là mối quan hệ hợp tác, chủ động và bình đẳng trong công tác phối hợp
thể hiện: Độc lập với nhau về công tác tổ chức, do các tổ chức thành viên đều
có điều lệ, có con dấu riêng và đại diện cho lợi ích của từng tổ chức, nhưng
chung quy lại, tất cả các tổ chức thành viên đều hoạt động vì lợi ích chung, lợi
ích của đất nước, của dân tộc, tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh.
-

Uỷ ban Mặt trận giữ mối liên hệ và phối hợp công tác với các tổ chức

thành viên. Các tổ chức đoàn thể với tư cách là thành viên của Mặt trận có
quyền yêu cầu Uỷ ban Mặt trận bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình, yêu
cầu Uỷ ban Mặt trận cùng cấp tổ chức hiệp thương để phối hợp với các thành
viên có liên quan nhằm hưởng ứng sáng kiến của mình về các cuộc vận động
nhân dân thực hiện chương trình của Mặt trận. Mặt khác, Uỷ ban Mặt trận
trong mối quan hệ chặt chẽ với các tổ chức thành viên thực hiện việc cung cấp
thông tin về hoạt động của Uỷ ban mình cho các thành viên; đơn đốc các
thành viên thực hiện đúng chính sách đại đồn kết dân tộc và tham gia công
tác Mặt trận.


Trong cơ cấu thành phần Uỷ ban Mặt trận, người đứng đầu các
đồn
thể chính trị - xã hội, thơng qua hiệp thương, được cử vào Uỷ ban Mặt trận,
nếu trong thực tiễn hoạt động làm trái những quy định và điều lệ của Mặt trận
thì tuỳ mức độ sai phạm mà bị khiển trách, cảnh cáo hoặc thôi công nhận là
thành viên Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

1.1.2. Vai trò của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Vị thế, vai trò của Ủy ban Mặt trận tổ Quốc Việt Nam đã được Đảng và
Nhà nước ta khẳng định trong các văn kiện, cương lĩnh xây dựng đất nước…
Thời gian gần đây Đảng, Nhà nước ta ngày càng khẳng định vai trò của Ủy
ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam với quy mơ, hình thức rộng hơn, được quy
định trong các văn bản như:
Tại khoản 1, Điều 9 Hiến pháp năm 2013 khẳng định vai trò của Ủy
ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam ngày càng rộng hơn, phù hợp với yêu cầu đổi
mới của đất nước. “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị,
liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân
tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám
sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối
ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Tại Điều 1. Luật Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam năm 2015 quy định: “Kế
thừa vai trò lịch sử của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam do Đảng Cộng
sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính


trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong
các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền
nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân
dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ,
tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng
Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc”.
Đứng trước tình hình hình đổi mới của đất nước, Đảng và Nhà nước đã
nhận thức đúng đắn cần phải nâng cao vị thế, vai trò của Ủy ban Mặt trận Tổ
Quốc Việt Nam, cần phải ban hành các văn bản như Hiến pháp năm 2013,
Luật Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam năm 2015, Quyết định 217/QĐ-MTTW
ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị và một số văn bản khác… đã tạo cơ sở
pháp lý cho Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam các cấp và các tổ chức thành
viên nâng cao hơn nữa vai trò giám sát xã hội của mình, qua đó khẳng định
Mặt trận là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, là nơi tập hợp khối đại
đoàn kết toàn dân, tạo sự đồng thuận trong xã hội, tham gia xây dựng Đảng,
xây dựng chính quyền ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Thứ nhất, tham gia xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh
Trong thực tế hiện nay, yêu cầu cấp bách và khách quan cần phải đặt ra
là phải khắc phục được những tồn tại, khuyết điểm trong tổ chức và hoạt động
của Đảng, những hạn chế, khuyết điểm đó thể hiện do nhiều nguyên nhân
khác nhau mà có lúc, có nơi Đảng chưa thực hiện tốt trong phong cách lãnh
đạo, trong rèn luyện phẩm chất cán bộ, đảng viên và các vấn đề kinh tế - xã
hội. Để khắc phục được những hạn, chế tồn tại đó thì Ủy ban Mặt trận Tổ
Quốc Việt Nam các cấp và các tổ chức thành viên có vai trò rất to lớn, là cầu


nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, là nơi tập hợp khối đại đồn kết tồn
dân, và thơng qua đó, Đảng, Nhà nước mới gắn bó mật thiết với thực tiễn đời
sống xã hội của nhân dân, qua đó các chủ trương, đường lối của Đảng và
chính sách, pháp luật của Nhà nước được kiểm nghiệm qua thực tiễn và thơng
qua thực tiễn Đảng sẽ có định hướng đúng đắn trong cơng tác lãnh đạo, chỉ
đạo của mình, khắc phục được những hạn chế, khuyết điểm trong Đảng.
Để công tác lãnh đạo của Đảng được vận hành thông suốt, thống nhất
từ Trung ương đến cơ sở, Đảng phải xây dựng được cho mình bộ máy tổ chức
Đảng trong sạch, vững mạnh. Mặt trận và các tổ chức thành viên thơng qua

hoạt động của mình sẽ góp phần phát huy sức mạnh bộ máy tổ chức Đảng
như:
-

Mặt trận và các tổ chức thành viên phát huy vai trị của mình trong

việc xây dựng và bảo vệ Đảng, vận động nhân dân giám sát các tất cả các hoạt
động của cấp ủy Đảng tại địa phương để kịp thời phát hiện những hạn chế,
khuyết điểm của tổ chức cơ sở Đảng ở cơ sở; tuyên truyền, vận động nhân
dân tích cực tham gia tốt các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước,
gương người tốt, việc tốt. Qua đó, Mặt trận và các tổ chức thành viên sẽ giáo
dục chính trị, tư tưởng cho các đồn viên, hội viên, phát hiện và bồi dưỡng
những nhân tố điển hình, ưu tú giới thiệu cho Đảng để kết nạp, góp phần làm
tăng số lượng và chất lượng của tổ chức cơ sở Đảng.
Đảng lãnh đạo bằng đường lối, chủ trương, chính sách… các đường lối,
chủ trương, chính sách ấy phải xuất phát từ nhu cầu lợi ích chính đáng của
nhân dân thông qua kiểm nghiệm thực tiễn đời sống xã hội, thực tiễn sẽ chứng
minh được tính đúng đắn, hiệu quả từ các chủ trương, đường lối của Đảng.
Mặt trận và các tổ chức thành viên phản ánh những tâm tư, nguyện vọng,
những vấn đề bức xúc của nhân dân trong thực tiễn đời sống ở địa phương để


Đảng có những định hướng đúng đắn trong việc ban hành các chủ trương,
đường lối phù hợp với thực tiễn của đời sống xã hội để lãnh đạo có hiệu quả;
Mặt trận và các tổ chức thành viên sẽ tổ chức các cuộc họp lấy ý kiến
của nhân dân đối với những chủ trương, chính sách lớn, liên quan đến đại bộ
phận đời sống xã hội của nhân dân, để cho các tầng lớp, giai tầng trong xã hội
được tham gia góp ý, từ đó Đảng kịp thời điều chỉnh, bổ sung vào chủ trương,
chính sách của mình trước khi ban hành.
Sau khi các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật

của Nhà nước được ban hành. Mặt trận và các tổ chức thành viên có nhiệm vụ
đưa các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật vào đời sống
xã hội thông qua các cuộc tuyên truyền bằng các hình thức, hình ảnh trực
quan sinh động phù hợp với từng địa bàn khu dân cư, như tổ chức hội họp,
các ngày hội, ngày lễ lớn của địa phương, các diễn đàn, các cuộc thi, thơng
qua đó Mặt trận và các tổ chức thành viên tích cực tuyên truyền và vận động
nhân dân thực hiện tốt các đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước trong thực tế đời sống của nhân dân.
Các đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước được kiểm nghiệm trong đời sống xã hội thì Đảng sẽ rút ra được những
kinh nghiệm và hạn chế trong việc đưa ra quyết sách của mình về một vấn đề
náo đó.
Với vai trị của mình, Mặt trận là liên minh chính trị, là cơ sở quần
chúng của Đảng, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Mặt trận
khơng đứng ngồi cuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội mà luôn ln
cùng Đảng khắc phục những khó khăn, hạn chế của Đảng, Nhà nước, chăm
lo, phát triển tất cả các mặt của đời sống xã hội bằng những hành động, những
việc làm cụ thể.


Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “mỗi cơng việc của Đảng phải giữ nguyên
tắc và phải liên hệ chặt chẽ với quần chúng” và “giữ chặt mối liên hệ với quần
chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng mà nhờ đó Đảng thắng lợi”.
Thơng qua mối liên hệ giữa Đảng phải giữ nguyên tắc với nhân dân, giữa
nhân dân với Đảng ngày càng được củng cố, phát triển, sức mạnh của Đảng được
tăng cường…Nhân dân ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tích cực
tham gia các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước để cùng Đảng xây
dựng và bảo vệ Nhà nước.
Thứ hai, vai trò của Mặt trận Tổ Quốc đối với việc phát huy sức mạnh tổ
chức và hoạt động của Nhà nước, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, sức mạnh
của nhân dân là nền tảng cho sức mạnh của Nhà nước, nó được hình thành và được
phát triển liên tục của khối đại đoàn kết toàn dân, thể chế Nhà nước của nhân dân.

Ngày nay, thể chế Nhà nước của nhân dân, sức mạnh của Nhà nước, quan hệ
và hoạt động đang đặt ra những vấn đề cấp bách như:
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của Nhà nước ta phải được thực hiện tốt hơn, q
trình dân chủ hóa tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội phải được tăng cường, Nhà
nước quản lý tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng pháp luật, đề cao dân chủ.

Đổi mới phong cách làm việc của đổi ngũ cán bộ công chức, thực hiện tốt
nguyên tắc tập trung dân chủ, xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp.
Để cụ thể hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước, cụ thể hóa các chủ trương, đường lối của Đảng và cơ chế quản lý mới
thành pháp luật cụ thể, xây dựng các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội …thì Bộ
máy Nhà nước phải khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, xây dựng một bộ máy
Nhà nước trong sạch, tinh gọn mới có đủ điều kiện để thực hiện.
Tăng cường thực hiện mối quan hệ hợp tác quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế với
tất cả các nước trên thế giới trên ngun tắc hịa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.


Nâng cao cảnh giác, đấu tranh chống lại mọi âm mưu và những hành động
chống phá Nhà nước của các thế lực thù địch, tăng cường và củng cố quốc phòng an ninh.
Nhà nước phải giữ mối liên hệ, phối hợp tốt với Mặt trận và các tổ chức
thành viên, thông qua Mặt trận và các tổ chức thành viên để phát huy sức mạnh khối
đại đoàn kết toàn dân trong tham gia xây dựng chính quyền.
Mặt trận và các tổ chức thành viên tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia
xây dựng bộ máy Nhà nước trong sạch, vững mạnh, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân.
Đảng ta đã đổi mới định hướng và ý thức đầy đủ hơn về Nhà nước ta là Nhà

nước của nhân dân, do nhân dân, nhân dân làm chủ tất cả các mặt của đời sống xã hội,
vấn đề làm chủ của nhân nhân có mối quan hệ mật thiết với xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Do vậy, Mặt trận và các tổ chức thành viên đã tiến hành những
hình thức để thu hút, tổ chức nhân dân tham gia xây dựng chính quyền như:
Một là: tham gia tổ chức bầu cử Đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân góp
phần nâng cao sức mạnh của Nhà nước: Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc Việt
Nam sẽ tổ chức hội nghị để hiệp thương, thỏa thuận về cơ cấu, thành phần, số lượng để
giới thiệu ra ứng cử đại biểu Quốc hội; ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam các cấp ở
địa phương phối hợp với Ủy ban Nhân dân và Hội đồng nhân dân cùng cấp thành lập
và tham gia các tổ phụ trách bầu cử cùng cấp để tổ chức bầu cử; chủ trì các cuộc gặp
gỡ, tiếp xúc, báo cáo giữa ứng cử viên trong bầu cử Quốc hội, Hội đồng Nhân dân các
cấp; Mặt trận và các tổ chức thành viên tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia chất
vấn ứng cử viên, tham gia đi bỏ phiếu đầy đủ trong ngày bầu cử. Đồng thời Mặt trận và
các tổ chức thành viên ở địa phương tham gia giám sát quá trình bầu cử, để phát hiện
và uốn nắn những sai sót kịp thời trong quá trình bầu cử.
Hai là, tham gia vào hoạt động tư pháp cùa Nhà nước, phát huy sức mạnh của
cơ quan tư pháp: Mặt trận tổ Quốc Việt Nam các cấp tham gia vào hoạt động tư pháp
bằng các hình thức như: Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam các cấp phối hợp với các tố chức


thành viên tổ chức hiệp thương, giới thiệu những người đủ tiêu chuẩn để làm Hội
thẩm nhân dân của Tòa án nhân dân; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp với Viện
Kiểm Sát, Cơng an, Tịa án, các cơ quan tư pháp của Nhà nước để tuyên truyền, vận
động nhân dân chấp hành pháp luật, xây dựng pháp luật và phòng ngừa, tránh các
hành vi vi phạm pháp luật.
Ba là, Tham gia vào hoạt động hành pháp của Nhà nước, phát huy sức mạnh của
hệ thống các cơ quan quản lý hành chính: Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc Việt
Nam phối hợp với Chính phủ, tham gia thảo luận các chủ trương lớn trong các kỳ họp
của Chính phủ, cùng Chính phủ tổ chức và chỉ đạo các phong trào thi đua yêu nước của
nhân dân liên quan đến các vấn đề kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng trong phạm vi

cả nước, tham gia giám sát mọi hoạt động của Chính Phủ. Ở địa phương, Ủy ban Mặt
trận Tổ Quốc các cấp phối hợp với Hội đồng nhân dân, Ủy ban Nhân dân cùng cấp
củng cố chính quyền nhân dân, phát huy quyền làm của của nhân dân; tham gia giám
sát mọi hoạt động của cơ quan Nhà nước ở địa phương, giám sát cán bộ, công chức
trong việc thực hiện phạm vi, chức trách của mình tại các cơ quan, đơn vị, tại nơi cư
trú; Mặt trận và các tổ chức thành viên tuyên truyền, vận động nhân dân phát huy tinh
thần khối đại đoàn kết toàn dân, cùng nhau đấu tránh chống phá mọi âm mưu diễn biến
hịa bình, chống phá của các thế lực thù địch, tham gia hòa giải các tranh chấp, mẫu
thuẫn nhỏ trong địa phương, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền.

Mặt trận và các tổ chức thành viên vận động, tổ chức nhân dân thực hiện
quyền làm chủ, tham gia xây dựng chính sách, pháp luật.
Nhà nước điều hành, quản lý xã hội với những hình thức, chính sách khác
nhau, nhưng cơng cụ mà Nhà nước quản lý chủ yếu là pháp luật, kế hoạch, chính
sách trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Mặt trận và các tổ chức thành viên tổ
chức tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành các chính sách của pháp luật, đưa
các chính sách, các kế hoạch đó vào đời sống của nhân dân địa phương, vận động
nhân dân tham gia xây dựng, góp ý các chính sách, kế hoạch của Nhà nước, góp
phần xây dựng và củng cố Nhà nước.


Mặt trận và các tổ chức thành viên phối hợp với Hội Đồng Nhân dân và Ủy ban
Nhân Dân cùng cấp xây dựng các kế hoạch, chính sách nhà nước thông qua các kỳ họp
Hội đồng Nhân dân, cuộc họp Ủy ban Nhân dân để tham gia thảo luận, đóng góp ý phù
hợp với tâm tư, nguyện vọng, lợi ích chính đáng của người dân. Đồng thời, tổ chức các
cuộc họp dân, các cuộc tiếp xúc cử tri với Đại biểu Quốc Hội, Đại biểu Hội đồng Nhân
dân các cấp … để các đại biểu Quốc hội, Hội đồng Nhân dân các cấp lắng nghe những
tâm tư, nguyện vọng, ý kiến của người dân, phản ánh tại các kỳ họp Hội đồng nhân dân
các cấp và Đại biểu quốc hội phản ánh tại các kỳ họp Quốc hội.
Ngoài ra, Mặt trận và các tổ chức thành viên còn tham gia xây dựng pháp luật.

Thông qua các buổi họp dân, các diễn đàn, các cuộc họp, hội nghị của Mặt trận và các
tổ chức thành viên, với tinh thần phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, nhân dân tham gia góp ý vào các dự thảo văn bản
luật, văn bản dưới luật như pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Nghị định của
Chính phủ; tham gia sửa đổi, bổ sung Hiến pháp. Mặt trận và các tổ chức thành viên
thay mặt nhân nhân phản ánh những ý kiến, góp ý với Ủy ban Thường vụ Quốc hội,
Chính phủ về dự thảo xây dựng các pháp lệnh, các dự án luật…

Mặt trận Tổ Quốc và các tổ chức thành viên vận động, tổ chức nhân dân thực
hiện tốt quyền làm chủ, tham gia giám sát Nhà nước.
Mặt trận và các tổ chức thành viên thông qua hoạt động giám sát xã hội của
mình, giám sát tất cả các mặt của đời sống xã hội, giám sát việc thực thi nhiệm vụ
của các cơ quan chuyên môn, giám sát thẩm quyền thực hiện chức trách, nhiệm vụ
được giao của các bộ, cơng chức Nhà nước. Qua đó, phát hiện những việc làm sai
trái, vi phạm pháp luật của các cơ quan chuyên môn, của cán bộ, công chức, kịp thời
phản ánh với các cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Cơ quan Chính Phủ, khi ban hành các văn bản, chính sách lớn, có liên quan đến
quyền, và lợi ích của nhân dân thì phải gửi dự thảo lấy ý kiến đến cơ quan Ủy ban
Trung ương Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, và các cơ quan Chính phủ phải có trách


nhiệm giải trình, chất vấn khi Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam có ý
kiến tham gia.
Lãnh đạo các cơ quan Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi để cho Mặt trận
và các tổ chức thành viên, cơ quan thanh tra tham gia giải quyết các khiếu nại, tố
cáo của nhân dân.
Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam tỉnh, huyện hướng dẫn Ủy ban Mặt trận Tổ
Quốc Việt Nam các xã, thị trấn thành lập Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư
cộng đồng để tiến hành giám sát tất cả hoạt động của chính quyền địa phương ở cơ sở.


Cán bộ cơng chức “Là công bộc của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân
dân”. Mặt trận và các tổ chức thành viên có trách nhiệm giám sát tất cả mọi hoạt
động của cán bộ, công chức và thông qua giám sát, Mặt trận và các tổ chức thành
viên sẽ phát hiện những việc làm sai trái, những hành vi vi phạm pháp luật của cán
bộ, công chức, kịp thời kiến nghị đến các cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Đại biểu Quốc hội, Đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp hàng năm phải báo
cáo trước cử tri về việc thực hiện nhiệm vụ của mình, Đại biểu Quốc hội bầu trong
một tỉnh, thành phố thành lập đoàn đại biểu Quốc hội, để giữ mối liên hệ chặt chẽ
với cơ quan chính quyền địa phương, Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc các cấp, Đại biểu
quốc hội các vấn đề liên quan đến Đại biểu Quốc hội. Nếu đại biểu Quốc hội có thể
khơng hồn thành nhiệm vụ của mình thì Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam hoặc
cử tri đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định bãi nhiệm đại biểu Quốc hội
tại kỳ họp Quốc hội.
Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam thông qua hoạt động giám sát của mình
đã góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng và củng cố chính
quyền, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Mặt trận và các tổ chức thành viên vận động các tầng lớp nhân dân tham gia
các phong trào quần chúng, cùng Nhà nước thực hiện các chương trình phát triển
kinh tế - xã hội nhanh, bền vững.


Để nhân dân phát huy quyền làm chủ của mình và thực thi pháp luật, hiểu
biết pháp luật thì Mặt trận và các tổ chức thành viên phải tổ chức tuyên truyền, đưa
các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân.
Phối hợp với các cơ quan liên quan thực hiện có hiệu quả việc thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở, thực hiện các chính sách vay vốn xóa đói giảm nghèo, các
chính sách dân tộc, tơn giáo…
Mặt trận và các tổ chức thành viên thường xuyên tổ chức những cách làm
hay, những mơ hình lớn để nhân rộng trong phạm vi cả nước, đặc biệt là các phong
trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động như người Việt Nam ưu tiên dùng hàng

Việt Nam, cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới ở khu dân
cư… nhằm xóa bỏ những hủ tục lạc hậu và xây dựng đất nước ngày càng văn minh.

1.2. Nội dung giám sát của Ủy ban MTTQ Việt Nam
Tại khoản 2, Điều 26 Luật Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam sửa đổi năm
2015 quy định “Nội dung giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam là
việc thực hiện chính sách, pháp luật có liên quan đến quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của nhân dân, quyền và trách nhiệm của Ủy ban Mặt trận Tổ
Quốc Việt Nam” .
Tại khoản 2, Điều 4 quy chế giám sát quy định “ Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam giám sát việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước (trừ những vẫn đề thuộc bí mật quốc gia) của cơ
quan, tổ chức và cá nhân”.
Tại khoản 2, Điều 26 Luật Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam sửa đổi năm
2015 và tại khoản 2, Điều 4 quy chế giám sát. Quyết định số 217/QĐ-TW
ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị quy định phạm vi giám sát rộng hơn 2 văn
bản trên.
Giám sát xã hội có nội dung rất rộng, liên quan đến tất cả những lĩnh
vực, những vấn đề của đời sống cộng đồng (giai cấp, dân tộc, quốc gia): Từ


khâu hoạch định đường lối, chính sách, pháp luật đến khâu tổ chức thực hiện;
từ lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đến an ninh, quốc phịng; từ đối
nội đến đối ngoại; từ tổ chức bộ máy, con người đến công việc của con người
và bộ máy; từ tầm vĩ mô đến trung, vi mô.
Ở nước ta hiện nay, nội dung này đã được Đảng Cộng sản Việt
Nam đề
cập trong các văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X, XI và XII.
1.3. Trình tự, thủ tục giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt
Nam

Căn cứ các cơ sở pháp lý của các văn bản như: Thông tri số 23/TTr-MTTWBTT ngày 21/07/2017; Nghị quyết liên tịch số 403 ngày 15/6/2017; Luật Mặt trận
Tổ Quốc Việt Nam 2015... quy định trình tự, thủ tục giám sát của Ủy ban Mặt trận
Tổ Quốc Việt Nam.
Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam các cấp giám sát bằng hình thức tổ chức
đồn giám sát được thực hiện theo các bước sau:
Bước 1: Xây dựng kế hoạch giám sát, thu thập thông tin, tài liệu chuẩn bị cho
công tác giám sát
Căn cứ vào Khoản 2, Điều 6 Nghị quyết liên tịch số 403. Ủy ban Mặt trận Tổ
Quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên cùng cấp tiến hành xây dựng kế hoạch
thành lập đoàn giám sát; căn cứ vào nội dung, đối tượng, phạm vi cần giám sát, Ủy
ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên cùng cấp mời các cơ
quan liên quan đến nội dung cần giám sát để làm thành viên đồn giám sát, nội dung
được gíam sát và kế hoạch giám sát gửi cho thành viên tham gia đồn giám sát
nghiên cứu trước.
Sau đó các thành viên tham gia đoàn giám sát và Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc
Việt Nam và các tổ chức thành viên cùng cấp căn cứ vào nội dung, phạm vi và đối
tượng cần được giám sát, tiến hành nghiên cứu kỹ các văn bản, nghị quyết liên quan
đến nội dung cần được giám sát; thu thập thông tin, tài liệu, ý kiến, kiến nghị của


nhân dân, tiến hành tổng hợp, theo dõi trên các phương tiện thơng tin đại chúng để
trang bị cho mình kiến thức, kỹ năng trong quá triền tiến hành giám sát.
Bước 2. Ban hành và thông báo quyết định thành lập đoàn giám sát
Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên cùng cấp ban
hành quyết định thành lập đoàn giám sát dựa trên kế hoạch giám sát của mình.
Chậm nhất là 15 ngày, Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam và các tổ chức
thành viên cùng cấp tiến hành gửi kế hoạch giám sát, quyết định thành lập đoàn
giám sát và nội dung cần được giám sát cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân được
giám sát.
Trước 7 ngày đoàn giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam và các

tổ chức thành viên cùng cấp tiến hành giám sát, thì các cơ quan, tổ chức, cá nhân
được giám sát phải gửi báo cáo bằng văn bản cho đoàn giám sát.
Bước 3. Đoàn giám sát làm việc với các cơ quan, tổ chức, cá nhân được giám
sát
Tại Điều 8, Nghị quyết liên tịch số 403 ngày 15/6/2017, quy định rõ thủ tục,
trình tự của đồn giám sát làm việc với các cơ quan, tổ chức.
Trong quá trình giám sát, thành viên đoàn giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ
Quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên cùng cấp nếu có phát hiện ra những sai
phạm, những hành vi vi phạm pháp luật của đối tượng được giám sát, kịp thời báo
cáo với cơ quan có thẩm quyền giải quyết, xử lý, uốn nắn những sai phạm, để góp
phần bảo vệ Đảng, bảo vệ nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng
của nhân dân.
Bước 4. Báo cáo kết quả giám sát và kiến nghị sau giám sát.
Tại Điều 9, Nghị quyết liên tịch số 403 ngày 15/6/2017 quy định rõ báo cáo
kết quả giám sát và kiến nghị sau gíam sát.
Bước 5. Theo dõi, đơn đốc việc giải quyết kiến nghị sau giám sát


Việc đôn đốc, theo dõi các kiến nghị sau giám sát là khâu cuối cùng và là
khâu quan trọng nhất trong quá trình giám sát xã hội của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc
Việt Nam và các tổ chức thành viên cùng cấp.
Qua theo dõi, nếu thấy các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền chưa trả lời các ý
kiến, kiến nghị của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên
cùng cấp, trong quá trình tổ chức gíam sát thì Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam
và các tổ chức thành viên cùng cấp có thể kiến nghị lên cấp trên trực tiếp của cơ
quan có thẩm quyền, để trả lời các kiến nghị hoặc chỉ đạo các cơ quan cấp dưới phải
xem xét giải quyết. Ngoài ra, Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam và các tổ chức
thành viên cùng cấp có thể phản ánh các ý kiến, kiến nghị đó vào thơng báo Mặt
trận tham gia xây dựng chính quyền tại các kỳ họp Hội đồng nhân dân gần nhất.


1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến giám sát của Ủy ban MTTQ Việt
Nam
1.4.1. Yếu tố chính trị
Để phát huy vai trò của Mặt trận và các tổ chức thành viên thì cơng tác
giám sát là một hoạt động quan trọng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của nhân dân, góp phần nâng cao vi thế của Mặt trận Tổ Quốc Việt
Nam và các tổ chức thành viên, qua giám sát sẽ phát hiện được những ưu thế,
chỉ ra những khuyết điểm, kiến nghị cấp có thẩm quyền sửa chữa, khắc phục,
bổ sung vào những chủ trương, chính sách, qua đó phát huy được quyền làm
chủ của nhân dân, tạo dựng được niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà
nước.
Để thực hiện tốt công tác giám sát của mình, Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc
Việt Nam phải phối hợp tốt với các tổ chức thành viên cùng cấp, đảm bảo
công tác giám sát của Mặt trận và các tổ chức thành viên phải khách quan,
công khai, minh bạch đối với các cơ quan, tổ chức hặc cá nhân, không làm
ảnh hưởng đến hoạt động hàng ngày của các cơ quan, tổ chức, cá nhân và


×