Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Tiểu luận triết 1 bản cuối official

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.77 KB, 20 trang )

Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Khoa Luật

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề Tài 4:
Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thức theo quan niệm
duy vật biện chứng; Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận
và tập vận dụng xử lí tình huống thực tế

Họ Và Tên: Nguyễn Thị Kim Hường.
Mã SV:

11192348.

Lớp:

Triết Học Mác- Lênin (119)-17, (Học Tại A2-511)

Hà Nội – 2019
1


2


PHẦN MỞ ĐẦU
Lịch sử thế giới đã trải qua bao cuộc đấu tranh sinh tồn để phát triển. Cũng từ các
cuộc đấu tranh đó mà nhân loại đã có những bước tiến quan trọng qua những bậc thang
của thời đại, từ thuở loài người bắt đầu xuất hiện để trở thành con người văn minh như
ngày nay. Trong quá trình phát triển ấy, con người đã tích lũy được những tư tưởng có
giá trị đóng góp vào kho tàng tư tưởng của thế giới. Dựa trên cơ sở những giá trị, những


tư tưởng đó và tổng kết thời đại, triết học đặc biệt chủ nghĩa Mac-Lênin hình thành và
phát triển. Chủ nghĩa Mac Lênin bao hàm nội dung rộng lớn mang những giá trị khoa
học và thực tiễn. Trong đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng là hạt nhân lí luận của triết
học Mac Lênin. Xem xét sự vật hiện tượng dưới góc độ của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, Ăng-ghen viết: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện
đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”. Mặt khác, mối quan hệ giữa tư duy và
tồn tại (hay vật chất và ý thức) có vai trị quan trọng đối với công cuộc xây dựng đất
nước, giúp con người tập vận dụng xử lý sáng tạo một số tình huống thực tiễn góp phần
phát triển kinh tế, xã hội...
Với mong muốn tìm hiểu thêm về vấn đề này, em đã chọn đề tài: “Phân tích
mối quan hệ giữa vật chất và ý thức theo quan niệm duy vật biện chứng; Từ đó
rút ra ý nghĩa phương pháp luận và tập vận dụng xử lí tình huống thực tế.” Do
thời gian có hạn và kiến thức bản thân cịn hạn chế cho nên bài viết sẽ không thể tránh
khỏi nhiều thiếu sót. Vậy kính mong sự góp ý của thầy giáo cùng toàn thể bạn đọc.
Em xin chân thành cảm ơn !

3


PHẦN NỘI DUNG

I.. Lí luận chung về mối quan hệ vật chất và ý thức.
Để hiểu rõ về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, trước tiên ta phải

tìm hiểu phạm trù vật chất và ý thức.
1..Phạm trù vật chất và ý thức.
1.1..Phạm trù vật chất:
a.. Định nghĩa vật chất.
Các nhà duy vật trước Mác đã có nhứng quan điểm về vật chất nhưng cịn hạn chế.
Họ đồng nhất vật chất với vật thể có khối lượng, có quảng tính. Thời cổ đại, thuyết Ngũ

Hành của triết học Trung Quốc quan niệm “kim, mộc, thủy, hỏa, thổ “là những tố chất
vật chất xây dựng nên thế giới. Ở Hy Lạp, vật chất đầu tiên cuả thế giới theo quan điểm
của Talet là nước, theo Aniximen là khơng khí, Heraclit cho rằng đó là lửa, cịn
Đêmocrit khẳng định đó là nguyên tử. Các nhà duy vật thế kỉ XVII cho rằng nguyên tử
là đơn vị nhỏ nhất không thể chia nhỏ, là những viên gạch đầu tiên xây nên vật chất.
Đây là quan niệm siêu hình vì nếu như vậy thì thế giới khơng phải là vơ cùng mà có
giới hạn, có khởi đầu từ những nguyên tử đồng nhất, bất biến.
Cuối thế kỉ XIX, khoa học kỹ thuật phát triển, các thành tựu khoa học ra đời đã
bác bỏ những quan điểm của các nhà duy vật trước Mac: Beccoren phát hiện ra tia
phóng xạ (năm 1896), Tômson phát hiện ra điện tử (1897), phát hiện ra hạt Quắc (năm
1964)... Trên cơ sở ra đời của các phát minh khoa học đó, Lênin khẳng định: “ Vật chất
là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác, được cảm giác chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm
giác.” Đây là định nghĩa khoa học nhất, hoàn chỉnh nhất của Lênin. Theo định nghĩa
trên, vật chất là phạm trù rộng lớn nhất mà nhận thức luận chưa vượt qua được. Do vậy,
4


chúng ta không thể đồng nhất vật chất với vật thể hay một thuộc tính cụ thể, cũng khơng
thể quy về phạm trù rộng lớn hơn. Vật chất không phải là một lực lượng siêu nhiên tồn
tại lơ lửng ở đâu đó như Chủ nghĩa duy tâm khách quan đã khái niệm. Mà vật chất dùng
để chỉ thực tại khách quan, là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ
thuộc vào ý thức, bất kể sự tồn tại ấy con người nhận thức được hay chưa nhận thức
được. Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi trực tiếp hay gián tiếp tác động
lên giác quan con người, được cảm giác chép lại, chụp lại, phản ánh.

b..Hình thức và phương thức tồn tại của vật chất:
Lênin từng viết: “Trong thế giới khơng có gì ngồi vật chất đang vận động và vật
chất đang vận động khơng ở đâu ngồi khơng gian và thời gian.”
Vận động là phương thức tồn tại, là thuộc tính cố hữu của vật chất. Khác với quan

điểm siêu hình cho rằng vận động là sự di chuyển vị trí cả vật thể trong không gian,
thời gian, nguồn gốc của sự vận động là bên ngoài sự vật hiện tượng. Theo quan điểm
duy vật biện chứng, vận động là mọi sự biến đổi chung. Vật chất tồn tại bằng vận động,
vật chất tồn tại thông qua vận động để biểu hiện sự tồn tại của mình. Vận động của vật
chất là sự tự thân vận động. Vận động của vật chất khơng bao giờ mất đi, chỉ chuyển
hóa từ hình thức vận động này sang hình thức vận động khác. Đứng im là một trạng
thái vận động, đó là sự vận động trong sự thăng bằng, trong sự ổn định tương đối. Như
vậy, đứng im là tương đối, vận động là tuyệt đối.
Khơng gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất. Vật chất luôn vận động
và phát triển, sự vận động khơng đâu khác ngồi “khơng gian và thời gian”. Không gian
và thời gian là thuộc tính khách quan, nội tại, gắn liền với sự vận động của vật chất.
Khơng gian có tính vơ tận và ba chiều, cịn thời gian có tính vĩnh cửu và một chiều. Hai
thuộc tính này khơng thể tách rời nhau.

5


1.2.. Phạm trù ý thức:
a..Nguồn gốc ý thức:
Theo triết học duy vật biện chứng, ý thức của con người là sản phẩm của quá trình
phát triển của cả tự nhiên và lịch sự xã hội.
Nguồn gốc tự nhiên gồm: bộ óc con người và thế giới khách quan.
Bộ óc con người là cơ quan vật chất của ý thức. Hoạt động ý thức của con người
diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lí thần kinh của bộ óc con người. Ý thức không thể
tách rời khỏi hoạt động của bộ óc.
Để bộ óc con người sinh ra được ý thức cần phải có sự tác động của thế giới
khách quan. Mọi vật chất có thuộc tính chung là phản ánh, ý thức là hình thức phản
ánh thế giới hiện thực cao nhất của bộ óc thơng qua mối liên hệ giữa bộ óc với thế giới
khách quan.
Điều kiện cần cho sự ra đời của ý thức là nguồn gốc tự nhiên song vẫn chưa đủ

mà ngôn ngữ và lao động là hai nguồn gốc xã hội quyết định trực tiếp đến sự hình
thành và phát triển của ý thức
Lao động đã sáng tạo ra con người, làm cho con người khác với tất cả các động
vật khác. Lao động giúp con người cải tạo thế giới và hoàn thiện chính mình. Thơng
qua lao đọng, thế giới khách quan tác động nên não người ngày càng phát triển tư duy
trừu tượng.
Ngơn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung của ý thức. Ngơn ngữ cịn
là phương tiện giao tiếp trong xã hội, là phương tiện của tư duy. Nhờ có ngơn ngữ mà
con người tổng kết được thực tiễn, trao đổi thông tin, tri thức từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Ý thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội.

b..Bản chất của ý thức:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng bản chất của ý thức là sự phản ánh hiện
thực khách quan vào trong bộ óc con người một cách năng động sáng tạo. Ý thức là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Ý thức ra đời trong quá trình con người
6


lao động để cải tạo thế giới nên sự phản ánh của ý thức không phải thụ động như sao
chép, chụp ảnh mà có tính năng động, sáng tạo. Theo CácMac và Ăngghen, ý thức
“chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong óc con người và được cải biến
đi trong đó”

c..Bản chất của ý thức:
Tính sáng tạo của ý thức thể hiện rất phong phú. Nếu xét theo bình diện cắt ngang,
ý thức bao gồm tri thức, tình cảm, niềm tin, ước muốn... Trong đó, tri thức là hạt nhân
của ý thức. Còn nếu xét theo chiều sâu của ý thức, ý thức bao gồm tiềm thức, vô thức
và tự ý thức.
Ý thức không chỉ phản ánh bản chất của sự vật mà còn vạch ra quy luật vận động
phát triển của chúng, không chỉ phản ánh hiện thực mà còn sáng tạo hiện thực.


2.. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
Theo chủ nghĩa duy tâm thì ý thức quyết định vật chất. Thuyết nhị tâm một mặt
thừa nhận vật chất là thực tại khách quan, mặt khác thừa nhận ý thức là một khởi nguyên
độc lập không phụ thuộc vào vật chất. Nhà duy tâm chủ quan Beccoli thì cho rằng:
“Tồn tại có nghĩa là bị tri giác”. Ơng coi tồn tại không khách quan, bị tri giác, do cảm
giác sinh ra. Những cái vốn là thực tại khách quan nhưng không được tri giác thì cũng
khơng tồn tại. Khác với quan điểm trên, Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng vật
chất là thực tại khách quan, đối lập với ý thức. Vật chất là tính thứ nhất, cảm giác ý
thức là tính thứ hai. Vật chất là cái được phản ánh còn ý thức là cái phản ánh. Quan
điểm này đã được đề cập tới ngay trong định nghĩa của Lênin về vật chất. Với định
nghĩa này, Lênin đã phân biệt Chủ nghĩa duy vật biện chứng với Chủ nghĩa duy tâm
đồng thời cũng nêu lên mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, giải quyết vấn
đề cơ bản của triết học. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức thể hiện qua
7


vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức và tính độc lập tương đối, sự tác động trở
lại của ý thức đối với vật chất.

2.1. Vật chất quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức:
Trước hết, vật chất quyết định nguồn gốc, nội dung và sự biến đổi, phát triển của ý
thức.
• Về nguồn gốc:
Ý thức là sản phầm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người. Con
người là kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là sản phầm của thế
giới vật chất. Như vậy xét đến cùng, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn
gốc sinh ra ý thức. Theo Cacmac và Angghen, “ý thức cũng là tư duy của chúng ta dù
vẻ siêu cảm giác như thế nào đi chăng nữa cũng chỉ là sản vật của một khí quan vật
chất, nhục thể, tức là bộ óc”.

Bên cạnh bộ óc, thế giới tự nhiên cũng quyết định sự ra đời của ý thức. Nếu có bộ óc
phát triển mà không sống trong thế giới tự nhiên đa dạng phong phú tức là khơng có sự
tác động của thế giới tự nhiên vào bộ não thì ý thức của con người chẳng khác nào lồi
vật, khó nhận thức đầy đủ được.
Lao động và ngôn ngữ là nguồn gốc xã hội của ý thức. Chúng là những dạng tồn tại
của vật chất, cùng với nguồn gốc tự nhiên quyết định sự hình thành, tồn tại, phát triển
của ý thức.
• Về nội dung:
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người, là hình
ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Tất cả những hiện tượng ý thức đều hình thành
trên những điều kiện sống và hoạt động thực tiễn của con người và xã hội loài người.
8


• Sự biến đổi, phát triển của ý thức:
Vật chất là tiền đề cho sự phát triển của ý thức nên khi vật chất thay đổi thì ý thức
thay đổi theo. Ví dụ, những sinh hoạt vật chất thay đổi sẽ làm cho thói quen, tâm lí con
người thay đổi. Hay một người bình thường nếu vì lí do nào đó mà não bị tổn thương
thì hoạt động của ý thức cũng bị rối loạn. Cơ sở vật chất của trường học được nâng cấp
cải tiến thì trình độ dạy vào học cũng được nâng cao.
Bên cạnh đó, vật chất là điều kiện khách quan để thực hóa ý thức tư tưởng. Những
chủ trương, kế hoạch của con người chỉ được thực hiện trên những cơ sở vật chất nhất
định.
Vật chất quyết định tính năng động, sáng tạo của ý thức trong hoạt động thực tiễn.
Do vậy, vật chất quyết định tính phong phú, đa dạng, nhiều vẻ của ý thức.

2.2 Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất:
Nói ý thức là tính thứ hai, Chủ nghĩa duy vật không hề hạ thấp mà hiểu đúng vai
trị thực sự của ý thức. Nói đến vai trị của ý thức là nói đến vai trị của con người vì
ý thức là của con người và bản thân ý thức khơng làm thay đổi gì hiện thực. Ý thức

có tính tương đối tác dụng trở lại đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của
con người. Ý thúc trang bị cho con người tri thức về thực tại khách quan trên cơ sở
ấy con người đề ra phương hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp để
thực hiện mục tiêu làm thay đổi hiện thực. Sự phản ánh của ý thức đối với vật chất
là sự phản ánh tinh thần, sang tạo và chủ động chứ khơng máy móc, ngun xi thế
giới vật chất. Ý thức chỉ phát huy được vai trị của mình khi có sự kết hợp chặt chẽ
giữa nhân tố chủ quan và điều kiện khách quan. Nhiều cơng trình nghiên cứu đã xác
nhận trạng thái tâm lí (vui, buồn, phấn khởi, chán nản,…) ảnh hưởng trực tiếp, mạnh
mẽ đến trạng thái thể lực, tốc độ, năng suất lao động,..
9


Ý thức tác động đến vật chất theo hai hướng chủ yếu:
Nếu ý thức phản ánh đúng điều kiện vật chất, hồn cảnh khách quan thì sẽ thúc
đẩy, tạo sự thuận lợi cho sự phát triển của đối tượng vật chất. Trong trường hợp này, ý
thức có tác động trở lại tích cực đối với thực tiến, đặc biệt là sự tác động của khoa học,
lí luận. Đây là cơ sở quan trọng cho việc xác định mục tiêu, phương hướng và biện
pháp chính xác trong hành động và thực tiễn.
Ngược lại, nếu ý thức phản ánh sai lệch hiện thực sẽ làm cho hoạt động của con
người không phù hợp với quy luật khách quan và kìm hãm sự phát triển của vật chất.
Tức là ý thức đã có tác động tiêu cực đối với thực tiễn. Khi con người không nhận thức
đúng, không hiểu rõ sự việc hiện tượng thì họ sẽ hành động sai và thường chịu những
thất bại trong cược sống.
Ví dụ, thuyết nhật tâm phản ánh đúng thế giới sẽ giúp khoa học phát triển. Còn
thuyết địa tâm của Aristot coi Trái Đất là trung tâm của vũ trụ đã kìm hãm sự phát triển
của thế giới vật chất, làm cho “loài người ngủ trong giấc ngủ triền miên của những
đêm dài trung cổ”
Vì vậy, con người phải thừa nhận tính khách quan của vật chất, thừa nhận quy luật
tự nhiên của xã hội để phát huy tính năng động của ý thức, nhận thức đúng sự vật hiện
tượng. Thế giới vật chất với những thuộc tính, quy luật của nó tồn tại khách quan không

phụ thuộc vào ý thức con người nên trong hoạt động thực tiến phải xuất phát từ thực tế
khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho hoạt động của mình.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vừa có tình tuyết đối vừa có tính tương đối.
Vật chất quyết định ý thức là tuyệt đối. Nhưng trong một số trường hợp cụ thể hoặc
trong một giai đoạn ngắn, ý thức lại quyết định vật chất. Mác chỉ rõ lí luận sẽ trở thành
lực lượng vật chất khi nó thâm nhập vào quần chúng.
10


Biểu hiện của mối quan hệ giữa vật chất váy thức trong đời sống xã hội là quan
hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó tồn tại xã hội quyết định ý thức xã
hội có tính độc lập tương đối tác động trở lại tồn tại xã hội. Ngoài ra, mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức còn là cơ sở để xem xét các mối quan hệ như chủ thể và
khách thể, lí luận và thực tiễn, điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan…

II. Ý nghĩa phương pháp luận:
Lênin đã chỉ ra rằng, sự đối lập giữa vật chất và ý thức có nghĩa tuyệt đối trong
phạm vi hết sức hạn chế. Trong trường hợp này, chỉ giới hạn trong vấn đề nhận thức
luận cơ bản là thừa nhận cái gì có trước và cái gì có sau. Ngồi giới hạn đó thì khơng
cịn nghi ngờ gì nữa sự đối lập đó chỉ là tương đối. Như vậy, để phân ranh giới chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, để xác định bản tính và thống nhất của thế giới,
cần có sự đối lập tuyệt đối giữa vật chất và ý thức trong khi trả lời câu hỏi cái nào có
trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào. Không như vậy sẽ lẫn lộn hai đường
lối cơ bản trong triết học, lẫn lộn vật chất với ý thức và cuối cùng sẽ xa dời quan điểm
duy vật. Song sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ là tương đối nếu như chúng ta xét
chung như là những nguyên tố, những mặt không thể thiếu được trong hoạt động của
con người, đặc biệt là hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới của con người. Bởi vì, ý thức
tự nó khơng thể cải biến được sự vật, khơng có khả năng tự biến thành hiện thực.
Nhưng thông qua hoạt động thực tiễn của con người, ý thức có thể cải biết được tự
nhiên, thâm nhập vào sự vật, hiện thực hố những mục đích mà nó đề ra cho hoạt động

của mình. Điều này bắt nguồn từ chính ngay bản tính phản ánh sáng tạo và xã hội của
ý thức và chính nhờ bản tính đó mà chỉ có con người có ý thức mới có khả năng cải
biến và thống trị tự nhiên, biến tự nhiên xa lạ, hoang dã, thanh tự nhiên trù phú, sinh
động, tự nhiên của con người. Như vậy, tính tương đối trong sự đối lập giữa vật chất
và ý thức thể hiện ở tính độc lập tương đối, tính năng động của ý thức. Mặt khác, đời
11


sống con người là sự thống nhất không thể tách rời giữa đời sống vật chất và đời sống
tinh thần trong đó những nhu cầu tinh thần ngày càng phong phú và đa dạng và những
nhu cầu vật chất cũng bị tinh thần hố. Khẳng định tính tương đối của sự đối lập giữa
vật chất và ý thức khơng có ý nghĩa là khẳng định rằng cả hai nhân tố có vai trị như
nhau trong đời sống và hoạt động của con người. Trái lại, triết học Mac-Lênin khẳng
định rằng, trong hoạt động của con người, những nhân tố vật chất và ý thức có tác động
qua lại, song sự tác động đó diễn ra trên cơ sở tính thứ nhất của nhân tố vật chất so với
tính thứ hai của nhân tố ý thức.
Trong hoạt động của con người, những nhu cầu vật chất xét đến cùng bao giờ cũng
giữ vai trò quyết định, chi phối và qui định hoạt động của con người vì nhân tố vật chất
qui định khả năng các nhân tố tinh thần có thể tham gia vào hoạt động của con người,
tạo điều kiện cho nhân tố tinh thần hoặc nhân tố tinh thần khác biến thành hiện thực và
qua đó qui định mục đích chủ trương biện pháp mà con người đề ra cho hoạt động của
mình bằng cách chọn lọc, sửa chữa bổ sung, cụ thể hố mục đích, chủ trương, biện pháp
đó. Hoạt động nhận thức của con người bao giờ cũng hướng đến mục tiêu để biến tự
nhiên nhằm thoả mãn nhu cầu cuộc sống, hơn nữa, cuộc sống tinh thần của con người
xét đến cùng bị chi phối và phụ thuộc vào việc thoả mãn nhu cầu vật chất và vào những
điều kiện vật chất hiện có. Khẳng định vai trò cơ sở, quyết định trực tiếp của nhân tố
vật chất, triết học Mác- Lênin đồng thời cũng không coi nhẹ vai trị của nhân tố tinh
thần, của tính năng động chủ quan. Nhân tố ý thức có tác dụng trở lại quan trọng đối
với nhân tố vật chất. Hơn nữa, trong hoạt động của mình con người khơng thể để cho
thế giới khách quan, quy luật khách quan chi phối mà chủ động hướng nó đi theo con

đường có lợi của mình. Ý thức con người khơng thể tạo ra các đối tượng vật chất, cũng
không thể thay đổi qui luật vận động của nó. Do đó, trong quá trình hoạt động của mình,
con người phải tuân theo quy luật khách quan và chỉ có thể đề ra những mục đích, chủ
trương trong phạm vi hồn cảnh vật chất cho phép.
12


Vì vật chất quyết định ý thức nên trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải tôn trọng
khách quan, nhận thức và hoạt động theo đúng quy luật khách quan.
Vì ý thức tác động trở lại vật chất nên cần phát huy tính năng động chủ quan, đặc
biệt phát huy vai trò của tri thức, khoa học, chú ý giáo dục và nâng cao nhận thức cho
con người. Mác nói: “Cố nhiên vũ khí phê phán khơng thể thay thế sự phê phán bằng
vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh bại bởi lực lượng vật chất nhưng lí luận
một khi thâm nhập được vào quần chúng thì sẽ trở thành lực lượng vật chất”.
Chống quan điểm duy ý chí, tuyệt đối hóa vai trị của ý thức mà hạ thấp, đánh giá
khơng đúng vai trị của các điều kiện vật chất. Đó là hành động lấy ý chí áp đặt thực tế,
lấy ảo tưởng thay cho hiện thực. Bệnh chủ quan duy ý chí là do sự yếu kém về trình độ
nhận thức nói chung và sự hạn chế trong quá trình áp dungjlis luận vào thực tiễn nói
riêng. Đó là “sự mù quáng chủ quan”, là sai lầm tự phát dẫn đến rơi vào chủ nghĩa duy
tâm một cách không tự giác. Chúng ta cũng khơng nên tuyệt đối hóa vai trị của vật
chất trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Nghĩa là chống lại “chủ nghĩa khách
quan” thái độ thụ động trông chờ ỷ lại vào điều kiện vật chất.
Đảm bảo tính thống nhất biện chứng giữa tính khách quan và chủ quan trong hoạt
động của con người cũng là một yếu tố quan trọng trong quá trình nhận thức.

III.. Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào xử lí,
giải quyết sáng tạo một số tình huống thực tế:
Để giải quyết sáng tạo những tình huống trong thực tế chúng ta cần phải làm như
thế nào ? Đó là cần phải biết kết hợp giữa các điều kiện khách quan và nhân tố chủ
quan trên cơ sở khách quan; phát huy sáng tạo chủ quan trên cơ sở điều kiện khách

quan. Sau đây là một số tình huống thực tế giúp chúng ta có thể tập vận dụng những
ngun lí nói trên vào thực tiễn cuộc sống.
13


1..Tình huống bán lược cho sư:
Có một cơng ty chun sản xuất và cung cấp lược cho thị trường. Cần tuyển một
nhân viên làm công việc khai thác khách hàng. Có 3 ứng viên tham gia, tình huống hội
đồng tuyển dụng đặt ra trong phạm vi 10 ngày, ai khai thác được hợp đồng có giá trị
cao nhất sẽ được tuyển dụng. Với điều kiện khách hàng là một vị sư trụ trì tại một ngơi
chùa do cơng ty xác định.
Sau 10 ngày có 3 cách làm, 3 kết quả:
Ứng viên 1: Thuyết phục nhà sư mua lược để ông chải đầu. Kết quả: khơng có hợp
đồng
Ứng viên 2: Thuyết phục nhà sư mua lược để ở phòng khách nhà chùa để khách đến
chùa sử dụng trước khi hành lễ. Kết quả bán được 10 chiếc.
Ứng viên 3: Thuyết phục nhà sư mua lược để làm kỉ vật tặng cho khách đến chùa. Kết
quả: Bán được 1000 chiếc (lần 1)
Yêu cầu: Hãy bình luận sự đúng hoặc sai về tư duy của 3 cách làm trên ?
Nếu bạn là ứng viên thứ 4, bạn sẽ suy nghĩ và dự kiến phương án nào để
thuyết phục nhà sư với kết quả cao hơn ?
Cách giải quyết tình huống trên theo em như sau:


Cách tư duy của ứng viên thứ nhất sai vì ở chùa các nhà sư đã xuống tóc, làm gì
có nhu cầu sử dụng lược để chải; mà khơng có nhu cầu thì làm sao bán được hàng;
Đây là kiểu người bán hàng cổ điển. Đối với ứng viên thứ hai, Anh chàng này có
năng lực quan sát, suy đốn sự việc xung quanh. Chúng ta khơng nên nhìn thiển
cận vấn đề mà phải mở tầm nhìn sâu rộng, biết quan sát để tìm lối ra cho vấn đề.
Tìm những yếu tố tác động tới khách hàng mà ở đây cụ thể là nhà sư để tìm giải

pháp. Phải luôn dám nghĩ – dám làm. Trong kinh doanh, không phải là mình bán
14


sản phẩm gì, khơng phải ý tưởng của mình có phù hợp với nhu cầu hay không mà
điểm mấu chốt là cách thức mình bán hàng như thế nào? Cịn ứng viên thứ ba, anh
ta nghiên cứu phân tích kỹ nhu cầu và tâm lý của đám đơng, có ý tưởng tốt, lại có
giải pháp cụ thể nên đã mở ra một thị trường tốt cho sản phẩm – lược. Rõ ràng, ở
một nơi tưởng như khơng có nhu cầu, nếu chịu khó quan sát, phân tích các mối
quan hệ, sẽ có thể phát hiện nhu cầu hoặc tìm cách kích cầu để bán hàng, khai thác
và triển khai kế hoạch tốt.
❖ Nếu em là ứng viên thứ 4, thì em sẽ kí hợp đồng bán lược với nhà sư thêm vào
đó sẽ kết hợp với nhà chùa kêu gọi những nhà từ thiện mua lược có khắc chữ
“Lược tích thiện” với giá cao, cao hơn nhiều lần và mua lược với số lượng lớn để
nhà chùa dùng tiền bán lược ấy để tu sửa chùa, giúp cho các bạn nhỏ ở chùa có
điều kiện học hành tốt hơn. Thêm vào đó, những nhà từ thiện sẽ mang về cho mình
được món q thật ý nghĩa.

2.. Tình huống trồng đậu (Mơ hình sáng tạo trong xử lí tình huống thiếu
điều kiện khách quan )
Bài toán: Cho 10 hạt đậu, yêu cầu trồng 4 luống song song với nhau sao cho khi
nghiệm thu đảm bảo mỗi luống đủ 3 hàng.
Quy trình giải bài toán gồm các bước:
Bước 1: Đọc kỹ đề để biết đề cho điều kiện gì và yêu cầu gì ? (Kết hợp điều kiện khách
quan và chủ quan). Có thể thấy điều kiện khách quan bao gồm: 10 hạt đậu và không bị
giới hạn thời gian; điều kiện chủ quan: không bị giới hạn những kiến thức mà chúng ta
có thể dùng khi xử lí tình huống trên.
Từ đây chúng ta sẽ vận dụng những điều kiện trên để đáp ứng yêu cầu đề bài là
4 luống mỗi luống có 3 hàng. Việc lên ý tưởng và lập phương án rất quan trọng. Chúng
ta sẽ lựa chọn phương án tốt nhất trong tất cả các phương án đề ra cho bài toán.

15


Bước 2: Chứng minh tính khả thi của việc giải quyết tình huống:
➢ Khả năng 1:Yếu tố khách quan, chủ quan đầy đủ để giải bài tốn hay khơng ?
Lập luận: Theo yêu cầu bài toán:
Sản phẩm sau khi nghiệm thu phải là phương án trồng 4 luống song song, mỗi
luống 3 hàng,...
Vậy số hạt cần có để đáp ứng nhu cầu trên là: 3 * 4= 12 (hạt)
Điều kiện khách quan chỉ có 10 hạt, vậy số nguồn lực cịn thiếu là:12-10=2 (hạt)
Nếu khơng có thêm 2 hạt thì bài tốn khơng có tính khả thi và khơng thể giải
được.
➢ Khả năng 2: Tiến hành vận dụng phương pháp luận triết học để xây dựng các phương
án, biến bài tốn chưa có tính khả thi thành có tính khả thi.
Bằng cách: Xuất phát từ yếu tố chủ quan, phát huy yếu tố ấy trong điều kiện khách
quan đã có để tạo ra đủ điều kiện khách quan. ( Hạn chế rủi ro)
Theo em, có thể làm theo cách sau: Do thời gian hồn thành bài tốn là khơng giới
hạn; vậy nên trong 10 hạt đậu đã cho em dùng kiến thức về cây trồng để nhân số lượng
hạt lên bằng phương pháp gieo trồng: lấy ra 4-5 hạt để trồng thành cây sau đó sẽ lấy
những hạt giống mới nảy mầm. Sở dĩ chọn 4-5 hạt để vừa đảm bảo nguồn lực khách
quan là thêm 2 hạt và hạn chế rủi ro nhất có thể nếu khơng may có hạt sẽ không nảy
mầm.
Bước 3: Tiến hành gieo trồng 4-5 hạt và thu hoạch tối thiểu thêm 2 hạt đậu mới. Trồng
4 luống song song, mỗi luống 3 hàng như yêu cầu bài toán.

16


PHẦN KẾT LUẬN
Nói tóm lại, vật chất bao giờ cũng đóng vai trị quyết định đối với ý thức, nó là cái

có trước ý thức, nhưng ý thức lại tác động trở lại vật chất. Mối quan hệ tác động qua
lại này chỉ được thực hiện thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Chúng ta nâng
cao vai trò của ý thức với vật chất chính là ở chỗ nâng cao năng lực nhận thức các quy
luật khách quan và vận dụng các quy luật khách quan trong hoạt động thực tiễn của con
người.
Trong quá trình làm bài, em cịn gặp phải nhiều sai sót, mong nhận được sự bổ
khuyết từ phía thầy giáo phụ trách bộ mơn Triết Học Mác- Lênin (119)-17 để em có
điều kiện hồn thiện hiểu biết về cả lí luận và thực tiễn, rút kinh nghiệm cho những bài
làm tiếp theo. Em xin chân thành cảm ơn !

TƯ LIỆU THAM KHẢO
[1]. Trang 17, 18 - Giáo trình Những ngun lí cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lê nin (Nhà
xuất bản chính trị quốc gia)
[2]. C.Mác và Ph.Ăngghen. Tồn tập, t.21. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.
528.
[3]. />[4]. />[5]. Cơng cụ tìm kiếm :
17


18


19




×