Tải bản đầy đủ (.docx) (118 trang)

luận văn thạc sĩ bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật từ thực tiễn thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.65 KB, 118 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
***

DIỆP THẾ DÂN

BẢO ĐẢM QUYỀN LÀM VIỆC CỦA NGƯỜI
KHUYẾT TẬT TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

DIỆP THẾ DÂN

BẢO ĐẢM QUYỀN LÀM VIỆC CỦA NGƯỜI
KHUYẾT TẬT TỪ THỰC TIỄN THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và luật hành chính
Mã số: 8.38.01.02

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Bùi Nguyên Khánh


THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và
được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả

Diệp Thế Dân


MỤC LỤC

Mở đầu
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN LÀM
VIỆC CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT
1.1. Khái niệm, đặc điểm bảo đảm quyền làm việc của người
khuyết tật
1.2. Cơ chế quốc tế bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật
1.3. Cơ chế quốc gia về bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật
Tiểu kết chương 1
Chương 2
THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN LÀM VIỆC CỦA NGƯỜI
KHUYẾT TẬT TỪ THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH GIAI ĐOẠN 2015 - 2019
2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến bảo đảm quyền làm việc của người
khuyết tật từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh
2.2. Kết quả, hạn chế trong bảo đảm quyền làm việc của người

khuyết tật từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
2.3. Nguyên nhân hạn chế trong bảo đảm quyền làm việc của người
khuyết tật từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
Tiểu kết chương 2


Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN LÀM
VIỆC CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
3.1. Phương hướng bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật từ


thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh
3.2. Giải pháp bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật từ thực
tiễn thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay
Tiểu kết chương 3

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Người khuyết tật được coi là một trong những nhóm người dễ bị tổn thương
nhất. Vì tình trạng khuyết tật nên họ phải chịu những thiệt thòi trên tất cả phương
diện của đời sống xã hội, như sức khỏe kém hơn, học vấn thấp hơn, mức độ tham
gia kinh tế ít hơn và nghèo khổ hơn, so với những người không khuyết tật.
Trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, phát huy truyền thống
nhân ái của dân tộc, Đảng, Nhà nước và xã hội luôn quan tâm chăm sóc và giúp đỡ

những người yếu thế trong xã hội, trong đó có người khuyết tật. Cương lĩnh xây
dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991 sửa đổi 2011) đã chỉ rõ:
"Chăm lo đời sống những người cao tuổi, neo đơn, khuyết tật, mất sức lao động và
trẻ mồ côi" [18, tr .23]. Hiến pháp năm 2013, Điều 59, khoản 2 quy định: "Nhà
nước tạo bình đẳng về cơ hội để cơng dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ
thống an sinh xã hội, có chính sách trợ giúp người cao tuổi, người khuyết tật, người
nghèo và người có hồn cảnh khó khăn khác”.
Để giúp người khuyết tật có thể vượt qua được những khó khăn, do khiếm
khuyết của cơ thể, hịa nhập cộng đồng, ngồi các chính sách xã hội giúp người
khuyết tật ổn định cuộc sống như: Trợ cấp xã hội, bảo hiểm y tế, giáo dục… thì việc
hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi trong giải quyết việc làm cho người khuyết tật, đóng
vai trị vơ cùng quan trọng giúp họ tự tin vươn lên ổn định cuộc sống. Đây là, một
trong những giải pháp không chỉ mang lại hiệu quả thiết thực mà cịn thể hiện tính
nhân văn sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với đối tượng yếu thế, thiệt thịi gặp
nhiều khó khăn trong cuộc sống.
Năm 2010 được đánh dấu là năm bước ngoặt trong công tác chăm sóc người
khuyết tật bằng việc ra đời Luật Người khuyết tật. Luật Người khuyết tật là sự kế
thừa của Pháp lệnh về Người tàn tật năm 1998. Ngoài ra, Nhà nước cịn có các Nghị
định, Thơng tư, hướng dẫn trong cơng tác chăm sóc người khuyết tật như: Nghị định
số 28/2012/NĐ-CP ngày 10/4/2012 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật người khuyết tật, trong đó quy định rõ về việc làm cho người


khuyết tật, Thông tư số 37/2012/ TTLT-BLĐTBXH-BYT-BTC-BGDĐT thông tư
liên tịch quy định về việc xác định mức độ khuyết tật do hội đồng xác định mức độ
khuyết tật thực hiện…
Tuy nhiên, quyền làm việc của người khuyết tật tại Việt Nam nói chung và
thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, chưa được quan tâm đúng mức, một số người
khuyết tật mặc dù đã qua đào tạo, có kỹ năng tay nghề nhưng vẫn khơng có việc làm
hoặc bị từ chối nhận vào làm việc, dẫn đến lãng phí nguồn lao động, tạo thêm gánh

nặng cho phúc lợi xã hội. Một phần do quan niệm xã hội luôn xem thường người
khuyết tật, khơng có khả năng lao động, một số người sử dụng lao động chưa nhận
thức được năng lực của người khuyết tật (những đặc điểm hơn hẳn người bình
thường như chăm chỉ, tận tuỵ, làm việc hết mình…) và chiến lược sắp xếp và sử
dụng người lao động khuyết tật. Mặt khác, các chính sách hỗ trợ, khuyến khích,
tuyên truyền của Nhà nước chưa thực sự hiệu quả, cộng với tâm lý tự ti của chính
bản thân người khuyết tật đã tạo thành rào cản rất lớn trong việc làm.
Từ những luận giải trên, vận dụng những kiến thức đã được học cùng với thực
tiễn công tác tại địa phương, học viên chọn đề tài "Bảo đảm quyền làm việc của
người khuyết tật từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh", để nghiên cứu trong phạm
vi

luận văn thạc sĩ, chun ngành luật Hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu
Đảm bảo quyền con người là một trong những nội dung quan trọng đã được

các ngành và nhiều tổ chức, cá nhân quan tâm nghiên cứu. Đặc biệt, từ khi Ban Bí
thư khóa X ban hành Chỉ thị số 44-CT/TW, ngày 20/7/2010 về cơng tác nhân quyền
trong tình hình mới đã có rất nhiều cơng trình khoa học đề cập đến việc đảm bảo
quyền con người nói chung và đảm bảo quyền của người khuyết tật nói riêng, cụ thể
như sau:
*Các cơng trình là đề tài, dự án, báo cáo nghiên cứu:
- "Hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn
thương" của Hồng Thị Kim Quế.


-

"Báo cáo khảo sát về Đào tạo nghề và Việc làm cho người khuyết tật tại Việt


Nam" của Tổ chức Lao động Quốc tế đã cung cấp một cách nhìn riêng cho phụ nữ
khuyết tật, Chính phủ Việt Nam chú trọng nhiều đến hòa nhập, đào tạo nghề, việc
làm và phát triển doanh nghiệp.
- "Báo cáo thường niên về hoạt động hỗ trợ người khuyết tật Việt Nam" của
Ban Điều phối các hoạt động hỗ trợ người tàn tật Việt Nam NCCD.
- "Báo cáo nghiên cứu về người khuyết tật ở Việt Nam, một số kết quả chủ
yếu" của Quỹ Dân số Liên hợp Quốc.
*

Các cơng trình nghiên cứu trong phạm vi luận văn, luận án

- Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Thị Báo: "Hoàn thiện pháp luật về quyền của
người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay" năm 2008 [4].
-

"Việc làm cho người khuyết tật theo pháp luật Việt Nam hiện hành” của

Nguyễn Bích Ngọc [28].
-

"Pháp luật về việc làm cho người khuyết tật từ thực tiễn Thành phố Hà Nội"

của Dương Thị Chung [12].
- "Pháp luật về việc làm cho người khuyết tật" của Hồ Thị Trâm [51].
*

Các cơng trình nghiên cứu đã xuất bản thành sách, đăng trên các tạp

chí chuyên ngành:
-


"Bảo trợ xã hội cho những nhóm thiệt thịi ở Việt Nam" của Lê Bạch Dương,

Đặng Nguyên Anh, Khuất Thu Hồng, Lê Hoài Trung và Robert Leroy Bach [16].
- "Luật người khuyết tật" của Hà Đình Bốn [8].
-"Bảo đảm việc làm và thu nhập cho người khuyết tật" của Đinh Thị Cẩm

[21].
- "Bảo đảm quyền lao động của người khuyết tật" của Ngọc Điệp [20].
-

"Thực trạng các quy định về việc làm đối với người khuyết tật ở Việt Nam

hiện nay" của Hồng Kim Khun [22].
-

"Chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp của thương binh và người khuyết

tật: Còn nhiều bất cập" của PV [30]. Bài viết đánh giá Doanh nghiệp "tàn nhưng
khơng phế" đó là tên gọi mà giới doanh nhân Việt Nam đặt cho doanh nghiệp của


thương binh và người khuyết tật với bao tình cảm trân trọng và khâm phục. Bởi lẽ,
lực lượng lao động trong loại hình doanh nghiệp này thiệt thịi đủ thứ: vừa yếu về
sức khỏe, thiếu về vốn và kiến thức... so với lực lượng lao động bình thường trong
xã hội, song họ lại có nghị lực kiên cường dám vượt lên số phận.
-

"Bảo đảm quyền lao động và việc làm của người khuyết tật ở Việt Nam và


việc gia nhập Công ước 159 của ILO" của Trần Thái Dương [17]. Bài viết phân tích
khái niệm về quyền lao động và việc làm, bảo đảm quyền lao động và việc làm của
người khuyết tật; chính sách và việc thực hiện chính sách bảo đảm quyền lao động
và việc làm của người khuyết tật; việc gia nhập Công ước 159 (Công ước về Phục
hồi chức năng lao động và Việc làm của người khuyết tật) của Tổ chức Lao động
quốc tế; nêu một số ý kiến đề xuất, kiến nghị bảo đảm quyền lao động và việc làm
của người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay.
-

"Thực trạng các quy định về việc làm đối với người khuyết tật ở Việt Nam

hiện nay" của Hồng Kim Khun [22].
Như vậy, có thể thấy, các cơng trình nghiên cứu về quyền của người khuyết
tật, pháp luật về quyền lao động việc làm của người khuyết tật khá phong phú, đã
khái quát một cách có hệ thống các vấn đề bảo đảm quyền của người khuyết tật
dưới góc nhìn quyền con người. Kết quả nghiên cứu này sẽ là tài liệu bổ ích cho tác
giả tham khảo, kế thừa trong quá trình nghiên cứu đề tài của luận văn. Tuy nhiên,
chưa có cơng trình nào nghiên cứu cụ thể về đề tài: "Bảo đảm quyền làm việc của
người khuyết tật trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh", do đó đề tài nghiên cứu của
luận văn là mới, không trùng lặp với các đề tài đã được cơng bố.
3.

Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của Luận văn là nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
về bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật; phân tích, đánh giá thực trạng bảo
đảm quyền làm việc của người khuyết tật từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh; để từ
đó đề xuất các phương hướng, giải pháp bảo đảm quyền làm việc của người khuyết
tật ở thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới.



3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau đây:
Một là, nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền
làm việc của người khuyết tật;
Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng bảo đảm quyền làm việc của người
khuyết tật tại thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2015-2020;
Ba là, đề xuất các phương hướng, giải pháp bảo đảm quyền làm việc của
người khuyết tật ở thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới.
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Dưới góc độ pháp luật về quyền con người, đề tài chỉ tập trung
nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn bảo đảm quyền làm việc của người
khuyết tật trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay. Chỉ tập
trung nghiên cứu, đánh giá dựa trên nội dung bảo đảm quyền làm việc của người
khuyết tật theo quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia; không đánh
giá theo cơ chế bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật.
Về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng bảo đảm quyền làm việc
của người khuyết tật trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Về thời gian: Số liệu cập nhật để phân tích thực trạng bảo đảm quyền làm việc
của người khuyết tật trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2015 đến năm
2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Liên hợp quốc, quan điểm của Đảng, Nhà


nước Việt Nam về quyền con người, quyền của người khuyết tật và quyền làm việc
của người khuyết tật.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận
văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phân tích, tổng hợp, thống kê, so
sánh, khảo cứu tài liệu, … Đồng thời, luận văn kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên
cứu, số liệu phân tích của các cơng trình khoa học đã được công bố.
6.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu

6.1. Ý nghĩa khoa học
Luận văn nghiên cứu một cách tồn diện có hệ thống những vấn đề lý luận và
thực tiễn về bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật trên địa bàn thành phố
Hồ Chí Minh từ năm 2015 đến nay. Từ đó, Luận văn góp phần làm phong phú thêm
những vấn đề lý luận về quyền làm việc của người khuyết tật.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
-

Luận văn cung cấp thêm kiến thức, thông tin, luận điểm và đề xuất các giải

pháp mới có giá trị tham khảo cho lãnh đạo Thành phố Hồ Chí Minh trong q trình
thực hiện trách nhiệm bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh.
-


Luận văn có thể được sử dụng làm nguồn tài liệu tham khảo cho việc giảng

dạy, nghiên cứu chuyên ngành pháp luật hiến pháp về quyền con người tại Học viện
Khoa học và xã hội, tại các cơ sở đào tạo, nghiên cứu khác.
7.

Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm có 3 chương, 08 tiết.


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN LÀM VIỆC
CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM BẢO ĐẢM QUYỀN LÀM VIỆC CỦA
NGƯỜI KHUYẾT TẬT
1.1.1. Khái niệm bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật
1.1.1.1. Khái niệm người khuyết tật
Trên thế giới hiện nay có hai quan điểm về vấn đề khuyết tật. Theo quan điểm
thứ nhất, cho rằng khuyết tật là ở chính sự phát triển tự nhiên về thể chất của con
người đó, hoặc khơng quan tâm đến các yếu tố về môi trường xã hội xung quanh họ
(mơ hình khuyết tật dưới góc độ y tế). Ngược lại, quan điểm thứ hai cho rằng,
khuyết tật là một sản phẩm của xã hội, bắt nguồn từ việc môi trường vật thể và môi
trường xã hội không đáp ứng được những nhu cầu của từng cá nhân hoặc các nhóm
đối tượng cụ thể (mơ hình xã hội).
Từ hai quan điểm nêu trên, việc phân loại quốc tế về khiếm khuyết, khuyết tật
và tàn tật xuất bản đầu tiên vào năm 1980 bởi Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã có
một sự phân biệt quan trọng giữa khiếm khuyết và hai hình thức khác của tình trạng

khiếm khuyết được gọi là khuyết tật và tàn tật [55]. Theo đó, khuyết tật là bất kỳ
giới hạn hoặc mất chức năng bắt nguồn từ sự khiếm khuyết làm ngăn cản việc thực
hiện một hoạt động trong khoảng thời gian được coi là bình thường của một người;
tàn tật là tình thế bất lợi xuất phát từ sự khiếm khuyết hoặc khuyết tật hạn chế thực
hiện một vai trò được coi là bình thường đối với tuổi tác, giới tính và các yếu tố xã
hội và văn hóa.
Tại Khoản 1, Điều 1 Công ước số 159 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về
phục hồi chức năng và việc làm (người khuyết tật) năm 1983 có định nghĩa về
người có khuyết tật như sau: "Người khuyết tật dùng để chỉ một cá nhân mà khả
năng có một việc làm phù hợp, trụ lâu dài với cơng việc đó và thăng tiến với nó bị


giảm sút đáng kể do hậu quả của một khiếm khuyết về thể chất và tâm thần được
thừa nhận" [48].
Theo Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật được Đại hội đồng Liên
hợp quốc thông qua ngày 13/3/2007: Người khuyết tật bao gồm những người có
khiếm khuyết lâu dài về thể chất, tâm thần, trí tuệ hoặc giác quan mà khi tương tác
với những rào cản khác nhau có thể phương hại đến sự tham gia hữu hiệu và trọn
vẹn của họ vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác [26].
Như vậy, Theo Cơng ước quốc tế về quyền của người khuyết tật thì khái niệm
người khuyết tật được hiểu là một khái niệm mở, có sự tiến triển theo thời gian và
điều kiện xã hội, là kết quả của sự tương tác giữa những người có khiếm khuyết và
những rào cản về thái độ và mơi trường mà ở đó hạn chế sự tham gia một cách đầy
đủ và có hiệu quả vào các hoạt động trên cơ sở bình đẳng với các thành viên khác
trong xã hội. Mặc dù, vẫn còn những quan điểm khác nhau về những thuộc tính cấu
thành khái niệm "người khuyết tật", tuy nhiên, đây là lần đầu tiên có một định nghĩa
về "người khuyết tật" được xác định trong luật nhân quyền quốc tế. Điều này có ý
nghĩa lớn trong việc thúc đẩy và bảo vệ các quyền của người khuyết tật.



nước ta, khái niệm về người khuyết tật trước đây chưa có sự thống nhất và

tồn tại song song 2 cụm từ "người khuyết tật" và "người tàn tật". Từ năm 2009 thì
mới có sự thống nhất gọi chung là "người khuyết tật" trên các phương tiện thông tin
đại chúng và trong các văn bản pháp luật.
Theo Luật Người khuyết tật năm 2010 khái niệm người khuyết tật được hiểu là
người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng
được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn
[38]. Đây là khái niệm tương đối toàn diện về lao động khuyết tật, khắc phục những
bất cập trong khái niệm lao động khuyết tật trước đây. Khái niệm này thuận lợi cho
xây dựng các mục tiêu hỗ trợ về mặt vật chất hoặc tài chính cho lao động khuyết tật,
hoặc người sử dụng lao động khuyết tật. Điều này mang lại ý nghĩa to lớn, giúp cho
việc hoạch định chính sách và thực hiện chính sách đối với lao động khuyết tật được
hiệu quả. Như vậy, khái niệm người khuyết tật được xây dựng phụ


thuộc rất nhiều vào mục tiêu mà luật hoặc các chính sách pháp luật của mỗi nước
theo đuổi, tiêu chí xác định khuyết tật, yếu tố văn hóa, điều kiện về kinh tế, xã hội.
Có thể thấy cho đến nay, các nước trên thế giới khơng có một định nghĩa
chung nhất về người khuyết tật. Tuy nhiên, từ phân tích nêu trên có thể đưa ra khái
niệm người khuyết tật như sau: Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc
nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng dẫn đến những hạn chế trong việc
tham gia vào các hoạt động của đời sống xã hội trên cơ sở bình đẳng về quyền và
nghĩa vụ với những chủ thể khác.
1.1.1.2. Khái niệm quyền làm việc
Quyền làm việc hay quyền có việc làm, quyền được làm việc là một yếu tố cơ
bản bảo đảm sự tồn tại thực tế của con người, đồng thời bảo đảm nhân phẩm và
lòng tự trọng của con người (sống dựa vào năng lực và khả năng của bản thân chứ
không dựa dẫm, ỷ lại vào người khác). Quyền làm việc là nhóm quyền cơ bản trong
Bộ Luật Lao động và là một trong rất nhiều quyền khác của người lao động. Quyền

được làm việc có vị trí rất quan trọng, vì quyền được làm việc là cốt lõi để thực hiện
các quyền con người khác và tạo nên một phần quan trọng không thể tách rời tự
nhiên của nhân phẩm. Quyền làm việc chính là tiền đề, điều kiện quan trọng để thực
hiện các quyền khác của người lao động nói riêng và các quyền của con người nói
chung, như quyền về nhà ở, quyền về giáo dục, văn hoá... Chỉ khi quyền làm việc
được đảm bảo thực hiện, thì các quyền khác của con người mới có ý nghĩa.
Theo pháp luật quốc tế, tại Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948
đã ghi nhận: Ai cũng có quyền được làm việc, được tự do lựa chọn việc làm, được
hưởng những điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi và được bảo vệ chống thất
nghiệp; Cùng làm việc ngang nhau, mọi người được trả lương ngang nhau, không
phân biệt đối xử; Người làm việc được trả lương tương xứng và công bằng, đủ để
bảo đảm cho bản thân và gia đình một đời sống xứng đáng với nhân phẩm, và nếu
cần, sẽ được bổ sung bằng những biện pháp bảo trợ xã hội khác [24].
Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội năm 1966 cũng xác
định các yếu tố của quyền có việc làm: Các quốc gia thành viên Công ước này thừa


nhận quyền làm việc, trong đó bao gồm quyền của tất cả mọi người có cơ hội kiếm
sống bằng cơng việc do họ tự do lựa chọn hoặc chấp nhận, và các quốc gia phải thi
hành các biện pháp thích hợp để đảm bảo quyền này; Các quốc gia thành viên Công
ước phải tiến hành các biện pháp để thực hiện đầy đủ quyền này, bao gồm triển khai
các chương trình đào tạo kỹ thuật và hướng nghiệp, các chính sách và biện pháp kỹ
thuật nhằm đạt tới sự phát triển vững chắc về kinh tế, xã hội và văn hố, tạo cơng ăn
việc làm đầy đủ và hữu ích với điều kiện đảm bảo các quyền tự do cơ bản về chính
trị và kinh tế của từng cá nhân."; "Các quốc gia thành viên Công ước thừa nhận
quyền của mọi người được hưởng những điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi,
đặc biệt đảm bảo: Thù lao cho tất cả mọi người làm công tối thiểu phải đảm bảo: (i)
Tiền lương thoả đáng và tiền công bằng nhau cho những cơng việc có giá trị như
nhau, khơng có sự phân biệt đối xử nào; đặc biệt, phụ nữ phải được đảm bảo những
điều kiện làm việc không kém hơn đàn ông, được trả công ngang nhau đối với

những công việc giống nhau, (ii) Một cuộc sống tương đối đầy đủ cho họ và gia
đình họ phù hợp với các quy định của Công ước này; Những điều kiện làm việc an
toàn và lành mạnh; Cơ hội ngang nhau cho mọi người trong việc được đề bạt lên
chức vụ thích hợp cao hơn, chỉ cần xét tới thâm niên và năng lực làm việc; Sự nghỉ
ngơi, thời gian rảnh rỗi, giới hạn hợp lý số giờ làm việc, những ngày nghỉ thường kỳ
được hưởng lương cũng như thù lao cho những ngày nghỉ lễ [25].
So với quyền của người lao động thì quyền làm việc hẹp hơn nhưng lại là một
quyền cơ bản nhất, quan trọng nhất, bởi vì quyền làm việc chính là tiền đề, điều
kiện quan trọng để thực hiện các quyền khác của người lao động nói riêng và các
quyền của con người nói chung, như quyền về nhà ở, quyền về giáo dục, văn hoá...

Việt Nam, quyền làm việc được ghi nhận là quyền làm việc trong
Hiến pháp
năm 1959: Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hồ có quyền làm việc. Nhà
nước dựa vào sự phát triển có kế hoạch của nền kinh tế quốc dân, dần dần mở rộng
công việc làm, cải thiện điều kiện lao động và lương bổng, để bảo đảm cho cơng
dân được hưởng quyền đó [25].


Hiến pháp năm 1980: Lao động là quyền, nghĩa vụ và vinh dự hàng đầu của
cơng dân; Cơng dân có quyền có việc làm. Người có sức lao động phải lao động
theo quy định của pháp luật; Nhà nước dựa vào kế hoạch phát triển kinh tế và văn
hoá mà tạo thêm việc làm, sắp xếp công việc căn cứ vào năng lực, nguyện vọng cá
nhân và yêu cầu của xã hội, nâng cao trình độ nghề nghiệp, bồi dưỡng sức lao động,
không ngừng cải thiện điều kiện làm việc của lao động chân tay và lao động trí óc;
Nhà nước quy định và bảo đảm thực hiện các chế độ nhằm đề phòng tai nạn lao
động và bệnh nghề nghiệp [34].
Hiến pháp năm 1992 quy định: "Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân.
Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao động"
[35]. Hiến pháp năm 2013: "Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những

ngành nghề mà pháp luật khơng cấm" [36].
Cơng dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc;
người làm công ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc cơng bằng, an tồn;
được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi; nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao
động, sử dụng nhân công dưới độ tuổi lao động tối thiểu [39], [40].
1.1.1.3. Quyền làm việc của người khuyết tật
Quyền làm việc là một trong những quyền cơ bản của quyền con người,
Quyền làm việc của người khuyết tật là tiền đề tạo ra cơ hội và động lực cho
người khuyết tật tìm kiếm việc làm, có cơ hội khẳng định bản thân, tự lập trong
cuộc sống, tạo ra thu nhập để khơng phải dựa dẫm vào gia đình, người thân. Do vậy,
đảm bảo việc làm cho người khuyết tật được ghi nhận trong Công ước quốc tế và
trong pháp luật quốc gia.
Tại Điều 27 Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật quy định rõ:
Các quốc gia thành viên công nhận quyền được làm việc của người khuyết tật,
trên cơ sở bình đẳng với người khác; trong đó bao gồm cả quyền có cơ hội kiếm
sống bằng một công việc được tự do lựa chọn hoặc chấp nhận trong thị trường lao
động và môi trường làm việc mở, hòa nhập và dễ tiếp cận đối với người khuyết tật
[26].


Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), cần thiết phải ban hành chính sách việc
làm nhằm đảm bảo cho người khuyết tật được tiếp cận với cơ hội việc làm và
nghiêm cấm phân biệt đối xử vì lí do khuyết tật. Ngồi ra, cũng theo tổ chức này thì
người sử dụng lao động phải có trách nhiệm nhận người khuyết tật vào làm việc.

Việt Nam, vấn đề việc làm và đảm bảo quyền làm việc cho người
khuyết tật
được Nhà nước và xã hội coi trọng, quan tâm thích đáng. Các quy định của Luật
Người khuyết tật năm 2010 đã nhấn mạnh Nhà nước cần tạo điều kiện để người
khuyết tật có việc làm và làm việc phù hợp với sức khoẻ, đặc điểm khuyết tật của

người khuyết tật (Điều 33), khuyến khích các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp
nhận người khuyết tật vào làm việc. Nếu doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động là
người khuyết tật được hưởng chính sách ưu tiên hơn. Mặt khác, Nhà nước cịn tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp sử dụng từ 30% tổng số lao động trở lên là người
khuyết tật được hỗ trợ cải tạo điều kiện, môi trường làm việc, được miễn thuế thu
nhập cá nhân, được vay vốn với lãi suất ưu đãi, được ưu tiên cho thuê đất, mặt bằng,
mặt nước… Ngoài ra, để đảm bảo cho người khuyết tật có cuộc sống và việc làm
phù hợp, Luật còn quy định thành lập quỹ hỗ trợ việc làm cho người khuyết tật. Đây
là quỹ xã hội từ thiện với mục tiêu huy động nguồn lực trợ giúp người khuyết tật.
Quỹ được hỗ trợ từ nguồn ngân sách nhà nước hoặc từ các cá nhân, tổ chức trong và
ngoài nước đóng góp hoặc từ các khoản thu khác.
Năm 2012, sửa đổi năm 2019, Bộ luật Lao động một lần nữa khẳng định việc
làm và đảm bảo việc làm cho người khuyết tật là nhiệm vụ quan trọng, trong đó:
"Nhà nước bảo trợ quyền lao động, tự tạo việc làm của lao động là người khuyết tật,
có chính sách khuyến khích và ưu đãi người sử dụng lao động tạo việc làm và nhận
lao động là người khuyết tật vào làm việc, theo quy định của Luật Người khuyết tật"
(khoản 1 Điều 176) [39], [40].
Như vậy, quyền làm việc là quyền thiêng liêng, cao quý của con người, đã
được cộng đồng quốc tế và các quốc gia công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm.
Đối với người khuyết tật, quyền làm việc lại càng có ý nghĩa quan trọng hơn, bởi lẽ
nếu quyền này được tôn trọng và bảo đảm thì mới tạo ra cơ hội thực tế để người


khuyết tật có thể tiếp cận, hồ nhập, bình đẳng với mọi người trong cộng đồng xã
hội. Việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền lao động và việc làm của
người khuyết tật phải được thực hiện theo nguyên tắc mọi người đều bình đẳng
trước pháp luật, khơng phân biệt đối xử, đồng thời có sự hỗ trợ, điều chỉnh hợp lý
đối với người khuyết tật.
1.1.1.4. Bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật
Theo Từ điển Tiếng Việt, "bảo đảm là làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ

gìn được hoặc có đầy đủ những gì cần thiết" [52, tr.36]. Quyền làm việc của mọi
người trong đó có người khuyết tật thuộc nhóm quyền kinh tế, xã hội và là quyền
hiến định. Điều 14, Hiến pháp năm 2013 quy định: "Ở nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế,
văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, đảm bảo theo Hiến pháp và pháp
luật" [41].
Quyền Hiến định về việc làm của người khuyết tật ở Việt Nam đã được ghi
nhận và cụ thể hóa trong hệ thống pháp luật. Cùng với Luật Người khuyết tật
(2010), Bộ luật Lao động (2012, sửa đổi 2019), Nhà nước đã ban hành nhiều văn
bản quy phạm pháp luật như Luật Giáo dục nghề nghiệp (2014), Luật Việc làm
(2013), Luật An toàn, vệ sinh lao động (2015)...đều ghi nhận, bảo đảm quyền làm
việc của người khuyết tật. Nhà nước cũng đã triển khai những đề án, kế hoạch nhằm
trợ giúp người khuyết tật trong tiếp cận việc làm. Có thể kể đến một số văn bản
quan trọng như Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” (được
phê duyệt theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 1956/QĐ-TTg ngày
27/11/2009; Đề án “Trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012 – 2020” (được phê
duyệt theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 1019/QĐ-TTg ngày 5/8/2012);
Chỉ thị của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội số 3930/BLĐTBXH-TCDN ngày
21/10/2014 về nâng cao hiệu quả và chất lượng trong thực hiện mục tiêu dạy nghề
và tạo việc làm cho người khuyết tật ...
Bên cạnh đó, Nhà nước áp dụng các biện pháp để đưa chính sách, pháp luật
được thực thi trong thực tiễn như tổ chức tuyên truyền, phổ biến các quy định pháp


luật và chính sách đã được ban hành; về quyền và nghĩa vụ của người khuyết tật,
người sử dụng lao động là người khuyết tật, các bên có liên quan được pháp luật
quy định; các dịch vụ hỗ trợ về việc làm và cách thức tìm kiếm việc làm…để người
khuyết tật quyết định phương thức làm việc phù hợp như tự tạo việc làm hoặc tham
gia vào các quan hệ lao động bằng hình thức tuyển dụng…
Từ phân tích trên, dưới góc độ quyền con người có thể hiểu: Bảo đảm quyền

làm việc của người khuyết tật là trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong việc tạo ra các tiền đề, điều kiện về chính trị, pháp lý, kinh tế, xã hội, văn hóa
và tổ chức thực hiện để người khuyết tật có cơ hội bình đẳng để tiếp cận, thụ hưởng
đầy đủ quyền làm việc theo quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia.
Như vậy, bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật trước hết thuộc về
trách nhiệm của Nhà nước phải tạo ra các điều kiện và môi trường phù hợp để người
khuyết tật có cơ hội tiếp cận, hưởng thụ quyền làm việc của mình một cách bình
đẳng, khơng bị phân biệt đối xử.
1.1.2. Đặc điểm, ý nghĩa của bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật
1.1.2.1. Đặc điểm bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật
Thứ nhất, bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật là trách nhiệm của
Nhà nước và xã hội.
Nhà nước có vai trò hết sức quan trọng trong việc định hướng nghề nghiệp và
tạo việc làm cho người khuyết tật, bởi họ cũng là công dân, là lực lượng lao động
của xã hội. Bộ luật Lao động còn quy định Nhà nước thực hiện bảo trợ quyền lao
động, tự tạo việc làm của người lao động khuyết tật.
Nhà nước có nghĩa vụ thúc đẩy việc tuyển dụng người khuyết tật trong các
khu vực công, tạo ra những cơ hội tự tạo việc làm của người khuyết tật, hỗ trợ việc
tiếp cận việc làm của họ ở khu vực tư nhân, bảo đảm có những sự điều chỉnh hợp lý
với người khuyết tật ở nơi làm việc, bảo vệ người khuyết tật khỏi bị lao động cưỡng
bức, bóc lột hay bị bóc lột sức lao động...
Ngoài trách nhiệm của Nhà nước, đảm bảo việc làm cho người khuyết tật còn
là trách nhiệm của toàn xã hội.


Pháp luật quy định các cơ quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân không
được từ chối tuyển dụng người khuyết tật có đủ điều kiện vào làm việc hoặc hạn chế
cơ hội làm việc của họ bằng cách đặt ra tiêu chuẩn tuyển dụng trái pháp luật; có
trách nhiệm bố trí, sắp xếp cơng việc, đảm bảo mơi trường và điều kiện làm việc
phù hợp đối với lao động là người khuyết tật; phải tham khảo ý kiến lao động là

người khuyết tật trước khi quyết định những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích
của họ.
Các tổ chức giới thiệu việc làm có trách nhiệm tư vấn, giới thiệu việc làm cho
người khuyết tật. Bên cạnh đó, các cơ sở sản xuất kinh doanh nếu có từ 30% trở lên
tổng số lao động là người khuyết tật thì được hỗ trợ cải tạo điều kiện, mơi trường
làm việc phù hợp, được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp, được vay vốn với lãi suất
ưu đãi theo dự án phát triển sản xuất, kinh doanh; được ưu tiên cho thuê đất, mặt
bằng, mặt nước và miễn, giảm tiền thuê đất, mặt bằng, mặt nước phục vụ sản xuất
kinh doanh theo tỷ lệ lao động là người khuyết tật, mức độ khuyết tật của người lao
động và quy mô doanh nghiệp. Doanh nghiệp có sử dụng từ 10 người khuyết tật trở
lên làm việc ổn định sẽ được hưởng ưu đãi về cải tạo điều kiện, môi trường làm
việc; ưu đãi về vay vốn ưu đãi theo dự án phát triển kinh doanh từ ngân hàng chính
sách xã hội. Các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp sử dụng từ 10 người khuyết
tật trở lên làm việc ổn định được hưởng chính sách về cải tạo điều kiện, môi trường
làm việc…
Thứ hai, bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật bao hàm sự bảo đảm cả
về mặt thể chế và về mặt thực tế


Việt Nam, trong thời gian qua Nhà nước ta cũng đã ban hành nhiều văn bản

quy phạm pháp luật như Luật Người khuyết tật (2010), Bộ luật Lao động (2012,sửa
đổi 2019), Luật Giáo dục nghề nghiệp (2014), Luật Việc làm (2013), Luật Xây dựng
(2014), Luật Giao thông đường bộ (2008), Luật Bảo hiểm y tế (2008, sửa đổi bổ
sung năm 2014), Luật An toàn, vệ sinh lao động (2015)...đều ghi nhận việc đảm bảo
quyền làm việc của người khuyết tật. Trên cơ sở pháp luật ghi nhận về quyền làm
việc của người khuyết tật, Nhà nước bảo trợ quyền lao động, tự tạo việc làm


của người khuyết tật, khuyến khích và ưu đãi người sử dụng lao động tạo ra việc

làm và nhận người lao động khuyết tật vào làm việc.
Bên cạnh việc thiết lập một hành lang pháp lý, để hiện thực hóa trong thực tế
Nhà nước cũng đã xây dựng và thực hiện nhiều chính sách, chương trình kinh tế xã hội nhằm thúc đẩy việc bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật, trong đó
tập trung vào việc phát triển các ngành nghề tại các địa phương, hỗ trợ các doanh
nghiệp, mở rộng hợp tác quốc tế về đào tạo nghề và xuất khẩu lao động như Đề án
đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020 (Quyết định số 1956/QĐ-TTg
ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ); Đề án trợ giúp người khuyết tật giai
đoạn 2012 - 2020 (Quyết định số 1019/QĐ-TTg ngày 5/8/2012 của Thủ tướng
Chính phủ); Chỉ thị của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội số 3930/BLĐTBXHTCDN ngày 21/10/2014 về nâng cao hiệu quả và chất lượng trong thực hiện mục
tiêu dạy nghề và tạo việc làm cho người khuyết tật...
Thứ ba, đảm bảo người khuyết tật có cơ hội tiếp cận, hưởng thụ quyền làm
việc của mình một cách bình đẳng thực chất, khơng bị phân biệt đối xử.
Người khuyết tật có những thiệt thịi hơn so với người bình thường trong hoạt
động nghề nghiệp bởi những khó khăn mà họ phải gánh chịu do những khiếm
khuyết về thể chất hoặc tinh thần. Vì vậy, nếu hiểu "đối xử bình đẳng" hay "khơng
phân biệt đối xử" theo nghĩa đối xử cào bằng giữa người khuyết tật với người bình
thường sẽ dẫn đến khơng những máy móc trong nhận thức và hành động mà cịn tạo
ra sự bất bình đẳng giữa người khuyết tật và người khơng khuyết tật. Ví dụ, khơng
thể giao cho người bị khiếm thính cơng việc trực điện thoại như người người bình
thường, khơng thể giao người bị khiếm thị lái xe như người người bình thường…
Như vậy, người sử dụng lao động phải có những điều chỉnh nhất định nhằm bảo
đảm người lao động là người khuyết tật có khả năng tiếp cận nghề nghiệp, lao động,
cụ thể là:
Sắp xếp lại các vị trí cơng việc theo hướng phân bổ hợp lý cơng việc để người
khuyết tật có thể đảm nhiệm được một hoặc một số vị trí phù hợp với đặc điểm
khuyết tật cá nhân. Trong trường hợp, người lao động vì lý do bệnh tật hoặc tai nạn


mà có khuyết tật thì người sử dụng lao động phân bổ lại công việc nhằm bảo đảm
người lao động là người khuyết tật có thể làm việc được. Ví dụ, phân cơng người

khiếm thính đảm nhận cơng việc nghiên cứu hồ sơ, tài liệu và lập báo cáo, còn vị trí
cơng việc phải giao tiếp với khách hàng dành cho người có khả năng giao tiếp tốt.
Mua sắm, thay đổi, bổ sung các thiết bị, dụng cụ phù hợp với đặc điểm khuyết
tật của lao động là người khuyết tật. Ví dụ, bố trí bàn làm việc thấp cho người lao
động phải ngồi xe lăn, mua sắm máy tính phù hợp với người khiếm thị…
Ban hành, sửa đổi, bổ sung các chính sách, quy tắc lao động trong nội bộ
doanh nghiệp hoặc tổ chức nhằm bảo đảm có những chính sách, quy tắc lao động
phù hợp với đặc điểm riêng của khuyết tật của người lao động. Ví dụ, chính sách về
thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi áp dụng đối với người khuyết tật khơng có khả
năng duy trì cường độ làm việc 8 giờ/ngày.
Cần có người chuyển ngữ trong nội bộ doanh nghiệp hoặc tổ chức nhằm giúp
người sử dụng lao động với người lao động có khuyết tật (khơng có khả năng nói,
nghe, và/hoặc nhìn) cũng như người lao động có khuyết tật (khơng có khả năng nói,
nghe và/hoặc nhìn) với người lao động khác.
Thứ tư, khi tham gia vào quan hệ lao động, ngoài các quyền, nghĩa vụ như mọi
người trong tất cả các lĩnh vực, người khuyết tật cịn được hưởng các chính sách
mang tính chất đặc thù của lao động là người khuyết tật như pháp luật quy định
người lao động là người khuyết tật có đủ 12 tháng làm việc cho một người sử dụng
lao động thì được nghỉ 14 ngày làm việc (thay vì 12 ngày làm việc đối với lao động
là người không khuyết tật); họ không phải làm những công việc nặng nhọc, nguy
hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại theo danh mục công việc nặng nhọc, độc
hại, nguy hiểm do Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội quy định; bị suy giảm khả
năng lao động từ 51% trở lên không phải làm thêm giờ, làm việc ban đêm; được
người sử dụng lao động tổ chức khám sức khỏe định kỳ ít nhất 6 tháng một lần…
1.1.2.2. Ý nghĩa của việc bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật


Thứ nhất, ý nghĩa của việc bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật xuất
phát từ ý nghĩa việc làm và vai trò của mỗi người đối với phát triển kinh tế và xã
hội.

Việc làm có vai trị quan trọng trong đời sống xã hội, nó khơng thể thiếu đối
với từng cá nhân và toàn bộ nền kinh tế, là vấn đề cốt lõi và xuyên suốt trong các
hoạt động kinh tế, có mối quan hệ mật thiết với kinh tế và xã hội, nó chi phối tồn
bộ mọi hoạt động của cá nhân và xã hội.
Đối với từng cá nhân thì có việc làm đi đơi với có thu nhập để ni sống bản
thân mình, vì vậy nó ảnh hưởng trực tiếp và chi phối toàn bộ đời sống của cá nhân.
Việc làm ngày nay gắn chặt với trình độ học vấn, trình độ tay nghề của từng cá
nhân, thực tế cho thấy những người khơng có việc làm thường tập trung vào những
vùng nhất định (vùng đông dân cư khó khăn về điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng,
…), vào những nhóm người nhất định (lao động khơng có trình độ tay nghề, trình
độ văn hố thấp, lao động là người khuyết tật...). Việc khơng có việc làm trong dài
hạn còn dẫn tới mất cơ hội trau dồi, nắm bắt và nâng cao trình độ kỹ năng nghề
nghiệp làm hao mòn và mất đi kiến thức, trình độ vốn có.
Đối với kinh tế thì lao động là một trong những nguồn lực quan trọng, là đầu
vào khơng thể thay thế đối với một số ngành, vì vậy nó là nhân tố tạo nên tăng
trưởng kinh tế và thu nhập quốc dân, nền kinh tế luôn phải đảm bảo tạo cầu và việc
làm cho từng cá nhân sẽ giúp cho việc duy trì mối quan hệ hài hồ giữa việc làm và
kinh tế, tức là ln bảo đảm cho nền kinh tế có xu hướng phát triển bền vững,
ngược lại nó cũng duy trì lợi ích và phát huy tiềm năng của người lao động.
Đối với xã hội thì mỗi một cá nhân, gia đình là một yếu tố cấu thành nên xã
hội, vì vậy việc làm cũng tác động trực tiếp đến xã hội, một mặt nó tác động tích
cực, mặt khác nó tác động tiêu cực. Khi mọi cá nhân trong xã hội có việc làm thì xã
hội đó được duy trì và phát triển do khơng có mâu thuẫn nội sinh trong xã hội,
khơng tạo ra các tiêu cực, tệ nạn trong xã hội, con người được dần hồn thiện về
nhân cách và trí tuệ…Ngược lại khi nền kinh tế không đảm bảo đáp ứng về việc làm
cho người lao động có thể dẫn đến nhiều tiêu cực trong đời sống xã hội và ảnh


hưởng xấu đến sự phát triển nhân cách con người. Con người có nhu cầu lao động
ngồi việc đảm bảo nhu cầu đời sống còn đảm bảo các nhu cầu về phát triển và tự

hồn thiện, vì vậy trong nhiều trường hợp khi khơng có việc làm sẽ ảnh hưởng đến
lòng tự tin của con người, sự xa lánh cộng đồng và là nguyên nhân của các tệ nạn xã
hội. Ngồi ra khi khơng có việc làm trong xã hội sẽ tạo ra các hố ngăn cách giàu
nghèo là nguyên nhân nảy sinh ra các mâu thuẫn và nó ảnh hưởng đến tình hình
chính trị.
Vai trị của việc làm đối với từng cá nhân, kinh tế, xã hội là rất quan trọng. Vì
vậy, để đáp ứng được nhu cầu việc làm của tồn xã hội địi hỏi Nhà nước phải có
những chiến lược, kế hoạch cụ thể đáp ứng được nhu cầu này.
Thứ hai, bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật là một trong những
chính sách quan trọng của mỗi quốc gia và có sự tác động lớn đến sự phát triển kinh
tế và đời sống xã hội. Đối với người khuyết tật, việc làm ln đóng vai trị quan
trọng. Việc làm giúp người khuyết tật có thu nhập để nuôi sống bản thân, ổn định
cuộc sống. Thông qua công việc được làm, người lao động khuyết tật có thể tự
khẳng định về bản thân, khơng phải phụ thuộc vào gia đình, xã hội.
Trước đây, người khuyết tật thường được nhìn nhận dưới góc độ đạo đức, là
đối tượng cần trợ giúp. Thì ngày nay tiếp cận người khuyết tật dưới góc độ về quyền
con người thì họ có đầy đủ các quyền, trong đó có quyền làm việc để tạo ra của cải
vật chất, nuôi sống bản thân, cống hiến cho xã hội. Nếu bảo đảm được quyền làm
việc cho người khuyết tật sẽ góp phần thay đổi nhận thức về khả năng lao động của
người khuyết tật, có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc sống vật chất và tinh thần của
người khuyết tật và gia đình họ.
Bảo đảm quyền làm việc khơng chỉ giúp người khuyết tật có thu nhập, ổn định
đời sống mà điều quan trọng hơn đó là giúp người khuyết tật được hòa nhập với
cộng đồng và tự tin trong cuộc sống.
Trong thực tế đã có rất nhiều trường hợp, dù bản thân khuyết tật nhưng họ vẫn
ý thức được vai trò, vị trí của mình trong xã hội, họ biết tự vươn lên trong cuộc
sống, học tập và lao động như những người khơng khuyết tật khác, thậm chí là tạo



×