HUỲNH HỮU NAM
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HUỲNH HỮU NAM
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA THỪA PHÁT LẠI TỪ
THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CHUYÊN NGÀNH : LUẬT KINH TẾ
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60.38.01.07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:PGS.TS Dương Anh Sơn
KHÓA VI ĐỢT 2-2015
HÀ NỘI - 2017
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HUỲNH HỮU NAM
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA THỪA PHÁT LẠI TỪ
THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60.38.01.07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:PGS.TS Dương Anh Sơn
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các tài liệu và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung
thực. Những kết luận khoa học chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nghiên cứu nào.
TÁC GIẢ
Huỳnh Hữu Nam
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỔ CHỨC THỪA PHÁT LẠI .... 6
1.1. Sơ lược về lịch sử hình thành, phát triển của tổ chức Thừa phát lại ở Việt
Nam ................................................................................................................... 6
1.1.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 ...................................... 6
1.1.2. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến năm 1975.............. 7
1.1.3. Giai đoạn từ năm 1975 đến nay .............................................................. 8
1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hình thành Thừa phát lại.................... 8
1.2.1. Vấn đề công pháp và tư pháp .................................................................. 8
1.2.2. Kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa và chế định Thừa phát lại: ................................................................ 9
1.2.3. Thừa phát lại và sự hội nhập cộng đồng thế giới và khu vực: .............. 10
1.2.4. Tiến trình tái lập tổ chức Thừa phát lại:................................................ 10
1.3. Khái niệm về Thừa phát lại ...................................................................... 12
1.4. Vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của tổ chức Thừa phát lại
trong hoạt động tư pháp hiện nay.................................................................... 13
1.4.1. Về vai trò của tổ chức Thừa phát lại ..................................................... 13
1.4.2. Nhiệm vụ của tổ chức Thừa phát lại ..................................................... 20
1.4.3. Quyền hạn của tổ chức Thừa phát lại ................................................... 21
1.4.4. Trách nhiệm của tổ chức Thừa phát lại................................................. 22
1.5. Hoạt động của tổ chức Thừa phát lại của một số nước trên thế giới ....... 23
1.5.1. Hoạt động của tổ chức Thừa phát lại ở Vương quốc Anh .................... 23
1.5.2. Hoạt động của tổ chức Thừa phát lại ở Cộng hòa Pháp ....................... 24
1.5.3. Hoạt động của tổ chức Thừa phát lại ở Cộng hòa liên bang Đức ......... 26
Kết luận chương 1 ......................................................................................... 28
Chương 2: TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THỪA PHÁT LẠI TẠI
VIỆT NAM..................................................................................................... 29
2.1. Tổ chức Thừa phát lại tại Việt Nam......................................................... 29
2.1.1. Văn phòng Thừa phát lại ....................................................................... 29
2.1.2. Tổ chức bộ máy của Văn phòng Thừa phát lại ..................................... 30
2.1.3. Đoàn Thừa phát lại ................................................................................ 31
2.1.4. Tiêu chuẩn để trở thành Thừa phát lại .................................................. 32
2.2. Các công việc mà Thừa phát lại được làm hiện nay: ............................... 33
2.2.1. Thực hiện việc Tống đạt văn bản theo yêu cầu của cơ quan Tòa án và
cơ quan Thi hành án dân sự ............................................................................ 33
2.2.2. Lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức ...................... 37
2.2.3. Xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của đương sự ................ 40
2.2.4. Trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án theo yêu
cầu của đương sự ............................................................................................. 44
Kết luận chương 2 ......................................................................................... 49
Chương 3: THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG TỪ THỰC TIỄN CỦA
TỔ CHỨC THỪA PHÁT LẠI TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ....... 50
3.1. Thực trạng về hoạt động của Thừa phát lại tại thành phố Hồ Chí Minh 50
3.1.1.Về thực hiện việc tống đạt theo yêu cầu của Tòa án và cơ quan thi hành
án dân sư:......................................................................................................... 51
3.1.2. Về thực hiện lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức: 54
3.1.3. Về thực hiện xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của đương sự
......................................................................................................................... 58
3.1.4. Về thực hiện trực tiếp tổ chức thi hành các bản án quyết định của Tòa
án theo yêu cầu của đương sự ......................................................................... 60
3.2. Những tác động tích cực và hạn chế về hoạt động của tổ chức Thừa phát
lại ..................................................................................................................... 64
3.2.1. Những tác động tích cực về hoạt động của tổ chức Thừa phát lại....... 64
3.2.2. Những hạn chế về hoạt động của tổ chức Thừa phát lại ....................... 68
3.3. Đề xuất một số giải pháp......................................................................... 71
Kết luận chương 3 ......................................................................................... 75
KẾT LUẬN .................................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. .................................................... 78
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây vấn đề xã hội hóa một số hoạt động tư pháp
nói chung và một số công việc thi hành án dân sự nói riêng nhằm góp phần
tăng cường hiệu quả, hiệu lực hoạt động của các cơ quan tư pháp được Đảng
và Nhà nước ta hết sức quan tâm. Để đáp ứng nhu cầu hội nhập sâu rộng vào
nền kinh tế thế giới mà Việt Nam tham gia như: Tổ chức thương mại thế giới
(WTO), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), liên minh châu Âu
(EU), Hiệp định đối tác xuyên thái Bình Dương (TPP),... thì pháp luật của
nước ta cũng phải thay đổi, bổ sung để đáp ứng nhu cầu hội nhập, phù hợp
với thông lệ quốc tế. Khi hội nhập với nền kinh tế quốc tế, sẽ phát sinh rất
nhiều các tranh chấp dân sự cần phải có chứng cứ làm bằng chứng, nhằm bảo
vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng giữa các bên khi có tranh chấp xảy ra ở
Tòa án hoặc Trọng tài thương mại.
Thực tiễn trên thế giới thì Thừa phát lại đã có từ rất lâu và hiện diện ở
phần lớn các quốc gia trên thế giới.
Chế định Thừa phát lại được thực hiện thí điểm bắt đầu từ năm 2010 tại
Thành phố Hồ Chí Minh, sau đó mở rộng đến 12 tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương. Kết quả tổng kết thí điểm cho thấy, chế định Thừa phát lại có ý
nghĩa quan trọng, góp phần thực hiện tốt chủ trương xã hội hóa hoạt động bổ
trợ tư pháp đã được đề ra tại Nghị quyết số 49 – NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm
2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, tạo tiền
đề giảm tải công việc, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của cơ quan
Tòa án, cơ quan Thi hành án dân sự, góp phần thực hiện thành công Nghị
quyết 39 – NQ/TW ngày 17 tháng 4 năm 2015 của Bộ Chính trị về tinh giảm
biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Bên cạnh đó,
hoạt động của Thừa phát lại đã bổ sung nguồn chứng cứ, tạo thêm công cụ
1
pháp lý để người dân bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia
các giao dịch dân sự, kinh tế và trong giải quyết tranh chấp; đồng thời, người
dân cũng có thêm sự lựa chọn phù hợp trong việc yêu cầu thi hành án, quyết
định của Tòa án.
Thành phố Hồ Chí Minh có diện tích tự nhiên 2.094 km2, dân số trên 10
triệu dân, là một thành phố năng động, việc giao dịch dân sự diễn ra rất lớn và
các tranh chấp dân sự cũng tỷ lệ thuận với việc giao dịch dân sự.
Qua nghiên cứu tình hình từ mô hình thí điểm văn phòng Thừa phát lại
đầu tiên, đến năm 2016 thực hiện đề án quy hoạch mạng lưới văn phòng Thừa
phát lại trên địa bàn Thành phố đến năm 2020; hiện tại Thành phố Hồ Chí
Minh có 11 Văn phòng Thừa phát lại hoạt động có hiệu quả. Qua tổng kết
hàng năm của thanh tra Sở Tư pháp cho thấy, vẫn còn nhiều hạn chế trong các
hoạt động về tống đạt, lập vi bằng, xác minh điều kiện thi hành án, tổ chức thi
hành án. Nhằm chỉ ra thực trạng các ưu điểm, hạn chế và đề xuất những giải
pháp mang tính đòn bẩy tạo động lực cho các văn phòng Thừa phát lại phát
triển và hoạt đồng nền nếp, tuân thủ pháp luật đem lại lợi ích cho nhân dân,
giảm tải cho hoạt động của các cơ quan tư pháp, giúp tăng cường công tác
quản lý Nhà nước theo đúng chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về chiến
lược cải cách tư pháp trong tình hình mới. Tiếp cận tình hình nêu trên, đã đặt
ra nhu cầu bức thiết cả về lý luận và thực tiễn cần được nghiên cứu một cách
toàn diện, có hệ thống vấn đề Thừa phát lại tại thành phố Hồ Chí Minh.
Vì vậy, tác giả chọn đề tài “Pháp luật về hoạt động của Thừa phát lại
từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Vấn đề Thừa phát lại đã và đang là mối quan tâm của toàn xã hội, đặc
biệt là những năm gần đây, từ mô hình thí điểm thành công các Văn phòng
Thừa phát lại tại thành phố Hồ Chí Minh, Chính phủ đã ban hành các văn bản
2
pháp luật nhằm triển khai thực hiện, phát triển, nhân rộng các Văn phòng
Thừa phát lại trên toàn quốc. Cụ thể đã triển khai các văn bản dành riêng cho
tổ chức này như: Nghị định 61/2009/NĐ – CP ngày 24 tháng 7 năm 2009 của
Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại
Thành phố Hồ Chí Minh, được sữa đổi bổ sung bởi Nghị định 135/2013/NĐ –
CP ngày 18 tháng 10 năm 2013, các Thông tư, Thông tư liên tịch của các Bộ,
ngành, văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của các cấp, các ngành có liên quan; ngoài
ra còn có các đề tài, luận văn nghiên cứu của thạc sĩ, tiến sĩ; các bài viết, tham
luận đăng trên các tạp chí chuyên ngành sẽ là nguồn tham khảo, hỗ trợ cho
việc thực hiện luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là làm rõ những vấn đề đặc
điểm pháp lý, thực trạng hoạt động, những mặt tích cực, hạn chế, các nguyên
nhân điều kiện,… của Thừa phát lại trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Trên cơ sở đó phân tích đánh giá các quy định của pháp luật, tìm ra những ưu
điểm, hạn chế của các quy định hiện hành, đề xuất, kiến nghị một số giải pháp
nhằm hoàn thiện cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động Thừa phát lại trong
thời gian tới
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về tình hình hoạt động chung của tổ chức Thừa
phát lại tại Việt Nam và tập trung nghiên cứu tình hình trên địa bàn thành phố
Hồ Chí Minh. Qua nghiên cứu các thực trạng, nguyên nhân, điều kiện làm hạn
chế sự phát triển của tổ chức Thừa phát lại, từ đó đề ra các giải pháp, khuyến
nghị cho công tác quản lý về tổ chức Thừa phát lại trên cả nước nói chung và
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
Luận văn tập trung nghiên cứu với góc độ Luật kinh tế, trong đó tập
trung nghiên cứu lĩnh vực tống đạt văn bản, lập vi bằng, xác minh điều kiện
3
thi hành án và trực tiếp tổ chức thi hành bản án của Tòa án và cơ quan Thi
hành án dân sự của Thừa phát lại là chính
Về không gian: Luận văn được nghiên cứu từ tình hình chung của cả
nước và tập trung trên địa thành phố Hồ Chí Minh
V thời gian: Luận văn được nghiên cứu trong khoảng thời gian từ năm
2011 – 2016
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở nguyên tắc quán triệt các chủ trương
đường lối của Đảng , pháp luật của nhà nước về chiến lược cải cách tư pháp.
Quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin và kết hợp các phương pháp thống kê,
phương pháp phân tích so sánh – tổng kết thực tiễn, trao đổi kinh nghiệm thực
tiễn, và sử dụng phép biện chứng duy vật, duy vật lịch sử, nhằm tổng kết,
phản ánh hiện thực các quy định của pháp luật hiện hành về Thừa phát lại và
thực trạng hoạt động của các văn phòng Thừa phát lại trên địa bàn thành phố
Hồ Chí Minh. Từ đó, đánh giá các ưu điểm, hạn chế và đề xuất các giải pháp
về tổ chức Thừa phát lại.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Những kết quả đạt được của luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ thực trạng,
nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh những hạn chế của tổ chức Thừa phát
lại; qua đó tìm ra các giải pháp hữu hiệu để thực hiện một cách tốt nhất, phù
hợp với thực tiễn trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
Những đề xuất kiến nghị của đề tài nhằm khắc phục những hạn chế, bất
cập còn tồn tại, có thể góp một phần nhỏ để các cơ quan lập pháp tham khảo,
xem xét xây dựng những quy định pháp luật về Thừa phát lại ở Việt Nam cho
phù hợp và thúc đẩy sự phát triển tổ chức Thừa phát lại mạnh mẽ hơn nữa
trong tương lai. Ngoài ra đề tài còn có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho việc học tập, nghiên cứu các kiến thức pháp luật về Thừa phát lại.
4
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương cụ thể như sau:
Chương 1. Khái quát chung về tổ chức thừa phát lại
Chương 2. Tổ chức và hoạt động của thừa phát lại tại Việt Nam
Chương 3. Thực trạng về hoạt động từ thực tiễn của tổ chức Thừa
phát lại tại thành phố Hồ Chí Minh
5
Chương 1.
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỔ CHỨC THỪA PHÁT LẠI
1.1. Sơ lược về lịch sử hình thành, phát triển của tổ chức Thừa phát
lại ở Việt Nam
1.1.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng 8 năm 1945
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, khi Vua Tự Đức ký Hòa ước
ngày 05 tháng 6 năm 1862 nhượng cho Pháp 6 tỉnh Nam kỳ. Từ đó người
Pháp đã tổ chức bộ máy cai trị thực dân và áp dụng quy chế về thuộc địa đặt 6
tỉnh Nam kỳ là một hạt, còn mỗi tỉnh là một quận của nước Pháp. Sau đó,
bằng bản Hiệp ước ngày 06 tháng 6 năm 1884, Việt Nam trở thành một nước
bảo hộ của nước Pháp. Người Pháp đặt Thống sứ ở Bắc kỳ và Khâm sứ ở
Trung kỳ đại diện cho chính quyền Pháp. Ở Trung kỳ và Bắc kỳ, nhà Vua vẫn
giữ quyền nội trị. Quyền tư pháp vẫn thuộc về nhà Vua nhưng quyền đó đã bị
hạn chế bởi sự kiểm soát của đại diện chính quyền Pháp. Tuy nhiên, ở giai
đoạn này Bắc kỳ và Trung kỳ chưa có chế định Thừa phát lại. Những công
việc như trát đòi hầu tòa, truyền phiếu,… vẫn do các môn lại, môn vệ (các sứ
giả của Vua) thực hiện. Theo các tài liệu nghiên cứu, thuật ngữ “Thừa phát
lại”, văn bản chính thức đã được ghi nhận trong: “Bộ dân sự tố tụng Việt
Nam” ban hành kèm theo Nghị định ngày 16 tháng 3 năm 1910; Bộ dân luật
Trung kỳ năm 1936 – 1939; Bộ hộ sự, Thương sự tố tụng Trung kỳ năm 1942;
Bộ dân luật Bắc kỳ năm 1917 và Bộ Dân sự tố tụng Bắc kỳ năm 1931; Bộ luật
Dân sự, Thương sự tố tụng năm 1972 của Việt Nam Cộng hòa.
Thuật ngữ “Thừa phát lại” có nguồn gốc từ tiếng Pháp “Huissier”, mô
hình Thừa phát lại được quy định ở các bộ luật nêu trên hầu hết đều theo
khuôn mẫu mô hình của Pháp, thể hiện trong Bộ dân luật Pháp năm 1804 và
Bộ tố tụng dân sự Pháp năm 1807, khi dịch sang tiếng Việt có nghĩa là
“Chưởng tòa”
6
1.1.2. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến năm 1975
Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra
đời, bằng việc ban hành sắc lệnh ngày 10 tháng 10 năm 1945 về việc tạm thời
giữ các luật lệ hiện hành của chế độ cũ với điều kiện những điều khoản trong
các luật này “không trái với nền độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân
chủ cộng hòa”, Quyền Chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng đã ký sắc lệnh số
130/SL ngày 19 tháng 7 năm 1946, tại điều 3 quy định: “Trong các xã, thị xã
hoặc khu phố, Chủ tịch, Phó Chủ tịch và thư ký điều chịu trách nhiệm thi
hành những lệnh, mệnh lệnh hoặc án của các Tòa án. Ban án ấy sẽ tùy từng
việc, chỉ định một nhân viên để giao cho việc thi hành lệnh, mệnh lệnh hoặc
án. Ở những nơi nào đã có Thừa phát lại riêng, thì đương sự có quyền nhờ
Thừa phát lại riêng thi hành án hoặc mệnh lệnh”[5]. Nhiệm vụ quản lý tổ
chức Thừa phát lại thời kỳ này được giao cho ban công lại. Như vậy, những
năm đầu của chính quyền cách mạng, tổ chức thi hành án dân sự ở Việt Nam
tiếp tục được giao cho tổ chức Thừa phát lại đảm nhiệm.
Từ năm 1950 đến năm 1975, là giai đoạn mà trong lĩnh vực thi hành án
dân sự đều phải có những sự kiện pháp lý đặc biệt quan trọng diễn ra cả ở
vùng tự do và vùng bị Pháp tạm chiếm, và từ sau Hiệp định Giơnevơ năm
1954, tại miền Bắc xã hội chủ nghĩa và miền Nam trong những vùng bị Mỹ Ngụy đô hộ. Bằng Sắc lệnh số 85/SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 22
tháng 5 năm 1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng đã bãi bỏ nhiệm
vụ Thừa phát lại và Ban Tư pháp xã làm nhiệm vụ thi hành án mà thay thế
vào đó là Thẩm phán huyện làm nhiệm vụ thi hành án dưới sự chỉ đạo trực
tiếp của Chánh án. Theo đó, tại điều 19 Sắc lệnh số 85/SL quy định: “Thẩm
phán huyện dưới sự kiểm soát của Biện lý có nhiệm vụ đem chấp hành các án
hình về khoản bồi thường hay bồi hoàn và các án hộ, mà chính tòa án huyện
hoặc tòa án trên đã tuyên. Việc phát mại bất động sản và phân phối tiền bán
7
được cũng do tòa án huyện phụ trách…”[6]. Còn ở miền địch tạm chiếm với
hai văn bản pháp lý đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực thi hành án là Nghị
định số 111 ngày 04 tháng 02 năm 1950 về ấn định pháp quy Thừa phát lại do
chính quyền Bảo Đại ban hành và Bộ luật dân sự, thương sự tố tụng ngày 20
tháng 12 năm 1972 do chính quyền Nguyễn Văn Thiệu ban hành đã lấy lại
quyền hạn của Thừa phát lại.
1.1.3. Giai đoạn từ năm 1975 đến nay
Sau 30 tháng 4 năm 1975, nước Việt Nam được hoàn toàn thống nhất
non sông thu về một mối, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội trên toàn quốc.
Về kinh tế, Việt Nam duy trì chế độ tập trung bao cấp với thành phần kinh tế
chủ đạo là kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể. Việc phân chia sản phẩm theo
bình quân đầu người và do Nhà nước thực hiện. Do vậy, yếu tố “cạnh tranh”
theo đúng nghĩa của nó gần như bị triệt tiêu trong hầu hết các mặt của đời
sống xã hội. Các tranh chấp dân sự, kinh tế, thương mại,.. ít có cơ hội phát
sinh hoặc phát sinh không đáng kể và ít phức tạp. Nếu có phát sinh tranh chấp
thì phần lớn những trường hợp đó các cơ quan nhà nước đều can thiệp để nó
được giải quyết giống như là các quan hệ hành chính.
Trong điều kiện như vậy, việc tồn tại các tổ chức cung cấp dịch vụ pháp
lý cho xã hội như: luật sư, công chứng, trọng tài viên, giám định viên hay
thừa phát lại là không có nhiều ý nghĩa trong thời kỳ bấy giờ. Do vậy, có thể
nói sau năm 1975 đến thời điểm năm 1995 khi nước ta xây dựng dự thảo Bộ
luật Dân sự thì chế định Thừa phát lại không còn tồn tại.
1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hình thành Thừa phát lại
1.2.1. Vấn đề công pháp và tư pháp
Theo quan điểm truyền thống, trước đây phân định hệ thống pháp luật
thành hai lĩnh vực: công pháp và tư pháp. Ngành luật nào bảo vệ lợi ích
“công” được tạo dựng và định đoạt bởi ý chí của nhà nước thì xếp vào công
8
pháp, còn ngành luật nào bảo vệ lợi ích “tư”, các bên đương sự có quyền bày
tỏ ý chí, sự thỏa thuận hoặc sự định đoạt của mình thì xếp vào tư pháp.
Tương ứng với cách phân chia trên cũng có sự phân biệt trong cơ chế và
các biện pháp bảo vệ. Do đó, tồn tại các cơ quan khác nhau bảo vệ “công
quyền” và “tư quyền”. Để bảo vệ công quyền thì các chi phí tiền bạc, thời
gian, kể cả các công chức thực thi công vụ,… cho quá trình tố tụng đều do
nhân sách nhà nước gánh chịu. Trái lại “tư quyền” của công dân, của các tổ
chức mang tính chất riêng thì để bảo vệ quyền lợi của mình, họ phải tự giải
quyết và thậm chí phải chịu các phí tổn vật chất, thời gian,… của mình hoặc
phải thuê nướn các nhà chuyên môn về pháp lý tham gia tố tụng.
Ở nước ta hiện nay, điều dễ nhận thấy là trong hệ thống các công việc tố
tụng dân sự thì hầu như gánh nặng điều tra, thu thập chứng cứ, xác minh hiện
trạng, lấy lời khai, tiến hành dàn xếp hòa giải,… đều do cơ quan nhà nước bao
cấp. Chính gánh nặng này và với một bộ máy chưa đầy đủ về nhân sự,
phương tiện làm việc còn thiếu thốn, năng lực chuyên môn hạn chế nên tình
trạng tồn đọng, quá hạn, sự bất cập của các cơ quan nhà nước so với thực
trạng xã hội hiện nay là rất nan giải. Để có thể đưa ra một giải pháp hữu hiệu
trong công tác bổ trợ tư pháp thì Thừa phát lại là một nhân tố không thể bỏ
qua. Việc cung ứng dịch vụ tư này nhằm thúc đẩy tiến trình giải quyết các
tranh chấp được mau chóng, công khai và dân chủ hơn.
1.2.2. Kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa và chế định Thừa phát lại:
Sự trở lại của chế định Thừa phát lại là một nhu cầu tất yếu của nền kinh
tế thị trường. Sự phát triển của các quan hệ kinh tế - xã hội trong giai đoạn
hiện nay đã tăng lên gấp bội và rất sôi động, do đó cũng làm nảy sinh nhiều
hơn các nhu cầu pháp lý cần phải đáp ứng.
9
Các nhu cầu pháp lý này đòi hỏi cần có một hệ thống pháp luật đầy đủ
điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ xã hội, tạo mặt bằng an toàn pháp lý ổn
định cho sinh hoạt xã hội. Mặt khác, khi người dân có nhu cầu tự bảo vệ và
ngăn chặn các hành vi xâm hại đến lợi ích hợp pháp của bản thân mình, thì có
thể triệu dụng một tổ chức hoặc cá nhân bảo vệ cho mình, đó chính là Thừa
pháp lại. Thông qua hoạt động Thừa phát lại, người dân phát huy vai trò tích
cực và tự nguyện trong việc tuân thủ pháp luật, chủ động bảo vệ quyền lợi của
chính mình một cách kịp thời và hữu hiệu.
1.2.3. Thừa phát lại và sự hội nhập cộng đồng thế giới và khu vực:
Trong tiến trình hội nhập của Nhà nước ta, một lĩnh vực hợp tác không
thể thiếu được đó là lĩnh vực tư pháp. Sự tương đồng về kinh tế đòi hỏi phải
có một hệ thống pháp luật và hệ thống các cơ quan tư pháp và cơ quan bổ trợ
tư pháp thích ứng và hoàn chỉnh đi kèm. Hệ thống pháp luật và hệ thống các
cơ quan tư pháp đó chính là môi trường và phương tiện bảo đảm không những
chỉ lợi ích của các nhà kinh doanh mà còn cả lợi ích của tất cả cá nhân, tổ
chức khác trong nền kinh tế thị trường. Trong trào lưu đó, buộc chúng ta phải
hoàn thiện các cơ quan tư pháp để phục vụ cho công cuộc đổi mới của đất
nước. Cho nên sự ra đời của chế định Thừa phát lại là một mắt xích, một minh
chứng cho sự hoàn thiện đó.
1.2.4. Tiến trình tái lập tổ chức Thừa phát lại:
Nằm trong tiến trình cải cách tư pháp do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo,
chủ trương xã hội hóa công tác thi hành án dân sự nói riêng và một số hoạt
động bổ trợ tư pháp nói chung là một yêu cầu cấp thiết, nhằm thực hiện mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chủ trương
này đã được đặt ra tại Nghị quyết 08 – NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002
của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời
gian tới, xác định “nghiên cứu việc xã hội hóa một số hoạt động bổ trợ tư
10
pháp”. Đây là chủ trương phù hợp với truyền thống lịch sử, pháp luật thi hành
án của Việt Nam, phù hợp với xu hướng pháp luật thi hành án của thế giới, và
quan trọng hơn là đáp ứng được những yêu cầu cấp thiết của xã hội. Vì vậy,
chủ trương này tiếp tục được khẳng định trong Nghị quyết 49 – NQ/TW ngày
02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020, đó là: “Tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự. Nghiên cứu thực
hiện và phát triển các loại hình dịch vụ từ phía Nhà nước để tạo điều kiện cho
các đương sự chủ động thu thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình,… từng bước thực hiện việc xã hội hóa và quy định
những hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan Nhà nước
thực hiện một số công việc thi hành án; Nghiên cứu chế định Thừa phát lại
(Thừa hành viên); trước mắt có thể tổ chức thí điểm tại một số địa phương,
sau vài năm, trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tiễn sẽ có bước đi tiếp
theo”[10]
Để thể chế hóa chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp trong lĩnh vực
thi hành án dân sự, ngày 14 tháng 11 năm 2008, Quốc hội khóa XII đã nhất trí
thông qua Nghị quyết 24/2008/QH12 về việc thi hành Luật thi hành án dân sự.
Nghị quyết này quy định: “Để triển khai thực hiện chủ trương xã hội hóa một
số công việc có liên quan đến thi hành án dân sự, giao Chính phủ quy định và
tổ chức thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại (Thừa hành viên) tại một số
địa phương. Việc thí điểm được thực hiện từ ngày Luật này có hiệu lực thi
hành đến ngày 01 tháng 7 năm 2012. Chính phủ tổng kết, đánh giá kết quả
thực hiện thí điểm và báo cáo quốc hội xem xét, quyết định”. [20]
Trên cơ sở quy định tại Nghị quyết 24/2008/QH12 của Quốc hội về thi
hành Luật thi hành án dân sự năm 2008, ngày 19 tháng 02 năm 2009, Thủ
tướng Chính phủ đã ký Quyết định 224/TTg về việc phê duyệt đề án “Thực
hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại Thành phố Hồ Chí Minh” và đến
11
ngày 24 tháng 7 năm 2009 Chính phủ đã ban hành Nghị định 61/2009/NĐ –
CP quy định về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại
Thành phố Hồ Chí Minh. Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 09
tháng 9 năm 2009 và sau đó được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định
135/2013/NĐ – CP ngày 18 tháng 10 năm 2013.
1.3. Khái niệm về Thừa phát lại
Theo đánh giá của các nhà khoa học cũng như qua các tài liệu lịch sử thì
Thừa phát lại đã có ở nước ta từ thời phong kiến, còn gọi là “Mỏ”. Việc xét
xử do các quan lại ở địa phương tiến hành, những công việc của những
“người giúp việc”, các khâu chuẩn bị cho việc xử án, xét ở góc độ nào đó gần
giống với một số công việc mà Thừa phát lại hiện nay đang làm, chẳng hạn
như: truyền đạt các khẩu lệnh, công văn, giấy tờ, thông báo việc thi hành
án,… và như vậy nếu dựa vào tính chất, đặc thù công việc thì có thể nói Thừa
phát lại đã xuất hiện ở nước ta ngay từ thời kỳ đầu của Nhà nước Phong kiến.
Có thể nói Thừa phát lại là một nghề xuất hiện trên thế giới từ rất lâu và
hiện nay có khoảng 72 nước là thành viên của tổ chức Liên minh Thừa phát
lại quốc tế. Ở Việt Nam, dưới thời Pháp thuộc, miền Bắc gọi là “Chưởng
tòa”, miền Trung gọi là “Mõ tòa” còn miền Nam gọi là “Thừa phát lại”. Có
thể hiểu nghĩa Hán Việt của Thừa phát lại là: thừa của thừa hành; phát là
chuyển phát, báo phát; lại là làm việc của thư lại.
Thừa phát lại là chức danh được pháp luật công nhận, có nhiệm vụ thông
qua các hoạt động pháp lý thực thi bằng văn bản việc lập chứng cứ, tống đạt
các quyết định tư pháp, yêu cầu đương sự bắt buộc phải tuân thủ pháp luật.
Theo khoản 1 điều 2 Nghị định 61/2009/NĐ – CP của Chính phủ ngày
24 tháng 7 năm 2009, có nêu: “Thừa phát lại là người được Nhà nước bổ
nhiệm để làm các công việc về thi hành án dân sự, tống đạt giấy tờ, lập vi
bằng và các công việc khác theo quy định của Nghị định và pháp luật có liên
12
quan”.[7] Đến Nghị định 135/2013/NĐ – CP ngày 18 tháng 10 năm 2013 về
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 61, có nêu tại điều 2a thì: “Thừa
phát lại là người có các tiêu chuẩn, được Nhà nước bổ nhiệm và trao quyền
để làm các công việc theo quy định của Nghị định này và pháp luật có liên
quan”.[8]
1.4. Vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của tổ chức Thừa
phát lại trong hoạt động tư pháp hiện nay
1.4.1. Về vai trò của tổ chức Thừa phát lại
1.4.1.1. Trợ giúp các cơ quan tư pháp trong hoạt động tố tụng
- Trợ giúp cho cơ quan Tòa án trong việc tống đạt văn bản và thu thập
chứng cứ
Trong hoạt động tố tụng hiện nay của cơ quan Tòa án thì việc tống đạt
văn bản được xem là một trong những công việc đầu tiên mà cơ quan Tòa án
phải làm trong quá trình xét xử vụ án do Tòa án thụ lý. Do đó, nếu việc tống
đạt văn bản được thực hiện nhanh chóng, kịp thời và đúng người nhận không
những giúp cho việc xét xử của cơ quan Tòa án đúng thời gian theo quy định
của pháp luật về tố tụng mà còn giúp cho đương sự có thời gian chuẩn bị cho
quá trình xét xử của Tòa án, chẳng hạn như thu thập chứng cứ để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Những văn bản mà hiện nay cơ quan Tòa
án tống đạt trong các hoạt động tố tụng thường là quyết định đưa vụ án ra xét
xử, giấy triệu tập ra tòa, giấy mời người làm chứng... cho các đương sự và
những người có liên quan đến vụ án mà Tòa án đang thụ lý.
Bên cạnh đó, việc tống đạt văn bản của Tòa án có thể được thực hiện
bằng nhiều cách như: có thể gửi trực tiếp cho đương sự và những người có
liên quan, hoặc gửi qua nhân viên dịch vụ bưu chính, gửi về Uỷ ban Nhân dân
xã, phường, niêm yết công khai,… hay có khi đương sự được Tòa án mời lên
Tòa để trực tiếp nhận các văn bản đó. Từ những việc trên có thể cho thấy
13
công việc tống đạt văn bản hiện nay của cơ quan Tòa án còn nhiều điểm rất
tùy tiện và sơ hở, việc tống đạt như vậy không những gây phiền hà cho người
dân mà còn làm mất nhiều thời gian của các cơ quan Nhà nước. Bên cạnh đó,
đối với những văn bản hay những quyết định quan trọng mà việc tống đạt văn
bản của cơ quan Tòa án không kịp thời, đúng thời gian đã quy định sẽ gây ảnh
hưởng không nhỏ đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự mà đáng lẽ ra
họ được hưởng. Từ thực trạng trên cho thấy, để việc tống đạt văn bản hiện
nay của cơ quan Tòa án được kịp thời, đúng thời gian đã được quy định và
nhằm giúp cho quá trình xét xử của Tòa án được thực hiện nhanh chóng thì
không ai khác, Thừa phát lại là người sẽ đáp ứng được những yêu cầu đó.
Theo bộ Luật tố tụng Dân sự năm 2015 tại khoản 5, điều 177 quy định:
“Người được cấp, tống đạt, thông báo là cá nhân thì văn bản tố tụng phải
được giao trực tiếp cho họ,…; Trường hợp người được cấp, tống đạt, thông
báo vắng mặt thì người thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo phải lập biên
bản và giao cho người thân thích có đủ năng lực hành vi dân sự cùng nơi cư
trú với họ hoặc tổ trưởng tổ dân phố, trưởng thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum,
sóc để thực hiện việc ký nhận hoặc điểm chỉ và yêu cầu người này cam kết
giao lại tận tay ngay cho người được cấp, tống đạt, thông báo...” [16]
Bên cạnh đó tại điều 178 bộ Luật Dân sự năm 2015 cũng có quy định:
“Trường hợp người được cấp, tống đạt hay thông báo là cơ quan, tổ chức thì
văn bản tố tụng phải được giao trực tiếp cho người đại diện theo pháp luật
hoặc người chịu trách nhiệm nhận văn bản của cơ quan, tổ chức đó và phải
được những người này ký nhận. Trường hợp cơ quan, tổ chức được cấp, tống
đạt hoặc thông báo có người đại diện tham gia tố tụng hoặc cử người đại
diện nhận văn bản tố tụng thì những người này ký nhận văn bản tố tụng đó.
Ngày ký nhận là ngày được cấp, tống đạt, thông báo” [16]
14
Từ những quy định trên, cho thấy tổ chức Thừa phát lại ra đời và hoạt
động không những đáp ứng được những yêu cầu chặt chẽ về hình thức của thủ
tục tố tụng đó, mà còn góp phần ổn định, xác lập được nền nếp trong loại
công việc này nhằm bảo vệ các quyền của công dân và hỗ trợ cho cơ quan
Tòa án trong việc nâng cao được chất lượng, hiệu quả xét xử của mình.
Bên cạnh việc tống đạt văn bản, thì hiện nay tổ chức Thừa phát lại còn
đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp cơ quan Tòa án thu thập, bổ sung
chứng cứ để phục vụ cho quá trình xét xử. Trong quá trình xét xử của Tòa án
hiện nay, việc cung cấp chứng cứ của các đương sự cho cơ quan Tòa án là
một công việc vô cùng quan trọng, một mặt nó vừa giúp cho đương sự trong
việc chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, mặc khác nó
giúp cho việc xét xử của Tòa án được thực hiện chính xác và khách quan hơn.
Do đó, trong việc thu thập chứng cứ để cung cấp cho cơ quan Tòa án, bên
cạnh việc cá nhân có nghĩa vụ phải tự mình thu thập chứng cứ để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước cơ quan Tòa án thì công việc này còn
có thể do các cơ quan khác thực hiện như: cơ quan Điều tra, cơ quan Kiểm sát
hay thậm chí cơ quan Tòa án phải tự mình thực hiện. Theo quy định của pháp
luật hiện hành, trong lĩnh vực hình sự thì việc thu thập, bổ sung chứng cứ để
buộc tội đương sự thuộc về trách nhiệm của các cơ quan Điều tra, cơ quan
Kiểm sát hay cơ quan Tòa án. Theo đó, pháp luật hiện nay ở nước ta cũng có
quy định trong việc thu thập chứng cứ thì cơ quan Điều tra, cơ quan Kiểm sát
và cơ quan Tòa án có quyền triệu tập những người biết về vụ án để hỏi và
nghe họ trình bày về những vấn đề có liên quan đến vụ việc, trưng cầu, giám
định, tiến hành khám xét, khám nghiệm và các hoạt động điều tra khác theo
quy định; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, trình
bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án; Những người tham gia tố tụng, cơ quan,
15
tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào điều có thể đưa ra tài liệu, đồ vật và trình bày
những vấn đề có liên quan đến vụ án,…
Tuy nhiên, nếu chứng cứ trong các vụ án phải do các cơ quan tư pháp
trực tiếp thu thập thì việc này không những làm mất đi rất nhiều thời gian,
công sức của các cơ quan chức năng mà còn làm ảnh hưởng nhiều đến công
việc mà họ đang thực hiện.
Hiện nay, việc pháp luật tố tụng còn cho phép Thẩm phán tiến hành điều
tra, xác minh, tiếp xúc các bên đương sự để thu thập chứng cứ, điều này
không những vừa gây khó khăn, mất thời gian mà có khi còn tạo điều kiện
cho những tiêu cực phát sinh. Bởi vì, trong một số trường hợp Thẩm phán có
thể tiếp xúc riêng với các bên đương sự để tiến hành việc thu thập chứng cứ
và chứng cứ đó không được bên thứ ba làm chứng là điều dễ dẫn đến những
tiêu cực phát sinh, chẳng hạn như lời khai của đương sự không đúng sự thật
khách quan của vụ án hay việc đương sự hối lộ Thẩm phán để ghi nhận những
bằng chứng có lợi cho bản thân là điều rất dễ xảy ra.
Do đó để thuận tiện trong việc thu thập chứng cứ trong hoạt động tố tụng
hiện nay, đặc biệt trong việc thu thập, bổ sung chứng cứ của cơ quan Tòa án
thì cần phải có một cơ chế hỗ trợ thích hợp nhất, và đó không ai khác ngoài tổ
chức Thừa phát lại. Bởi một trong những chức năng của Thừa phát lại hiện
nay là “lập vi bằng” dùng làm chứng cứ để phục vụ cho quá trình xét xử của
Tòa án. Vi bằng do Thừa phát lại lập sẽ là nguồn chứng cứ quan trọng, có giá
trị pháp lý cao và đáng tin cậy để cung cấp cho quá trình xét xử của Tòa án.
Tổ chức Thừa phát lại ra đời không những phục vụ đắc lực cho các cơ quan
công quyền ngay từ giai đoạn điều tra mà còn phục vụ cho công tác xét xử
của cơ quan Tòa án, đặc biệt là trong việc giúp đỡ Tòa án thu thập và bổ sung
chứng cứ. Bởi vậy, khi cần thu thập chứng cứ để phục vụ cho quá trình xét xử
thì Tòa án có thể yêu cầu Thừa phát lại để làm việc này, và những chứng cứ
16
do Thừa phát lại cung cấp sẽ đảm bảo được tính hợp pháp cần thiết và có giá
trị để phục vụ tốt cho công tác xét xử của Tòa án hiện nay
- Trợ giúp cho cơ quan Thi hành án dân sự trong việc tống đạt văn bản
và các công việc liên quan đến thi hành án dân sự
Trong việc tống đạt các loại giấy tờ có liên quan đến thi hành án dân sự
hiện nay, cũng giống như việc tống đạt văn bản của cơ quan Tòa án thì trong
quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của
Tòa án, cơ quan Thi hành án dân sự có thể ra một số quyết định để giao cho
các bên có liên quan đến việc thi hành án. Công việc này do cán bộ của cơ
quan Thi hành án dân sự thực hiện theo nhiều cách khác nhau và không theo
một thể thức tống đạt cũng như một hình thức pháp lý nhất định.
Do vậy, tổ chức Thừa phát lại với một trong những chức năng chính là
việc tống đạt văn bản của các cơ quan Tòa án và Thi hành án dân sự, với công
việc đó Thừa phát lại sẽ giúp cơ quan Thi hành án dân sự thực hiện tốt việc
tống đạt các loại văn bản có liên quan đến thi hành án. Việc tống đạt văn bản
của tổ chức Thừa phát lại không những giúp san sẽ một phần nào gánh nặng
trong công việc mà hiện nay cơ quan Thi hành án dân sự đang thực hiện mà
còn giúp cho việc tổ chức thi hành án được kịp thời, chặt chẽ và chính xác,
bên cạnh đó còn giúp cho cán bộ thi hành án tránh mất nhiều thời gian và
công sức để có thể tập trung vào công việc chuyên môn của mình được tốt
hơn.
Bên cạnh việc tống đạt văn bản thì hiện nay trong công tác thi hành án
của cơ quan Thi hành án dân sự thì Thừa phát lại cũng đóng vai trò quan
trọng, đặc biệt là trong việc trợ giúp cho cơ quan Thi hành án dân sự thực
hiện các biện pháp khẩn cấp tạm thời để đảm bảo cho việc thi hành án. Hiện
nay, theo quy định của pháp luật thì trong quá trình giải quyết vụ án, đặc biệt
là các vụ án về dân sự hay vụ án về kinh tế thì đương sự, người đại diện hợp
17
pháp của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức khởi kiện có quyền yêu cầu Tòa án
đang giải quyết vụ án đó áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khẩn cấp tạm thời
để giải quyết những yêu cầu cấp bách của đương sự, nhằm bảo vệ tài sản, bảo
vệ chứng cứ, bảo đảm tính khả thi của bản án sẽ tuyên,… và theo yêu cầu đó,
Tòa án có thể áp dụng những biện pháp khẩn cấp tạm thời như: kê biên tài sản
đang tranh chấp, cấm chuyển dịch quyền tài sản đối với tài sản đang tranh
chấp, cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp,... và những công việc
trên được giao cho cơ quan Thi hành án dân sự thực hiện.
Tuy nhiên, trên thực tế thì việc thực hiện những biện pháp khẩn cấp tạm
thời đó rất khó khăn và phức tạp, bởi vì cơ quan Thi hành án dân sự hiện nay
không đáp ứng đủ cơ sở, điều kiện và lực lượng để theo dõi, giám sát để có
thể đảm bảo cho những quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được
thực hiện nghiêm chỉnh và triệt để theo nội dung và yêu cầu của Tòa án.
Chẳng hạn đối với vật bị kê biên, cấm chyển dịch là bất động sản thì việc
giám sát có thể nói là dễ, bởi vì việc lưu thông bất động sản thường đòi hỏi
các thủ tục và giấy tờ hành chính kèm theo. Còn đối với tài sản là động sản,
thì việc kê biên hay cấm chuyển dịch trong thời điểm hiện nay là rất khó khăn,
bởi vì cơ quan Thi hành án dân sự không thể đáp ứng đủ lực lượng trong việc
giám sát, kê biên hay cấm chuyển dịch đối với các loại tài sản đó.
Chính vì lẽ đó, ở lĩnh vực này ta cần có lực lượng Thừa phát lại là những
người làm việc theo yêu cầu của cơ quan Thi hành án dân sự để theo dõi,
giám sát và thực hiện các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo yêu cầu của Tòa
án để đảm bảo thi hành án. Việc áp dụng thực hiện các biện pháp khẩn cấp
tạm thời của Thừa phát lại không những góp phần ngăn chặn, xử lý thích đáng
việc tẩu tán tài sản nhằm trốn tránh trách nhiệm thi hành án của người phải thi
hành án mà còn giúp cho việc bảo quản được đối tượng tranh chấp và bảo vệ
18
tốt các chứng cứ để phục vụ cho quá trình giải quyết vụ án của cơ quan Tòa
án được dễ dàng hơn.
1.4.1.2. Trợ giúp công dân trong việc lập vi bằng để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình
Bộ Luật dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành đã tạo những chuẩn mực
pháp lý quan trọng cho một bộ phận rộng lớn sinh hoạt trong xã hội, đó là
những nguyên tắc cơ bản tạo tiền đề pháp lý quan trọng để xây dựng một xã
hội dân chủ, công bằng, văn minh. Những nguyên tắc cơ bản nhất mà Bộ Luật
dân sự đã nêu là: nguyên tắc bình đẳng, tuân thủ pháp luật, nguyên tắc tự do,
tự nguyện cam kết, thỏa thuận, nguyên tắc thiện chí, trung thực, hòa giải,...
Với những nguyên tắc trên đòi hỏi cá nhân và pháp nhân phải tự giác,
chủ động trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, phòng ngừa vi
phạm hoặc thiệt hại có thể xảy ra cho bản thân hoặc cộng đồng. Trên thực tế,
khi có tranh chấp xảy ra và được giải quyết bằng con đường Tòa án thì các
đương sự phải có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của
mình là có căn cứ cũng như để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Theo
quy định của pháp luật các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ
cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Với quy định trên nhằm phát huy được tính chủ động và tự giác của
đương sự trong việc tạo lập chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Tuy nhiên, việc tạo lập và thu thập chứng cứ hiện nay của của đương sự
không hề đơn giản, đó còn là một vấn đề khó khăn bởi đôi khi họ không có
điều kiện hoặc không đủ trình độ chuyên môn trong thực hiện công việc này.
Mặc khác do hệ thống chứng cứ hiện nay ở nước ta còn rất nghèo nàn và việc
thu thập lại không theo một thủ tục nhất định do pháp luật quy định, chứng cứ
được thu thập có khi chỉ dựa vào những lời khai của các bên hoặc được dựa
vào tài liệu, văn kiện do các bên liên quan cung cấp.
19