VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM THÁI ĐÀI
HỖ TRỢ VIỆC LÀM ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ NHA TRANG,
TỈNH KHÁNH HÒA
Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60 90 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HÀ THỊ THƯ
HÀ NỘI, 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ công tác xã hội với đề tài: “Hỗ trợ việc làm
đối với người khuyết tật từ thực tiễn thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa” là
nghiên cứu của tôi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong đề tài luận văn này là
hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn
Phạm Thái Đài
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
............................................................................................................... 1
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI KHUYẾTTẬT
VÀ HỖ TRỢ VIỆC LÀM ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT............. 12
1.1. Người khuyết tật: khái niệm và đặc điểm .......................................................... 12
1.2. Lý luận về hỗ trợ việc làm đối với người khuyết tật .......................................... 18
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hỗ trợ việc làm đối với người khuyết tật ................. 25
1.4. Cơ sở pháp lý về hỗ trợ việc làm đối với người khuyết tật ................................ 29
Chương 2
THỰC TRẠNG VỀ HỖ TRỢ VIỆC LÀM ĐỐI VỚI
NGƯỜI KHUYẾT TẬT TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ
NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA ................................................. 33
2.1. Vài nét về địa bàn và khách thể nghiên cứu....................................................... 33
2.2. Thực trạng việc làm và hoạt động hỗ trợ việc làm đối với
người khuyết tật ................................................................................................ 36
2.3. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến hỗ trợ việc làm đối với người
khuyết tật .......................................................................................................... 54
Chương 3 MỘT SỐ BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY HIỆU QUẢ
HỖ TRỢ VIỆC LÀM ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ NHA TRANG,
TỈNH KHÁNH HÒA ......................................................................... 65
3.1. Biện pháp nâng cao năng lực của nhân viên hỗ trợ việc làm cho người
khuyết tật .......................................................................................................... 65
3.2. Biện pháp nâng cao hoạt động trong hỗ trợ việc làm đối với người
khuyết tật của cơ sở dịch vụ việc làm, trung tâm công tác xã hội và
các cơ sở dạy nghề ............................................................................................ 67
3.3. Biện pháp hỗ trợ người khuyết tật .................................................................... 69
3.4. Biện pháp nâng cao nhận thức gia đình người khuyết tật, cộng đồng và
doanh nghiệp về vấn đề việc làm của người khuyết tật ................................... 71
3.5. Biện pháp về cơ chế, chính sách thúc đẩy hiệu quả hỗ trợ việc làm đối
với người khuyết tật.......................................................................................... 74
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 78
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CTXH
Công tác xã hội
DVVL
Dịch vụ việc làm
ILO
Tổ chức Lao động Quốc tế
LĐTBXH
Lao động – Thương binh và Xã hội
LHQ
Liên Hợp Quốc
NKT
Người khuyết tật
PVS
Phỏng vấn sâu
UBND
Ủy ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1: Tương quan giữa người khuyết tật không tìm được việc làm và
khả năng lao động của người khuyết tật ............................................ 38
Bảng 2.2: Ảnh hưởng của yếu tố đặc điểm riêng của người khuyết tật
đến hỗ trợ việc làm cho người khuyết tật .......................................... 54
Bảng 2.3: Ảnh hưởng của yếu tố môi trường bên ngoài đến hỗ trợ việc làm
cho người khuyết tật .......................................................................... 56
Bảng 2.4: Ảnh hưởng của yếu tố từ cơ sở cung cấp dịch vụ hỗ trợ việc làm
đến hỗ trợ việc làm cho người khuyết tật ......................................... 58
Bảng 2.5: Ảnh hưởng của yếu tố năng lực của đội ngũ nhân viên hỗ trợ
việc làm đến hỗ trợ việc làm cho người khuyết tật ........................... 59
Bảng 2.6: Ảnh hưởng của yếu tố cơ chế, chính sách đến hỗ trợ việc làm
cho người khuyết tật ......................................................................... 61
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Tên biểu đồ
Trang
Biểu đồ 2.1:
Tình trạng việc làm của người khuyết tật (Tỷ lệ %) ................... 37
Biểu đồ 2.2:
Nguyên nhân người khuyết tật không tìm được việc làm
(Tỷ lệ %) ..................................................................................... 38
Biểu đồ 2.3:
Ý kiến của người khuyết tật về các mức độ cần thiết
của tư vấn việc làm (Tỷ lệ %) .................................................... 40
Biểu đồ 2.4:
Hình thức người khuyết tật được tư vấn việc làm (Tỷ lệ %) ...... 41
Biểu đồ 2.5:
Những thay đổi của người khuyết tật sau khi được tư vấn
việc làm (Tỷ lệ %) ....................................................................... 42
Biểu đồ 2.6:
Ý kiến của người khuyết tật về các mức độ cần thiết
của giới thiệu việc làm (Tỷ lệ %) ................................................ 44
Biểu đồ 2.7:
Hình thức người khuyết tật được giới thiệu việc làm
(Tỷ lệ %) ..................................................................................... 45
Biểu đồ 2.8:
Ý kiến của người khuyết tật về các mức độ cần thiết
của đào tạo nghề (Tỷ lệ %) ......................................................... 48
Biểu đồ 2.9:
Ý kiến của người khuyết tật về các mức độ phù hợp của
nghề được đào tạo với công việc (Tỷ lệ %) ................................ 50
Biểu đồ 2.10: Tình trạng vay vốn giải quyết việc làm của người khuyết tật
(Tỷ lệ %) ..................................................................................... 51
Biểu đồ 2.11: Nguyên nhân người khuyết tật không vay vốn (Tỷ lệ %) ............. 52
Biểu đồ 2.12: So sánh các nhóm yếu tố ảnh hưởng đến hỗ trợ việc làm
đối với người khuyết tật .............................................................. 63
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo số liệu của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, hiện nay Việt Nam
có khoảng 7 triệu người khuyết tật, chiếm 7,8% dân số. Trong đó, có khoảng 28,9%
người khuyết tật đặc biệt nặng và nặng, 58% người khuyết tật là nữ, 28,3% người
khuyết tật là trẻ em, 10,2% người khuyết tật là người cao tuổi, 61,5% người khuyết
tật trong độ tuổi lao động và khoảng 10% người khuyết tật thuộc hộ nghèo [2].
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác
người khuyết tật. Hệ thống chính sách, pháp luật về người khuyết tật không ngừng
được hoàn thiện, tạo môi trường pháp lý nhằm bảo vệ, chăm sóc, trợ giúp, hỗ trợ tạo
việc làm để người khuyết tật phát huy khả năng của mình, vượt qua khó khăn, hòa
nhập cuộc sống, vươn lên tham gia bình đẳng vào các hoạt động kinh tế - xã hội.
Bên cạnh đó, Việt Nam đã ký tham gia Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền của
người khuyết tật vào tháng 10/2007 và Quốc hội phê chuẩn Công ước vào tháng
11/2014. Việt Nam cam kết tham gia Chiến lược Incheon nhằm hiện thực hóa quyền
cho người khuyết tật giai đoạn 2013-2022 được Liên Chính phủ cùng các tổ chức
người khuyết tật các nước Châu Á – Thái Bình Dương thông qua ngày 01/11/2012
tại Incheon, Hàn Quốc. Gần đây nhất, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết
định số 1717/QĐ-TTg ngày 06/10/2015 về việc thành lập Ủy ban Quốc gia về
người khuyết tật Việt Nam.
Trong quá trình thực hiện các chính sách và các hoạt động trợ giúp người
khuyết tật thì hỗ trợ việc làm cho người khuyết tật là một vấn đề khó khăn và bức
xúc nhất của người khuyết tật. Người khuyết tật rất khó tiếp cận việc làm, cơ hội
tìm được việc làm của người khuyết tật rất hạn chế. Việc làm và thu nhập của người
khuyết tật còn nhiều rào cản. Hiện nay, số người khuyết tật có việc làm chỉ chiếm
10-20% trong tổng số người khuyết tật [10], số người khuyết tật còn lại gặp nhiều
khó khăn, hầu hết phải sống dựa vào gia đình. Một bộ phận người khuyết tật tuy có
việc làm, nhưng công việc không ổn định và thu nhập còn rất thấp.
1
Thực tiễn tại thành phố Nha Trang, việc làm của người khuyết tật cũng gặp
không ít khó khăn. Theo số liệu thống kê, thành phố Nha Trang có 9.594 người
khuyết tật, chiếm 2,41% dân số. Trong đó, có 3.096 người khuyết tật trong độ tuổi
lao động có khả năng lao động và chỉ có 396 người khuyết tật có việc làm ổn định.
Số người khuyết tật còn lại chủ yếu là phụ việc gia đình, việc làm bấp bênh hoặc
không có việc làm. Giải quyết nhu cầu việc làm của người khuyết tật đang là vấn đề
quan tâm của thành phố [30].
Việc làm là một hoạt động rất quan trọng trong đời sống của con người, là
phương tiện đảm bảo cuộc sống của mỗi cá nhân. Đối với người khuyết tật, việc
làm còn có ý nghĩa giúp người khuyết tật phát huy khả năng của mình, vượt qua
khó khăn, hòa nhập cộng đồng, đáp ứng nhu cầu của cá nhân và vươn lên tham gia
bình đẳng vào các hoạt động kinh tế - xã hội. Quyền được làm việc của người
khuyết tật là một những nội dung thể hiện trong Công ước của Liên Hợp Quốc về
quyền của người khuyết tật. Vấn đề việc làm đối với người khuyết tật và lao động là
người khuyết tật đã được pháp luật Việt Nam quy định trong nhiều luật: Luật người
khuyết tật, Bộ luật lao động, Luật việc làm, Luật giáo dục nghề nghiệp.
Hiện nay, có một số đề tài nghiên cứu vấn đề việc làm của người khuyết tật.
Tuy nhiên, đa số là các công trình nghiên cứu về cơ chế, chính sách việc làm cho
người khuyết tật hoặc một số công trình nghiên cứu về hỗ trợ dạy nghề cho người
khuyết tật. Vì vậy, cần thiết có đề tài nghiên cứu về các hoạt động hỗ trợ việc làm
đối với người khuyết tật.
Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Hỗ trợ việc làm đối với người khuyết
tật từ thực tiễn thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa” làm luận văn tốt nghiệp
thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Abidi, Javed (2009) đã triển khai một nghiên cứu về việc làm của người
khuyết tật [35]. Tác giả đã mô tả một bức tranh tổng thể về vấn đề việc làm của
người khuyết tật ở Ấn Độ. Nghiên cứu đã đưa mô tả về các vấn đề như số lượng,
2
giới tính, các đặc điểm riêng của người khuyết tật, nhu cầu, mong muốn và thực
trạng về vấn đề việc làm của người khuyết tật. Nghiên cứu cũng nhấn mạnh những
khó khăn và thách thức của người khuyết tật tại Ấn Độ về vấn đề việc làm.
Nghiên cứu của Acemoglu và Joshua (2010) lại đề cập đến khía cạnh về các
chương trình bảo vệ và hỗ trợ người khuyết tật trong vấn đề việc làm [36]. Nghiên
cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của việc làm cũng như phân tích và đánh giá về các
chính sách liên quan đến việc làm của người khuyết tật. Từ đó đã có những đề xuất
và giải pháp định hướng cho việc xây dựng chính sách cho người khuyết tật trong
lĩnh vực này.
Tiếp cận theo hướng vĩ mô, Gladnet (2002) đã phân tích sự tác động của cơ
chế chính sách đối với vấn đề việc làm của người khuyết tật [38]. Tác giả chỉ ra
rằng ngoài những nỗ lực của người khuyết tật và gia đình thì các chính sách hỗ trợ
là cực kỳ quan trọng. Các chính sách ở đây không chỉ tập trung vào việc giúp người
khuyết tật có việc làm mà còn cần phải nâng cao nhận thức, giảm kỳ thị về người
khuyết tật để từ đó tạo ra việc làm hiệu quả và bền vững cho người khuyết tật.
Một cuộc nghiên cứu tổng thể về các vấn đề việc làm của người khuyết tật
trong lĩnh vực hành chính công đã được Hirst (2004) triển khai [37]. Trong nghiên
cứu này tác giả đã thu thập số liệu và tập trung phân tích các vấn đề về việc làm của
người khuyết tật dựa trên những số liệu và thông tin từ rất nhiều các nghiên cứu
khác nhau, ở các lĩnh vực khác nhau.
Tóm lại, nhiều công trình ở nước ngoài đã có nghiên cứu về vấn đề việc làm
của người khuyết tật. Những nghiên cứu này, cho thấy được những khó khăn, thách
thức đối với việc làm của người khuyết tật; những hiệu quả tác động của chính sách,
chương trình hỗ trợ việc làm dành cho người khuyết tật.
2.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Hiện nay, tại Việt Nam có nhiều đề tài nghiên cứu về vấn đề người khuyết tật
dưới nhiều góc độ khác nhau từ vấn đề sức khỏe, chăm sóc y tế, chính sách pháp
luật đối với người khuyết tật, quyền con người của người khuyết tật đến vấn đề xã
hội như thái độ, hành vi đối với người khuyết tật, hòa nhập cộng đồng của người
3
khuyết tật, công tác xã hội đối với người khuyết tật, hỗ trợ giúp đỡ, giáo dục, dạy
nghề, giải quyết việc làm cho người khuyết tật.
Một số tài liệu, giáo trình và đề tài liên quan đến nghiên cứu vấn đề hỗ trợ việc
làm đối với người khuyết tật như sau:
- Cuốn sách chuyên khảo “Công tác xã hội với người khuyết tật” của Nhà xuất
bản Đại học Quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2014 do tác giả Nguyễn Thị Kim Hoa
(chủ biên) cùng các giảng viên nòng cốt giảng dạy Công tác xã hội với người
khuyết tật tại các trường đại học hiện đang triển khai Chương trình đào tạo Công tác
xã hội tại Hà Nội với sự tài trợ của Tổ chức Hỗ trợ người khuyết tật Việt Nam
(VNAH) [11]. Hiện nay, cuốn sách này là một giáo trình khá đầy đủ về lĩnh vực
công tác xã hội với người khuyết tật. Tác giả đã tổng quan về người khuyết tật và
công tác xã hội với người khuyết tật từ một số vấn đề lý luận cơ bản, những hướng
tiếp cận và quan niệm về người khuyết tật đến luật pháp, chính sách và các loại hình
dịch vụ trợ giúp người khuyết tật. Bên cạnh đó, tác giả đề cập đến những trải
nghiệm khuyết tật với các nội dung khuyết tật và phát triển bản sắc của người
khuyết tật, những trải nghiệm về sự kỳ thị và phân biệt đối xử với người khuyết tật,
khả năng tiếp cận của người khuyết tật, tác động của khuyết tật đối với cá nhân
người khuyết tật, tác động của tình trạng khuyết tật đối với các mối quan hệ và gia
đình. Cuốn sách có nội dung quan trọng về thực hành công tác xã hội với người
khuyết tật đó là việc xây dựng mối quan hệ và sự tin tưởng, đánh giá thực hành
công tác xã hội đến kế hoạch can thiệp trị liệu và các mô hình thực hành. Tuy nhiên,
về nội dung hỗ trợ việc làm đối với người khuyết tật cuốn sách chỉ mới sơ lược mô
hình hỗ trợ sinh kế và mô hình sống độc lập.
- Cuốn sách “Tạo việc làm bền vững cho lao động là đối tượng yếu thế” của
Nhà xuất bản Lao động – Xã hội xuất bản năm 2013 do Bộ Lao động – Thương
binh và Xã hội biên soạn đã đề cập đến những vấn đề chung đối với các nhóm yếu
thế, những rào cản, những nhu cầu và các đặc thù trong dạy nghề tạo việc làm bền
vững cho một số nhóm đối tượng yếu thế trên thị trường lao động bao gồm: người
khuyết tật, nông dân nghèo các vùng đặc biệt khó khăn, người dân tộc thiểu số và
4
lao động nữ [5]. Cuốn sách đã nêu một số giải pháp nâng cao hiệu quả dạy nghề tạo
việc làm bền vững cho người khuyết tật mà chủ yếu chỉ là nêu một số giải pháp
chung về dạy nghề cho người khuyết tật.
- Báo cáo khảo sát về đào tạo nghề và việc làm cho người khuyết tật tại
Việt Nam của Tổ chức Lao động Quốc tế (2011) [12]. Báo cáo đã cho thấy một
cách nhìn về các tổ chức của người khuyết tật, các tổ chức đại diện cho người
khuyết tật và các dịch vụ đào tạo nghề, việc làm và phát triển doanh nghiệp cho
người khuyết tật. Kết quả phân tích khảo sát của báo cáo cho rằng người khuyết
tật tại Việt Nam rất ít được đào tạo nghề, hướng dẫn về việc làm cũng như về
phát triển doanh nghiệp. Theo báo cáo, Chính phủ, nhiều tổ chức phi chính phủ
và chính người khuyết tật đều nhận thấy người khuyết tật cần có các dịch vụ đào
tạo riêng (ít nhất theo học các lớp đào tạo riêng cho người khuyết tật), các dịch
vụ bố trí việc làm riêng và các kế hoạch và hoạt động phát triển kinh doanh riêng
cho người khuyết tật.
- Trong luận văn thạc sĩ công tác xã hội “Hoạt động tạo việc làm cho người
khuyết tật huyện Yên Mô tỉnh Ninh Bình” của tác giả Ngô Thị Bích Phượng (2013)
đã tiến hành khảo sát nghiên cứu tại hai cơ sở tư nhân trên địa bàn xã Yên Thắng và
Khánh Thịnh [17]. Tác giả chỉ ra được những đặc điểm của người khuyết tật như độ
tuổi, giới tính, tình trạng hôn nhân, tình trạng khuyết tật, hoàn cảnh kinh tế gia đình,
là một trong những yếu tố tác động đến quá trình học nghề và tìm kiếm việc làm.
Tuy nhiên, tác giả chưa đề cập đến những yếu tố khác có tác động đến việc làm của
người khuyết tật như yếu tố về môi trường, doanh nghiệp, chính sách. Bên cạnh đó
các giải pháp chủ yếu chỉ tập trung cho công tác tuyên truyền, cơ chế của nhà nước.
- Luận văn thạc sĩ công tác xã hội “Hỗ trợ giải quyết việc làm đối với thanh
niên từ thực tiễn huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên” của tác giả Đào Thị Tỉnh (2015)
ngoài việc trình bày cơ sở lý luận về hỗ trợ giải quyết việc làm, tác giả cũng đã phân
tích vai trò của nhân viên công tác xã hội trong hỗ trợ giải quyết việc làm đối với
thanh niên [24]. Đề tài đã khảo sát, đánh giá các thực trạng hỗ trợ giải quyết việc
làm thông qua nhiều hình thức như hỗ trợ vốn vay, xuất khẩu lao động, dạy nghề
5
gắn với việc làm, cung cấp thông tin, tư vấn việc làm. Tuy nhiên, đối tượng nghiên
cứu là hỗ trợ việc làm đối với thanh niên mà thanh niên là nhóm đối tượng dễ dàng
tiếp cận với việc làm hơn người khuyết tật rất nhiều.
- Nghiên cứu “Việc làm cho người khuyết tật và người dễ bị tổn thương khác
tại Quảng Ninh, Hòa Bình và Lâm Đồng” do Ban Công tác xã hội – Trung ương
Hội chữ thập đỏ Việt Nam thực hiện năm 2010 [1]. Nghiên cứu đã chỉ ra các dạng
khuyết tật, mức độ khuyết tật trong mối tương quan với các loại hình công việc.
Những khó khăn trong quá trình tìm việc và làm việc của người khuyết tật cũng
được nhóm tác giả phân tích từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
của việc làm cho người khuyết tật.
- Tác giả Đoàn Thị Cẩm Vân (2015) trong đề tài luận văn thạc sĩ “Một số giải
pháp giải quyết việc làm cho người khuyết tật tại thành phố Hồ Chí Minh” đã đánh
giá thực trạng cung ứng việc làm nói chung và dành riêng cho người khuyết tật, các
chính sách hỗ trợ người khuyết tật, mối liên kết giữa doanh nghiệp và người khuyết
tật [32]. Đề tài đã phân tích cơ hội việc làm cho người khuyết tật ngoài các yếu tố
chính sách và thực thi của nhà nước, một số các yếu tố khác cần được xem xét như:
cách nhìn xã hội trong đó có người tuyển dụng lao động người khuyết tật; trình độ
và khả năng làm việc của người khuyết tật; kênh thông tin tiếp cận của người
khuyết tật đối với cơ hội nghề nghiệp. Trên cơ sở các yếu tố trên tác giả nêu ra
những giải pháp trong việc giải quyết việc làm cho người khuyết tật. Tuy nhiên đề
tài chưa làm rõ các hoạt động để giải quyết việc làm cho người khuyết tật.
Tóm lại, việc làm của người khuyết tật đã được nhiều đề tài trong nước nghiên
cứu dưới các góc độ khác nhau. Nhóm các đề tài nghiên cứu về việc thực thi các
chính sách hỗ trợ việc làm cho người khuyết tật và từ đó đề xuất cải thiện một số
chính sách phù hợp hơn. Nhóm đề tài nghiên cứu đánh giá thực trạng một số hoạt
động như dạy nghề cho người khuyết tật, tuyển dụng lao động người khuyết tật, từ
đó khuyến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả những hoạt động này. Nghiên cứu các
hoạt động hỗ trợ việc làm cho người khuyết tật hiện nay, từ tư vấn việc làm, giới
6
thiệu việc làm đến hỗ trợ dạy nghề, hỗ trợ tự tạo việc làm chưa được các đề tài đề
cập đến nhiều.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến hỗ
trợ việc làm đối với người khuyết tật từ thực tiễn thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh
Hòa. Từ đó đưa ra một số biện pháp nhằm thúc đẩy hiệu quả hỗ trợ việc làm đối với
người khuyết tật tại thành phố Nha Trang.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài đặt ra những nhiệm vụ
nghiên cứu như sau:
- Làm sáng tỏ các khái niệm về người khuyết tật, về việc làm và hỗ trợ việc
làm đối với người khuyết tật.
- Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến hỗ trợ việc làm đối với người khuyết tật.
- Phân tích đánh giá thực trạng về hỗ trợ việc làm đối với người khuyết tật từ
thực tiễn thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.
- Đề xuất một số biện pháp thúc đẩy hiệu quả hỗ trợ việc làm đối với người
khuyết tật tại thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hỗ trợ việc làm đối với người khuyết tật từ thực tiễn thành phố Nha Trang,
tỉnh Khánh Hòa.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
* Phạm vi về đối tượng
Nghiên cứu lý luận và thực trạng về hỗ trợ việc làm; cụ thể đó là hỗ trợ tư vấn
việc làm, hỗ trợ giới thiệu việc làm, hỗ trợ đào tạo nghề và hỗ trợ tự tạo việc làm
cho người khuyết tật.
* Phạm vi về khách thể
7
Nghiên cứu trên tổng số 180 khách thể người khuyết tật. Về cơ cấu tuổi bao
gồm những người khuyết tật trong độ tuổi lao động (nam từ 15 đến 60 tuổi, nữ từ 15
đến 55 tuổi). Về mức độ khuyết tật và dạng tật bao gồm người khuyết tật nặng hoặc
nhẹ và các dạng tật về vận động; nghe, nói; nhìn (ngoại trừ khuyết tật thần kinh, tâm
thần; khuyết tật trí tuệ và khuyết tật khác).
Đối với những người làm việc có liên quan đến vấn đề việc làm người khuyết
tật: Nghiên cứu 15 khách thể gồm cán bộ quản lý, nhân viên làm công tác hỗ trợ
việc làm, lãnh đạo các đơn vị, doanh nghiệp liên quan đến lĩnh vực việc làm của
người khuyết tật.
* Phạm vi về địa bàn: Nghiên cứu trên địa bàn thành phố Nha Trang, tỉnh
Khánh Hòa.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Phương pháp luận sẽ cho chúng ta biết cách thức tiếp cận một vấn đề xã hội cụ
thể, đó là hệ thống lý luận về phương pháp nghiên cứu, phương pháp nhận thức và
cải tạo hiện thực. Tất cả những lý luận và nguyên lý nào có tác dụng hướng dẫn, gợi
mở, chỉ đạo đều là những lý luận và nguyên lý có ý nghĩa phương pháp luận. Mọi
nguyên lý thế giới quan đều có tác dụng ấy, chúng hợp thành nội dung của phương
pháp luận. Phương pháp luận sẽ định hướng cho nghiên cứu, quyết định hướng tiếp
cận vấn đề của nghiên cứu. Vì thế nó có vai trò quan trọng, quyết định sự thành
công của một nghiên cứu khoa học.
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa học nền tảng là
phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử. Mọi hiện tượng,
sự kiện trong báo cáo đều được phân tích, nhìn nhận dưới góc độ lịch sử, đặt trong
mối tương quan, liên hệ chặt chẽ với nhau. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử là phương pháp luận để lý giải các hiện tượng,
các vấn đề xã hội. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, mỗi kết
cấu vật chất có muôn vàn mối liên hệ qua lại với các sự vật và hiện tượng, quá trình
8
khác của hiện thực, không có một sự vật hiện tượng nào trong thế giới khách quan
tồn tại riêng rẽ, tách rời mà có mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau.
Như vậy, khi xem xét vấn đề hỗ trợ việc làm của người khuyết tật cần xem
xét, chú ý đến bối cảnh xã hội, bối cảnh nghề Công tác xã hội tại Việt Nam và nhiều
yếu tố khác mà nó có liên hệ. Mặt khác Chủ nghĩa duy vật biện chứng còn cho rằng
các sự vật hiện tượng quá trình cũng như sự phản ánh của chúng luôn biến đổi phát
triển không ngừng. Vì thế phải đánh giá vấn đề này theo quá trình vận động và phát
triển của nó.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu, văn bản
Là phương pháp thu thập thông tin từ các công trình nghiên cứu và các tài liệu
có sẵn của các tác giả trong và ngoài nước. Phương pháp này được áp dụng phân
tích các tài liệu như:
- Tra cứu các tài liệu về Công ước quốc tế; các chủ trương, chính sách, pháp
luật của Đảng và Nhà nước về người khuyết tật và vấn đề việc làm đối với người
khuyết tật ví dụ như Luật người khuyết tật, Bộ luật lao động, Luật việc làm, Đề án
trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012 - 2020, Nghị định số 28/2012/NĐ-CP.
- Nghiên cứu các tài liệu về báo cáo, thống kê, văn bản của các cơ quan, tổ
chức có liên quan đến vấn đề người khuyết tật và việc làm của người khuyết tật.
- Nghiên cứu một số công trình của các tác giả trong và ngoài nước về vấn đề
việc làm đối với người khuyết tật.
5.2.2. Phương pháp điều tra bảng hỏi
Là phương pháp điều tra xã hội học nhằm thu thập thông tin bằng cách lập một
bảng hỏi cho nhóm đối tượng cần nghiên cứu trong một không gian, thời gian nhất
định.
Đề tài sẽ điều tra bằng bảng hỏi 180 khách thể là người khuyết tật,
trên 06 xã/phường trên 27 xã/phường thuộc thành phố Nha Trang, trong đó
02 xã/phường thuộc khu vực thành thị, 02 xã/phường thuộc khu vực ngoại ô và 02
xã/ phường thuộc khu vực nông thôn.
9
5.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
Phỏng vấn sâu là những cuộc đối thoại được lặp đi lặp lại giữa nhà nghiên cứu
và người cung cấp thông tin nhằm tìm hiểu thực trạng, những mong muốn nguyện
vọng, kinh nghiệm và nhận thức của người cung cấp thông tin thông qua chính ngôn
ngữ, thái độ của người ấy.
Đề tài tiến hành phỏng vấn sâu một số người khuyết tật, các nhà quản lý, cơ sở
dạy nghề, trung tâm dịch vụ việc làm, ngân hàng chính sách xã hội và một số doanh
nghiệp để tìm hiểu sâu hơn, lý giải nguyên nhân về các vấn đề nghiên cứu của đề tài.
Phương pháp tiến hành phỏng vấn sâu 20 đối tượng khách thể, trong đó gồm 5
người khuyết tật và 15 người là cán bộ quản lý, nhân viên, lãnh đạo các đơn vị,
doanh nghiệp có liên quan đến vấn đề hỗ trợ việc làm cho người khuyết tật.
5.2.4. Phương pháp quan sát
Phương pháp quan sát là một phương pháp mang tính chọn lựa, có hệ thống và
có mục đích để nhìn và lắng nghe về một tương tác hay một hiện tượng khi nó xảy
ra. Quan sát là một cách để thu thập dữ liệu sơ cấp.
Trong đề tài, phương pháp quan sát được sử dụng để ghi lại những nguyện
vọng, mong muốn, thái độ của bản thân người khuyết tật về vấn đề hỗ trợ việc làm;
quan sát ghi lại những thái độ, hành vi, cách cư xử, trao đổi của nhân viên tư vấn,
giới thiệu việc làm cho người khuyết tật.
5.2.5. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phương pháp thống kê toán học để phân tích các số liệu điều tra, số
liệu thống kê.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận văn
Các kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo hữu ích tại các
cơ sở nghiên cứu và đào tạo về công tác xã hội.
Các phát hiện của nghiên cứu cho thấy rõ các yếu tố ảnh hưởng đến hỗ trợ việc làm
đối với người khuyết tật.
10
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
- Đối với người khuyết tật: Giúp khắc phục những vấn đề, khó khăn trong việc
hỗ trợ việc làm cho người khuyết tật từ đó nâng cao số lượng và chất lượng giải
quyết việc làm cho người khuyết tật. Người khuyết tật sẽ ngày càng khẳng định
được vai trò trong xã hội.
- Đối với các cơ quan, trung tâm, tổ chức cung cấp dịch vụ hỗ trợ việc làm cho
người khuyết tật: Các phát hiện và đề xuất của nghiên cứu sẽ góp phần nâng cao
chất lượng dịch vụ của các cơ sở từ đó nâng cao hiệu quả hỗ trợ người khuyết tật.
- Đối với các cơ quan quản lý: Giúp các cơ quan quản lý có những chính sách
hoạch định hiệu quả về vấn đề hỗ trợ việc làm cho người khuyết tật.
- Đối với xã hội: Việc giải quyết vấn đề việc làm cho người khuyết tật sẽ góp
phần giải quyết các vấn đề chung của người khuyết tật, góp phần khẳng định nỗ lực
trong việc thực hiện Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền của người khuyết tật
mà Việt Nam đã ký kết.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và danh mục các
biểu, bảng, luận văn gồm:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về người khuyết tật và hỗ trợ việc làm đối
với người khuyết tật.
- Chương 2: Thực trạng về hỗ trợ việc làm đối với người khuyết tật từ thực
tiễn thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.
- Chương 3: Một số biện pháp thúc đẩy hiệu quả hỗ trợ việc làm đối với người
khuyết tật từ thực tiễn thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.
11
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT
VÀ HỖ TRỢ VIỆC LÀM ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT
1.1. Người khuyết tật: khái niệm và đặc điểm
1.1.1. Một số khái niệm
* Khái niệm người khuyết tật
Hầu như mọi người đều trải qua sự suy giảm sức khỏe, do vậy ai cũng có thể
bị khuyết tật về một mặt nào đó trong một thời điểm hay một thời gian dài. Có
nhiều loại khuyết tật và khuyết tật có ý nghĩa khác nhau trong từng bối cảnh cụ thể.
Phân loại quốc tế về Chức năng, Giảm khả năng và Sức khỏe (The international
Classification of Functioning, Disability and Health – ICF) của Tổ chức Y tế thế
giới (WHO) cho rằng: “Khuyết tật là một thuật ngữ chung để chỉ sự khiếm khuyết,
giảm thiểu chức năng hoạt động và sự tham gia. Nó bao hàm các quan điểm tiêu
cực và sự tương tác giữa một cá nhân (với một điều kiện sức khỏe) với các yếu tố
bao quanh cá nhân đó (yếu tố môi trường, yếu tố con người)” [6, tr.7]. Như vậy có
thể hiểu khuyết tật chỉ đến sự giảm thiểu chức năng hoạt động là hậu quả của sự
khiếm khuyết nào đó.
Người khuyết tật là người không bình thường về sức khỏe do các khuyết tật,
hoặc do bệnh tật làm hủy hoại, rối loạn các chức năng của cơ thể, hoặc do hậu quả
của những chấn thương dẫn đến những khó khăn trong đời sống và cần được xã hội
quan tâm giúp đỡ, bảo vệ. Người khuyết tật là người bị mất toàn phần hay một phần
khả năng, điều kiện để tự phục vụ mình, học tập và tham gia lao động. Những người
bị khiếm khuyết tay hoặc chân, bị liệt toàn thân hay một phần, bị khiếm thị, khiếm
thính, khuyết tật nói hoặc bị rối loạn chức năng cơ thể,... là những người khuyết tật
do sự sai lệch rõ ràng so với thể trạng bình thường của một con người.
Công ước của LHQ về quyền của người khuyết tật (2006) định nghĩa: “Người
khuyết tật bao gồm những người bị suy giảm về thể chất, thần kinh, trí tuệ hay giác
quan trong một thời gian dài, có ảnh hưởng qua lại với hàng loạt những rào cản có
12
thể cản trợ sự tham gia đầy đủ và hiệu quả của người khuyết tật vào xã hội trên cơ
sở bình đẳng với những người khác” [31, tr.143].
Công ước số 159 của ILO về phục hồi chức năng lao động và việc làm (của
người khuyết tật): “Theo Công Ước này, từ người khuyết tật dùng để chỉ một cá
nhân mà khả năng có một việc làm phù hợp, trụ lâu dài với công việc đó và thăng
tiến với nó bị giảm sút đáng kể do hậu quả của một khiếm khuyết về thể chất và tâm
thần được thừa nhận” [13].
Luật người khuyết tật được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 17/6/2010 và có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/01/2011 đã đưa ra cách giải thích thuật ngữ về người khuyết tật như sau:
“Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị
suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt,
h c tập gặp khó khăn [21]. Như vậy, người khuyết tật phải đủ 3 điều kiện là:
(1) Phải có khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc suy giảm chức
năng;
(2) Khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc suy giảm chức năng
phải được biểu hiện dưới dạng tật (một hoặc nhiều dạng tật);
(3) Việc khiếm khuyết bộ phận cơ thể hoặc suy giảm chức năng là nguyên
nhân làm cho người đó gặp khó khăn khi tham gia lao động, sinh hoạt, học tập.
Khái niệm người khuyết tật theo Luật người khuyết tật là khá đầy đủ, tương
đối bao quát được các cách hiểu khác nhau, đồng thời phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh của nước ta hiện nay. Vì vậy, trong phạm vi Luận văn này sử dụng khái niệm
người khuyết tật theo Luật người khuyết tật.
* Các dạng khuyết tật
Phân loại các dạng tật và các mức độ khuyết tật có các quan điểm khác nhau
của các nhà nghiên cứu nhưng nói chung thường dựa trên tiêu chí của sự khiếm
khuyết bộ phận cơ thể và mức độ suy giảm chức năng. Ở Việt Nam, việc phân loại
người khuyết tật dựa theo dạng tật và mức độ khuyết tật. Theo đó các dạng tật bao
gồm: khuyết tật vận động; khuyết tật nghe, nói; khuyết tật nhìn; khuyết tật thần
13
kinh, tâm thần; khuyết tật trí tuệ; khuyết tật khác. Mỗi dạng khuyết tật này có những
đặc điểm nhất định về tâm, sinh lý qua đó tác động đến các nhu cầu và sự hòa nhập
của người khuyết tật. Theo Nghị định số 28/2012/NĐ-CP [7], xác định các dạng tật
như sau:
- Khuyết tật vận động là tình trạng giảm hoặc mất chức năng cử động đầu, cổ,
chân, tay, thân mình dẫn đến hạn chế trong vận động, di chuyển.
- Khuyết tật nghe, nói là tình trạng giảm hoặc mất chức năng nghe, nói hoặc cả
nghe và nói, phát âm thành tiếng và câu rõ ràng dẫn đến hạn chế trong giao tiếp,
trao đổi thông tin bằng lời nói.
- Khuyết tật nhìn là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhìn và cảm nhận ánh
sáng, màu sắc, hình ảnh, sự vật trong điều kiện ánh sáng và môi trường bình
thường.
- Khuyết tật thần kinh, tâm thần là tình trạng rối loạn tri giác, trí nhớ, cảm xúc,
kiểm soát hành vi, suy nghĩ và có biểu hiện với những lời nói, hành động bất
thường.
- Khuyết tật trí tuệ là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhận thức, tư duy
biểu hiện bằng việc chậm hoặc không thể suy nghĩ, phân tích về sự vật, hiện tượng,
giải quyết sự việc.
- Khuyết tật khác là tình trạng giảm hoặc mất những chức năng cơ thể khiến
cho hoạt động lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn mà không thuộc các trường
hợp nêu trên.
* Các mức độ khuyết tật [7]
Theo Luật người khuyết tật và Nghị định số 28/2012/NĐ-CP, người khuyết tật
được chia theo 3 mức độ khuyết tật sau đây:
- Người khuyết tật đặc biệt nặng là người do khuyết tật dẫn đến không thể tự
thực hiện việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày. Do khuyết tật dẫn đến
bị mất hoàn toàn chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được các
hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu
14
sinh hoạt cá nhân hàng ngày nên cần có người theo dõi, trợ giúp chăm sóc hoàn
toàn. Vì vậy, người khuyết tật đặc biệt nặng cần có nhu cầu trợ giúp rất cao.
- Người khuyết tật nặng là người do khuyết tật dẫn đến không thể tự thực hiện
một số việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày. Do khuyết tật dẫn đến
mất một phần hoặc suy giảm chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực
hiện một số hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục
vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày nên cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm
sóc. Vì vậy, người khuyết tật nặng cần có nhu cầu trợ giúp.
- Người khuyết tật nhẹ là người khuyết tật không thuộc trường hợp ở hai nội
dung trên. Người khuyết tật nhẹ chỉ cần sự trợ giúp nhỏ.
1.1.2. Đặc điểm tâm lý và nhu cầu của người khuyết tật
* Một số đặc điểm tâm lý của người khuyết tật [9]
- Người khuyết tật là những người bị suy giảm chức năng (chức năng nhận
thức, vận động, giao tiếp,…). Do đó, họ gặp nhiều trở ngại trong cuộc sống, lao
động, học tập, sinh hoạt hàng ngày. Vì vậy, gia đình và xã hội cần có sự chăm sóc,
hỗ trợ như: chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng, cung cấp thiết bị, dụng cụ trợ
giúp, chỉnh hình, giáo dục đặt biệt,… Mặt khác, môi trường cộng đồng và gia đình
cần được thích ứng với hoàn cảnh người khuyết tật như thiết kế các công trình công
cộng, phương tiện sinh hoạt phù hợp với nhu cầu của người khuyết tật.
- Cơ chế bù trừ chức năng của các giác quan ở người khuyết tật được thể hiện
rõ nét. Khi họ mất đi khả năng hoạt động của cơ quan cảm giác nào đó thì ở họ khả
năng hoạt động của các cơ quan còn lại rất phát triển và sự nhận biết thế giới xung
quanh thực hiện chủ yếu thông qua giác quan còn lại này. Ví dụ như người khiếm
thị thường rất nhạy cảm với các kích thích da, đôi tay; người khiếm thính nhạy cảm
với kích thích rung động, biểu cảm phong phú. Vì vậy, khi thực hiện các hoạt động
đào tạo nghề cần vận dụng tối đa sự tham gia của các cơ quan cảm giác còn lại (như
dạy nghề cho người khuyết tật nghe, nói cần tăng cường sử dụng hình ảnh trực
quan, các động tác tay chân để mô phỏng; ngược lại với người khiếm thị thì phải
tích cực hỗ trợ bằng các phương tiện nghe, sờ,…).
15
- Người khuyết tật thường có tâm lý mặc cảm, tự ti, sống khép kín, ngại giao
tiếp với mọi người; họ cho rằng số phận mình không may mắn, là gánh nặng cho
người thân, gia đình. Do đó, họ dễ bị kích động, khó kiểm soát phản ứng khi bị
phân biệt đối xử và thiếu tôn trọng. Cộng đồng và xã hội cần giáo dục mọi người
tránh lời nói, cử chỉ, hành vi miệt thị, xa lánh; đồng thời, tạo điều kiện cho người
khuyết tật hòa nhập vào cuộc sống xã hội như những người bình thường. Nhân viên
tư vấn việc làm phải lưu ý đặc điểm này, khi giao tiếp tư vấn cho người khuyết tật
cũng như đánh giá khả năng làm việc của họ.
- Người khuyết tật gặp khó khăn trong giao tiếp với môi trường xung quanh.
Họ có đời sống nội tâm rất nhạy cảm và tế nhị, dễ cảm thông với những người đồng
cảnh ngộ và biết ơn khi được quan tâm, giúp đỡ. Vì vậy, người khuyết tật là những
người hoạt động rất tích cực trong nhóm tự giúp nhau, vượt qua khó khăn, chia sẽ
kinh nghiệm trong cuộc sống, việc làm.
- Một số người khuyết tật có ý chí, nghị lực cao, đặc biệt những người khuyết
tật về vận động nhưng trí tuệ phát triển bình thường hoặc thậm chí rất tốt. Họ
thường cố gắng học tập, tìm kiếm việc làm để không phụ thuộc vào người khác. Vì
vậy, với sự hỗ trợ của gia đình và cộng đồng, họ sẽ đạt được nhiều thành công trong
học tập và lao động sản xuất.
- Trong mối quan hệ tương tác với người khác trong gia đình, cộng đồng, họ
thường có cảm xúc buồn, thất vọng, hay tự ái. Do đó, người khuyết tật thường thiếu
những kỹ năng xã hội cần thiết, ít tiếp cận được với các chính sách hỗ trợ, các trung
tâm tư vấn giới thiệu việc làm, các cơ sở dạy nghề hoặc ngân hàng chính sách xã
hội, thiếu thông tin từ các nhà tuyển dụng.
- Nếu sống trong những gia đình khó khăn, người khuyết tật có cảm giác mình
bị bỏ rơi. Đa số người khuyết tật chưa được đi học hoặc học nghề đến nơi, đến chốn
là do tâm lý gia đình ít quan tâm đến nhu cầu đi học, việc làm của người khuyết tật.
* Nhu cầu của người khuyết tật [9]
Nhu cầu là cái gì đó được cho là cần thiết, đặc biệt khi nó được coi là thiết yếu
cho sự sinh tồn của một con người, một tổ chức hay bất kỳ thứ gì khác [29, tr.385].
16
Theo quan điểm của nhà tâm lý học A. Maslow, con người có 5 bậc thang nhu cầu
được xếp theo thứ tự từ nhu cầu vật chất cơ bản cần thiết đến nhu cầu tinh thần nâng
cao như sau:
- Nhu cầu về sinh lý: đây là các nhu cầu cần thiết để con người sống và tồn tại
như ăn, uống, tình dục, không khí sạch,…khi các nhu cầu này được thoả mãn, thì
con người có xu hướng tìm kiếm các đáp ứng nhu cầu cao hơn.
- Nhu cầu về an toàn: đây là những nhu cầu giúp con người có cuộc sống an
toàn, bình yên, ổn định, được sống trong sự bình ổn về kinh tế, về pháp luật, về trật
tự xã hội, không bị đe dọa…, khi nhu cầu sinh lý được thỏa mãn mà nhu cầu an
toàn chưa được đáp ứng, thì các nhu cầu an toàn sẽ là động lực điều khiển hành
động của con người. Con người mong muốn một thế giới bình yên, mọi sự mất ổn
định đều làm cho người ta lo lắng sợ hãi.
- Nhu cầu về xã hội: đây là nhu cầu được yêu thương, được kết bạn, được giao
tiếp, được tham gia vào các nhóm gắn bó về tình cảm. Những nhu cầu này giúp con
người có cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc, con người thấy được giá trị của mình qua
tương tác với những ngưới khác, và họ cũng học được qua người khác, hiểu và biết
cách sống chung cùng người khác, biết hoà nhập với mọi người, với cộng đồng, xã
hội.
- Nhu cầu được tôn tr ng: đây là nhu cầu giúp con người sống bình đẳng, tự
tin vào khả năng, nhu cầu về vị thế, uy tín, tôn trọng phẩm giá, không bị coi thường,
định kiến hoặc chối bỏ.
- Nhu cầu được thể hiện mình: đây là nhu cầu về thăng tiến, phát triển. Những
nhu cầu này giúp con người phấn đấu, vươn lên, hoàn thiện bản thân, tìm kiếm sự
hoàn hảo.
Các nhu cầu không tồn tại độc lập mà có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, gắn
kết, phụ thuộc và ảnh hưởng lẫn nhau. Trong cuộc sống, trước mắt con người mong
muốn thỏa mãn những nhu cầu bậc thấp, sau đó mới vươn tới những nhu cầu bậc
cao hơn.
17
Người khuyết tật có tất cả các nhu cầu như người bình thường và nhu cầu là
nguồn gốc thúc đẩy người khuyết tật hoạt động vươn tới những mục tiêu cho sự
phát triển của bản thân. Tuy nhiên, đối với người khuyết tật việc đáp ứng các nhu
cầu đó thường gặp khó khăn hơn, vì họ bị khiếm khuyết.
Vận dụng thuyết nhu cầu trong việc hỗ trợ việc làm cho người khuyết tật sẽ
giúp nhân viên xã hội nhận thức rằng dù là người khuyết tật nhưng họ cũng có
những nhu cầu cơ bản như những người bình thường khác và một trong những nhu
cầu đó là nhu cầu được hỗ trợ việc làm để ổn định cuộc sống, hòa nhập với cộng
đồng và phát triển trong xã hội. Do đó sau khi hỗ trợ và đảm bảo những nhu cầu ở
bậc thấp thì nhân viên xã hội cũng cần có kế hoạch và chiến lược để hỗ trợ người
khuyết tật. Ngoài ra vận dụng thuyết nhu cầu cũng rất hữu ích với nhân viên xã hội
trong việc biện hộ để giúp người khuyết tật có được việc làm. Cụ thể là không riêng
gì người khuyết tật mà cả những người bình thường như lãnh đạo trong các cơ sở
tuyển dụng cũng sẽ có những nhu cầu này. Vậy vận dụng thuyết này chúng ta sẽ
hiểu lãnh đạo và quản lý các doanh nghiệp cũng sẽ có những nhu cầu như được thể
hiện mình và được xã hội công nhận tôn trọng. Do đó ngoài yếu tố pháp luật, nếu
nhân viên xã hội khéo léo vận dụng việc biện hộ để đáp ứng những nhu cầu này của
các doanh nghiệp thì khả năng người khuyết tật có được việc làm sẽ cao hơn nhiều.
1.2. Lý luận về hỗ trợ việc làm đối với người khuyết tật
1.2.1. Một số khái niệm
* Khái niệm việc làm
Việc làm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với mỗi người vì nhờ nó con
người tạo thu nhập để đảm bảo các nhu cầu vật chất, tinh thần của mìnhvà các thành
viên trong gia đình, đồng thời là điều kiện để con người tham gia vào các hoạt động
xã hội, quan hệ xã hội, qua đó khẳng định vai trò, giá trị xã hội của mình.
Tại Hội nghị quốc tế lần thứ 13, các nhà thống kê về lao động của Tổ chức
Lao động quốc tế (ILO) đã đưa ra quan niệm về người có việc làm như sau: “Người
có việc làm là những người làm một việc gì đó, có được trả tiền công, lợi nhuận
hoặc được thanh toán bằng hiện vật hoặc những người tham gia vào các hoạt động
18
mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình, không nhận tiền
công hay hiện vật [3, tr.47]. Theo pháp luật của Việt Nam quy định tại Khoản 1
Điều 9 Chương 2 của Bộ luật lao động cũng như tại Khoản 2 Điều 3 của Luật việc
làm, đều định nghĩa: “Việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu nhập mà không bị
pháp luật cấm” [22].
Như vậy, việc làm là hoạt động lao động của con người nhằm tạo ra thu nhập
hoặc lợi ích cho bản thân và gia đình mà không bị pháp luật ngăn cấm, bao gồm:
- Việc làm hưởng lương: Những người làm các công việc được trả tiền lương
hoặc tiền công bằng tiền hoặc hiện vật theo hợp đồng lao động (bằng văn bản hoặc
bằng lời nói) với một người khác, tổ chức hoặc doanh nghiệp. Người khuyết tật
thường phải đối mặt với nhiều rào cản để có được việc làm hưởng lương.
- Việc làm tự chủ: Những người làm các công việc tự làm hoặc các công việc
gia đình để thu lợi nhuận cho bản thân hoặc tạo ra thu nhập cho gia đình nhưng
không được trả công bằng tiền hoặc hiện vật cho các công việc đó. Việc làm tự chủ
là cơ hội kiếm sống chính cho người khuyết tật ở các nước thu nhập thấp.
* Khái niệm tư vấn việc làm
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Tư vấn là đóng góp ý kiến về những vấn đề được
hỏi đến, nhưng không có quyền quyết định” [16, tr.457]. Các hoạt động tư vấn trong
thực tế như tư vấn xây dựng, tư vấn pháp luật, tư vấn việc làm,...
Tư vấn việc làm được xem như là hoạt động cung cấp thông tin về thị trường
lao động, cho lời khuyên về học nghề, về công việc, trợ giúp những khó khăn tâm lí
hay hướng dẫn cho người lao động khi họ có nhu cầu tìm việc làm.
* Khái niệm giới thiệu việc làm
Giới thiệu việc làm là hoạt động trong đó các tổ chức hoặc cá nhân có những
thông tin về chỗ việc làm còn trống và giới thiệu cho người tìm việc đến địa chỉ của
người sử dụng lao động để tìm hiểu và có thể đi đến thỏa thuận về việc làm; hoặc
thông tin về người có nhu cầu làm việc cung cấp cho người sử dụng lao động tiếp
xúc và có thể đi đến những thỏa thuận tuyển dụng [33, tr.32].
19