Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Thi hành án treo từ thực tiễn thành phố biên hòa, tỉnh đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (658.69 KB, 69 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐINH XUÂN THÙY

THI HÀNH ÁN TREO TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA
TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hồ Chí Minh, năm 2020

1


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐINH XUÂN THÙY

THI HÀNH ÁN TREO TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN HỊA
TỈNH ĐỒNG NAI

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số:8.38.01.04

Người hướng dẫn: PGS.TS. TRẦN ĐÌNH NHÃ

Hồ Chí Minh, năm 2020

2




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn “Thi hành án treo từ thực tiễn thành phố Biên
Hòa, tỉnh Đồng Nai”là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tơi. Các số
liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ chính xác, tin cậy và trung thực.
Những kết luận khoa học trong luận văn chưa từng được công bố trong các
cơng trình khoa học khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Đinh Xn Thùy

3


Mục lục
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN TREO
......................................................................................................................... 12
1.1. Khái niệm, đặc điểm thi hành án hình sự và thi hành án treo .......... 12
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm thi hành án hình sự ............................................ 12
1.1.2. Khái niệm thi hành án treo ......................................................................... 15
1.1.3. Đặc điểm thi hành án treo ........................................................................... 17
1.2. Chủ thể và nội dung của thi hành án treo .................................................... 20
1.2.1. Chủ thể thi hành án treo .............................................................................. 20
1.2.2. Nội dung thi hành án treo............................................................................ 24
1.3. Pháp luật điều chỉnh công tác thi hành án treo. ....................................... 28

1.3.1. Pháp luật điều chỉnh công tác thi hành án treo trước khi Luật
thi hành án hình sự có hiệu lực thi hành ............................................................ 28
1.3.2. Quy định của Luật thi hành án hình sự về thi hành án treo....... 30
Chương 2
THỰC TRẠNG THI HÀNH ÁN TREO TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ
BIÊN HỊA, TỈNH ĐỒNG NAI ..................................................................... 35
2.1. Tình hình thi hành án treo trên địa bàn thành phố ................................ 35
2.1.1. Đặc điểm về địa lý, dân cư, kinh tế, xã hội và hoạt động của các
loại tội phạm, vi phạm pháp luật trên địa bàn thành phố ............................ 35
2.1.2. Số lượng người chấp hành án treo trên địa bàn thành phố từ
năm 2014 đến năm 2019 .............................................................................................. 37

4


2.1.3. Các chủ thể và thực trạng thi hành án treo trên địa bàn thành
phố 41
2.2. Một số tồn tại, khó khăn trong cơng tác thi hành án treo trên địa
bàn thành phố và nguyên nhân .................................................................................. 44
2.2.1. Đối với các chủ thể .......................................................................................... 44
2.2.2. Nguyên nhân của các tồn tại, khó khăn................................................ 48
Chương 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH ÁN TREO TRÊN ĐỊA
BÀN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI .................................... 53
3.1. Yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả thi hành án treo và những yếu
tố ảnh hưởng đến công tác thi hành án treo trong thời gian tới .............. 53
3.2. Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về thi hành án
treo55
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật thi hành án treo
trên địa bàn thành phố.................................................................................................... 56

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 66

5


1. Tính cấp thiết của đề tài

MỞ ĐẦU

Hệ thống pháp luật hình sự là một trong những cơng cụ thiết yếu để nhà
nước quản lý, duy trì trật tự xã hội, góp phần bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền
và lợi ích của cá nhân, pháp nhân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Để hệ
thống pháp luật hình sự được đảm bảo thực thi trong thực tiễn thì bên cạnh
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự là hoạt động quan trọng,
là khâu cuối cùng bảo đảm hiệu quả thực hiện quyền tư pháp, hiện thực hóa
những bản án mà Tịa án đã tuyên. Bộ luật hình sự quy định hệ thống hình
phạt phong phú, có mức độ phân hóa cao để áp dụng với nhiều loại tội phạm,
người phạm tội, là cơ sở pháp lý cho hoạt động thi hành án hình sự.
Mục đích của hình phạt trong pháp luật hình sự,ngồi việc giáo dục
những người phạm tội, ngăn chặn tội phạm mới thì cịn là trừng phạt, răn đe.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, người phải chịu hình phạt tù có
thời hạn khơng nhất thiết phải chấp hành hình phạt đó mà họ có thể được
hưởng án treo.
Phạt tù cho hưởng án treo là một chế định pháp luật độc lập được quy
định trong Bộ luật hình sự Việt Nam. Phạt tù cho hưởng án treo thể hiện tính
nhân đạo, khoan hồng của Đảng và Nhà nước ta đối với người phạm tội bị kết
án phạt tù.
Tuy nhiên, việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo hiện nay ở
nhiều địa phương chưa được thực hiện tốt, trong đó có thành phố Biên Hịa,

tỉnh Đồng Nai do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhất là từ các quy định hiện
hành về chế định án treo và việc thi hành án treo cũng như việc phối hợp giữa
các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình thi hành án treo.

6


Từ những phân tích trên, việc nghiên cứu sâu và toàn diện về chế định
thi hành án treo và thực tiễn thực hiện trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh
Đồng Nai là cấp thiết. Nghiên cứu thành công đề tài sẽ góp phần hồn thiện
các quy định về thi hành án treo và nâng cao hiệu quả thi hành hình phạt tù
cho hưởng án treo trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai cũng ở các
địa phương khác. Với ý nghĩa đó, tơi chọn nghiên cứu đề tài: “Thi hành án
treo từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai” làm luận văn thạc sĩ
luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Với tất cả các quốc gia, thi hành án hình sự đều chiếm vị trí quan trọng
trong chính sách hình sự vì hoạt động này không chỉ nhằm đạt được hiệu quả
cao khi thực thi quyền lực tư pháp mà còn thiết thực bảo vệ quyền con người,
quyền công dân. Đây cũng là lý do có khá nhiều cơng trình nghiên cứu khoa
học ở các cấp độ khác nhau và ở nhiều khía cạnh khác nhau xung quanh vấn
đề này.
Hoạt động thi hành án hình sự nói chung và thi hành hình phạt tù cho
hưởng án treo nói riêng được phân tích trong một số giáo trình và sách tham
khảo như: Tài liệu tập huấn chuyên sâu Luật Thi hành án hình sự, Nhà xuất
bản (Nxb) Lao động, năm 2011, do GS.TS. Nguyễn Ngọc Anh chủ biên; Giáo
trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, tái bản lần thứ 5,
năm 2009, của tập thể tác giảdo TS. Hoàng Thị Minh Sơn chủ biên; Sách
chuyên khảo: Pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận
và thực tiễn, Nxb Tư pháp, năm2006, của tập thể tác giả do PGS.TS Võ

Khánh Vinh - PGS.TS Nguyễn Mạnh Kháng chủ biên; Sách chuyên khảo:
Một số vấn đề về thi hành án hình sự, Nxb Cơng an nhân dân, năm 2002, của
TS. Trần Quang Tiệp...Các cơng trình nghiên cứu chun sâu này đề cập đến
7


việc thi hành các loại hình phạt khác nhau, trong đó có hình phạt tù cho
hưởng án treo. Tuy nhiên,hoạt động thi hành án treo được đề cập rất ít trong
các tài liệu này. Hoạt động thi hành án hình sự nói chung và hoạt động thi
hành án treo nói riêng cũng được đề cập trong một số báo cáo, đề tài, cơng
trình nghiên cứu khoa học độc lập khác.
Ở nước ta, hình phạt án treo là chế định luật được đưa vào Luật Hình sự,
Luật Tố tụng hình sự, một số văn bản hướng dẫn thi hành Luật Hình sự, Luật
Tố tụng hình sự, và sau này là Luật Thi hành án hình sự cùng một số văn bản
hướng dẫn thi hành Luật Thi hành án hình sự.
Qua nghiên cứu, tìm hiểu, tác giả thấy từ trước đến nay chưa có một đề
tài nghiên cứu nào đề cập đến tình hình thi hành án treo trên địa bàn thành
phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài này khơng trùng
lắp với bất kỳ cơng trình nào đã được nghiên cứu trước đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.

Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận văn là:Nghiên cứu một số vấn đề lý luận,
các quy định của pháp luật và thực tiễn thi hành án treo trên địa bàn thành phố
Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, từ đó mà đánh giá và đưa ra những giải pháp phù
hợp để hoàn thiện những quy định của pháp luật về chế định này cũng như
các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo trong
thực tiễn.

3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Với mục đích nghiên cứu đã nêu ở trên, luận văn sẽ tập trung thực hiện
một số nhiệm vụ nghiên cứu chính như sau:

8


- Làm rõ một số nội dung cơ bản về lý luận và quy định pháp luật về thi
hành án hình sự nói chung và chế định án treo nói riêng.
- Nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện thực tiễn thi hành án treo trên
địa bàn thành phố Biên Hịa, tỉnh Đồng Nai, có so sánh, đối chiếu với tình
hình chung của cả nước.
- Phân tích, làm rõ những kết quả đạt được cũng như những hạn chế,
vướng mắc cịn tồn tại trong q trình thi hành án treo trên địa bàn thành phố
Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai từ năm 2014 đến năm 2019.
- Trên cơ sở nghiên cứu, tìm và đề xuất các giải pháp hồn thiện quy
định của pháp luật về chế định thi hành án treo và giải pháp tăng cường hiệu
quả trong thực tiễn thi hành án treo ở thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai nói
riêng và cả nước nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.

Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định của pháp luật
Việt Nam về chế định án treo và thực trạng thi hành án treo trên địa bàn thành
phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

4.2.

Phạm vi nghiên cứu

- Về không gian: Tác giả khảo sát, nghiên cứu những vấn đề lý luận về
hình phạt tù cho hưởng án treo, thực trạng thực thi hình phạt án treo trên địa
bàn thành phố Biên Hịa, tỉnh Đồng Nai, nguyên nhân của những tồn tại, hạn
chế trong quá trình thi hành và các biện pháp khắc phục nâng cao hiệu quả thi
hành hình phạt này tại địa phương nghiên cứu.
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn thi hành án treo trên địa
bàn thành phố trong khoảng thời gian 05 năm (từ năm 2014 đến năm 2019).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

9


Phương pháp luận được tác giả sử dụng để nghiên cứu đề tài là phương
pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về
nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng nhà
nước pháp quyền, về cải cách tư pháp được thể hiện qua các Nghị quyết của
Đảng.
Trong quá trình nghiên cứu sâu đề tài, tác giả cũng vận dụng những
phương pháp đặc thù, cụ thể của nghiên cứu khoa học pháp luật hình sự, tố
tụng hình sự như: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp quy nạp,
phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp diễn dịch, phương pháp thống
kê, điều tra xã hội học để tổng hợp tri thức, đưa ra những luận chứng xác thực
về các vấn đề được nghiên cứu trong luận văn.
Thêm nữa, việc nghiên cứu luận văn còn dựa trên các số liệu thực tiễn
của các ngành Cơng an, Kiểm sát, Tịa án thành phố Biên Hòa trong những
năm từ 2014 đến năm 2019, các thông tin thu thập trên mạng Internet và điều

tra xã hội học để tổng hợp, phân tích, đánh giá, đưa ra cách nhìn đúng đắn và
tồn diện về thực trạng thi hành án treo trên địa bàn thành phố Biên Hịa, tỉnh
Đồng Nai nói riêng cũng như liên hệ tình trạng trên cả nước nói chung.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là cơng trình nghiên cứu khoa học sâu, có tính hệ thống về
thực trạng thi hành án treo trên địa bàn một thành phố. Kết quả nghiên cứu
của luận văn có ý nghĩa quan trọng, góp phần giải quyết, hồn thiện nhiều vấn
đề trên phương diện lý luận và thực tiễn thi hành án treo.
Tác giả tổng hợp những quan điểm khoa học về hình phạt tù cho hưởng
án treo để xây dựng khái niệm hình phạt tù cho hưởng án treo một cách hoàn
thiện, đầy đủ nhất, đảm bảo tính chính xác, khoa học đồng thời làm rõ quá

10


trình phát triển, hồn thiện pháp luật và các đặc điểm, nội dung cơ bản của thi
hành án treo trong mối tương quan với một số chế định khác.
Ngoài ra, việc nghiên cứu, đánh giá trong luận văn sẽ làm sáng tỏ thực
trạng thi hành án treo trên phạm vi cả nước nói chung và địa bàn thành phố
Biên Hịa, tỉnh Đồng Nai nói riêng. Qua đó, luận văn chỉ ra những tồn tại, hạn
chế cũng như những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thi hành án treo,
nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế. Từ đó, đề xuất, đưa ra những giải
pháp để nâng cao hiệu quả thi hành hình phạt này trong thực tiễn.
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về thi hành án treo
Chương 2: Thực trạng thi hành án treo trên địa bàn thành phố Biên Hòa,
tỉnh Đồng Nai
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án treo trên địa bàn
thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai


11


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN TREO
1.1. Khái niệm, đặc điểm thi hành án hình sự và thi hành án treo
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm thi hành án hình sự
Hiện nay, trong giới nghiên cứu khoa học hình sự có nhiều quan điểm
về khái niệm thi hành án hình sự, nhưng tựu chung lại có hai quan điểm
chính:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, thi hành án hình sự là một giai đoạn đặc
biệt của tố tụng hình sự, là giai đoạn cuối của tố tụng hình sự. Tiêu biểu cho
quan điểm này là nhà luật học Liên Xô cũ M.A Trenxốv và một số nhà luật
học khác như TS. Nguyễn Hữu Thư, PGS.TS Nguyễn Tất Viễn. Theo đó, các
nhà luật học này cho rằng thi hành án là hoạt động bảo vệ pháp luật, nhằm
đảm bảo cho bản án của Tòa án được thi hành. Vì vậy, việc Tịa án tun bố
bản án chưa phải là kết thúc hoạt động tư pháp. Chỉ khi đảm bảo bản án được
thực thi trong thực tiễn, đảm bảo bản án được thực thi đầy đủ thì mới kết thúc
hoạt động tố tụng hình sự. Do đó, thi hành án hình sự chính là giai đoạn cuối
cùng của hoạt động tố tụng hình sự. Thi hành các bản án là giai đoạn tiếp theo
và gắn liền với các hoạt động tố tụng hình sự trước đó, khơng thể tách rời.
Tuy cơ quan thi hành án không thuộc hệ thống các cơ quan tố tụng hình sự
nhưng hoạt động của các cơ quan thi hành án lại thực hiện nhiệm vụ tư pháp,
thực hiện giai đoạn cuối của hoạt động tố tụng hình sự.
12


Hơn nữa, theo quan điểm này thì thi hành án hình sự sở dĩ được coi là
một giai đoạn đặc biệt trong hoạt động tố tụng hình sự cịn bởi vì nó được quy
định trong Luật tố tụng hình sự ở nhiều quốc gia. Ngay trong Điều 1, Bộ luật

tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 quy định phạm vi điều chỉnh của Bộ luật
Tố tụng hình sự là: “Bộ luật tố tụng hình sự quy định trình tự, thủ tục khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự; (…)”[6] .Điều 1, Bộ luật tố
tụng hình sự Việt Nam 2015: “Bộ luật Tố tụng hình sự quy định trình tự, thủ
tục tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử và một số thủ tục thi hành án hình sự; (…)”[11].
Quan điểm thứ hai cho rằng, thi hành án hình sự là một lĩnh vực hành
chính tư pháp độc lập, không liên quan tới hoạt động tố tụng hình sự, được
điều chỉnh bởi ngành Luật thi hành án hình sự. Tiêu biểu cho quan điểm này
là GS.TSKH Đào Trí Úc, GS.TS Võ Khánh Vinh,PGS.TS Trần Văn Độ. Họ
cho rằng thi hành án hình sự là một lĩnh vực độc lập bởi lẽ nó khơng chứa
đựng các quan hệ tố tụng. Theo đó, khi nói đến quan hệ trong tố tụng hình sự
là nói đến quan hệ ngang quyền trong việc tìm kiếm bằng chứng giữa bên
buộc tội và bên bị buộc tội, tranh luận giữa phiên tòa để tìm ra sự thật khách
quan để quyết định áp dụng hay khơng áp dụng hình phạt với người bị buộc
tội. Trong khi đó, hoạt động thi hành án hình sự khơng có tính bình đẳng,
ngang quyền này. Thi hành án hình sự hồn tồn là sự bắt buộc, thể hiện
quyền uy tuyệt đối của nhà nước với người bị thi hành bản án. Hay nói cách
khác, thi hành án hình sự khơng phải là hoạt động tư pháp mà là hoạt động
hành pháp.
Hoạt động thi hành án hình sự khác với các hoạt động tố tụng hình sự
mặc dù có quan hệ chặt chẽ với các hoạt động tố tụng hình sự. Thủ tục thi
hành án khơng phải là thủ tục tố tụng mà là thủ tục chấp hành, điều hành.

13


Theo tác giả, quan điểm thứ nhất bị nhầm lẫn khi cho rằng: trong một
văn bản quy phạm pháp luật chỉ có thể chứa đựng các quy phạm pháp luật của
ngành luật đó. Thực tế cho thấy, trong văn bản quy phạm pháp luật có thể

chứa đựng các quy phạm của nhiều ngành luật khác nhau. Do đó, khơng phải
mọi quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự đều thuộc về ngành tố tụng hình
sự. Mặc dù Bộ luật tố tụng hình sự có thể quy định một số thủ tục thi hành án,
song do tố tụng hình sự kết thúc từ khi bản án có hiệu lực pháp luật nếu có thể
nói thi hành án hình sự nằm ngồi phạm vi tố tụng hình sự. Như vậy, việc xác
định đúng bản chất của thi hành án hình sự có ý nghĩa lớn trong nhiều phương
diện, đặc biệt là tạo là mơ hình quản lý, hoạt động nhằm nâng cao hiệu quả
của cơng tác thi hành án hình sự.
Từ những phân tích trên và q trình nghiên cứu, tìm hiểu về thi hành
án hình sự, tác giả cho rằng: thi hành án hình sự là việc các cơ quan nhà nước,
tổ chức xã hội và các cá nhân có liên quan đến bản án phối hợp đưa người bị
kết án phải chấp hành bản ántrên thực tế nhằm phát huy hiệu lực của bản án
đã tuyên.
Về bản chất, thi hành án hình sự khơng phải một giai đoạn của tố tụng
hình sự, mang tính chất của hoạt động tư pháp nặng về hành pháp mà thi hành
án hình sự mang tính hành chính-tư pháp. Mục đích của thi hành án hình sự
khác với mục đích của tố tụng hình sự. Thi hành án là quá trình tiến hành các
hoạt động nhằm thực hiện bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật. Mối quan hệ giữa các chủ thể trong thi hành án hình sự là tổ chức thi
hành, có tính hành chính, mệnh lệnh, bắt buộc chấp hành.
Theo đó, thi hành án hình sự mang những đặc điểm riêng biệt như là
hoạt động có tính chấp hành; là dạng hoạt động có tính quản lý; kết hợp giữa
phương pháp giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế, mệnh lệnh bắt buộc; chủ
14


thể tham gia gồm nhiều cơ quan chức năng và tổ chức xã hội dựa theo quy
định của pháp luật.
Nói thi hành án là hoạt động có tính thi hành bởi lẽ thi hành án chỉ
được tiến hành trong khuôn khổ pháp luật cho phép nhằm hiện thực hóa, thi

hành các quyết định, bản án của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật. Mục đích
cuối cùng của thi hành án là hiện thực hóa bản án của Tịa chứ không phải ra
các văn bản áp dụng pháp luật hay các văn bản mang tính điều hành của cơ
quan hành chính.
Bởi vậy thi hành án phải kết hợp giữa phương pháp giáo dục, thuyết
phục và cưỡng chế, mệnh lệnh bắt buộc. Trong đó, phương pháp giáo dục,
thuyết phục tuy có ý nghĩa lớn nhưng mang tính đặc thù của thi hành án lại là
phương pháp cưỡng chế, mệnh lệnh bắt buộc do bản chất của việc thi hành án
chính là thực thi quyết định, bản án của Tịa đã có hiệu lực pháp luật. Vì vậy,
ngay cả việc người phải thi hành án tự nguyện thi hành cũng là thực hiện
“mệnh lệnh” bắt buộc của Tòa đã tuyên trong bản án trước đó.
1.1.2. Khái niệm của thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo
Trong lý luận và qua thực tiễn áp dụng án treo ở nước ta trong những
năm gần đây có thể thấy tồn tại rất nhiều quan niệm, cách hiểu khác nhau về
án treo. Án treo là một chế định hình sự ra đời rất sớm trong tư pháp hình sự
Việt Nam và hiện diện trong khoa học pháp luật hình sự Việt Nam. Trên thế
giới, khơng phải luật hình sự quốc gia nào cũng có chế định án treo.
Tại Việt Nam, chế định “án treo” xuất hiện từ Sắc lệnh số 21/SL ngày
14/02/1946 đến nay với nhiều cách hiểu và lý giải khác nhau. Trong nhiều
công trình nghiên cứu luật học “án treo” được hiểu là “tạm đình chỉ việc thi

15


hành án” hoặc là một biện pháp “hỗn hình phạt tù có điều kiện” hay “biện
pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện”.
Tổng hợp từ những phân tích trên, có thể hiểu “án treo” là một chế định
pháp luật hình sự, là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện được
Tịa áp dụng đối với những người phạm tội hình sự, khơng buộc họ bị giam
giữ mà họ được “tại ngoại” khi có đầy đủ căn cứ và điều kiện theo pháp luật

quy định về mức phạt tù, thân nhân người phạm tội, các tình tiết giảm
nhẹ… “Án treo” khơng phải là một loại hình phạt mà nó chỉ là một biện pháp
miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Điều đó có nghĩa là, khi Tồ án xét
xử một người phạm tội thì Tồ án phải căn cứ vào tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi, cũng như hậu quả xảy ra để ấn định mức phạt tù
tương xứng với hành vi phạm tội, sau đó mới xét đến các điều kiện mà pháp
luật quy định để xem xét có nên cho người đó được hưởng án treo hay khơng.
Luật Thi hành án hình sự năm 2010 quy định tại khoản 5 Điều 3: “Thi
hành án treo là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của Luật
này giám sát, giáo dục người bị phạt tù được hưởng án treo trong thời gian
thử thách”[8].Quy định này không thay đổi khi Luật Thi hành án hình sự
2019 ra đời thay thế Luật Thi hành án hình sự 2010.
Như vậy thi hành án treo là quá trình cơ quan, người có thẩm quyền
theo quy định của Luật Thi hành án hình sự giám sát người bị phạt tù được
hưởng án treo (được miễn hình phạt tù có điều kiện) trong thời gian thử thách.
Hay nói cách khác, người được hưởng án treo khơng phải chấp hành hình
phạt trong trại giam, khơng bị cách ly gia đình, cộng đồng, xã hội nhưng vẫn
bị tước một số quyền tự do nhất định như: không được di chuyển khỏi địa
phương cư trú…và chịu sự giám sát của cơ quan, người có thẩm quyền theo
quy định.
16


1.1.3. Đặc điểm của thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo
Vì án treo khơng phải là một trong những hình phạt cho người phạm tội
theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam nên thi hành hình phạt tù cho
hưởng án treo ngoài những đặc điểm chung của thi hành án hình sự thì thi
hành hình phạt tù cho hưởng án treo còn mang nhiều điểm khác biệt với thi
hành các hình phạt khác trong thi hành hình sự.
Thứ nhất: Do án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều

kiện, khơng phải là hình phạt trong quy định của Bộ luật hình sự. Theo Điều
30 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định: “Hình
phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định
trọng Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp
nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của
người, pháp nhân thương mại đó.”[12]Và các hình phạt đối với người phạm
tội được quy định cụ thể trong Điều 32 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ
sung năm 2017.
Từ quy định trên có thể khẳng định thi hành hình phạt tù cho hưởng án
treo khơng phải đơn thuần là thi hành một loại hình phạt cho người bị kết án
theo Bộ luật hình sự. Thi hành án treo chỉ là thi hành biện pháp miễn chấp
hành hình phạt tù khi người phạm tội bị kết án phạt tù có đủ các điều kiện
theo quy định của pháp luật hình sự hiện hành của Việt Nam. Tuy nhiên, thi
hành án treo là một bộ phận cấu thành của công tác thi hành án hình sự, nên
nó là hoạt động hành chính - tư pháp của cơ quan, tổ chức, người có thẩm
quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định để đưa bản án,
quyết định của Tòa án được thực hiện trên thực tế, đảm bảo lợi ích của Nhà
nước, tổ chức và cơng dân, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.

17


Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy
định về chế định án treo như sau:
“1. Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người
phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy khơng cần phải bắt chấp hành
hình phạt tù, thì Tịa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ
01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo
quy định của Luật Thi hành án hình sự.
2.


Trong thời gian thử thách, Tịa án giao người được hưởng án

treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa
phương nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án
có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong
việc giám sát, giáo dục người đó.
3.

Tịa án có quyền áp dụng đối với người được hưởng án treo hình

phạt bổ sung nếu trong điều luật áp dụng có quy định hình phạt này.
4.

Người được hưởng án treo chấp hành được một phần hai thời

gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có
trách nhiệm giám sát, giáo dục, Tịa án có thể quyết định rút ngắn thời gian
thử thách.
5.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi

phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì
Tịa án có thể quyết định buộc người người đó phải chấp hành hình phạt tù
của bản án cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới
thì Tịa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng
hợp với hình phạt của bản án mới theo theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật
này.”
Thứ hai:Từ quy định về chế định án treo như trên, tác giả rút ra đặc

điểm thứ hai của thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo là thi hành án treo là
18


một hình thức thi hành hình phạt tù có điều kiện, là thi hành miễn hình phạt tù,
có tính nhân đạo sâu sắc. Đặc điểm này xuất phát từ bản chất của chế định án
treo trong pháp luật hình sự Việt Nam.
Người chấp hành án treo không bị cách ly hoàn toàn khỏi đời sống xã
hội, quyền tự do thân thể của người bị kết án vẫn được đảm bảo. Họ chỉ bị
hạn chế một số quyền nhất định do pháp luật quy định và nhận được sự quan
tâm, tạo điều kiện tối đa để làm ăn, sinh sống và chứng tỏ sự hối cải, hồn
lương của mình ngay trong mơi trường xã hội bình thường, dưới sự giám sát,
giáo dục của gia đình, Ủy ban nhân dân cấp xã và các cơ quan, tổ chức, đoàn
thể xã hội nơi người được hưởng án treo cơng tác, cư trú. Tính nhân đạo trong
thi hành án treo còn được thể hiện ở phương pháp thi hành án là lấy giáo dục
thuyết phục, cảm hóa, động viên, khuyến khích là chính, hạn chế việc áp dụng
các biện pháp cưỡng chế hoặc mệnh lệnh hành chính, giúp người được hưởng
án treo nhận ra lỗi lầm, tự nguyện sửa chữa, cải tạo thành người có ích cho xã
hội. Tính nhân đạo này được thể hiện rõ tại Điều 65 Luật Thi hành án hình sự
2010 và sau này được thay thế bằng Điều 88 Luật Thi hành án hình sự 2019.
Thứ ba, thi hành án treo không giao cho một cơ quan chuyên trách thực
hiện mà cần sự phối hợp của nhiều cơ quan, tổ chức xã hội, thể hiện tính xã
hội hóa trong cơng tác thi hành án ở nước ta. Trong đó Ủy ban nhân dân cấp
phường, xã hoặc đơn vị quân đội giữ vai trò chủ đạo, quan trọng, là cơ quan,
đơn vị trực tiếp được giao giám sát, giáo dục người được hưởng án treo. Sự
phối hợp đồng bộ giữa các tổ chức chính trị xã hội như: mặt trận Tổ quốc ở cơ
sở, hội phụ nữ,…và gia đình người chấp hành án treo giúp tăng cường hiệu
quả của việc thi hành án treo.
Thứ tư, thi hành án treo không chỉ làm giảm áp lực chi phí cho nhà
nước (do tính chất khơng phải thi hành án tại trại giam nên không phát sinh

19


các chi phí về cơ sở trại giam, quản lý, bảo vệ, y tế, giáo dục… phạm nhân),
ngược lại, việc thi hành án treo làm cho người chấp hành án và gia đình người
chấp hành án khơng bị mất đi nguồn thu nhập (do người chấp hành án treo
vẫn có quyền tham gia lao động theo quy định của pháp luật), đặc biệt với
những gia đình mà người chấp hành án treo là lao động chính hoặc lao động
duy nhất. Người chấp hành án treo cũng không mất thời gian tìm kiếm cơ hội
việc làm sau khi chấp hành án xong, khơng mất thời gian để tái hịa nhập cộng
đồng.
Như vậy có thể thấy, thi hành án treo là một bộ phận của thi hành án
hình sự ở nước ta. Thi hành án treo mang tính nhân đạo sâu sắc, nếu thực hiện
tốt, thi hành án treo vẫn bảo đảm được tính răn đe, trừng trị của pháp luật
đồng thời đảm bảo được hiệu quả xã hội cao, mang lại lợi ích về kinh tế cho
nhà nước, xã hội và gia đình của người được hưởng án treo.
1.2.

Chủ thể và nội dung của thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo
Như đã phân tích ở trên, do thi hành án treo có đặc điểm là người chấp

hành án khơng bị hạn chế tự do trong trại giam và có tính xã hội hóa cao nên
có rất nhiều chủ thể tham gia trong q trình thực hiện cơng tác thi hành hình
phạt tù cho hưởng án treo.
1.2.1. Chủ thể thi hành án treo
- Tòa án nhân dân
Theo khoản 1 Điều 102 Hiến pháp 2013 thì: “Tịa án nhân dân là cơ
quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền
tư pháp” và tại Điều 106 Hiến pháp 2013 quy định: “Bản án, quyết định của
Tồ án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân

tôn trọng; cơquan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp

20


hành.”[9]. Như vậy, Tòa án nhân dân là cơ quan ra quyết định thi hành án và
đó là căn cứ để cơng tác thi hành án có thể bắt đầu được thực hiện theo Luật
thi hành án hình sự. Cụ thể, tại khoản 1 Điều 364 Bộ luật Tố tụng hình sự
2015 quy định: “Chánh án Tịa án đã xét xử sơ thẩm có quyền ra quyết định
thi hành án hoặc ủy quyền cho Chánh án Tòa án khác cùng cấp ra quyết định
thi hành án”[11]. Theo Điều 365 của Bộ luật này, Tịa án cịn có trách nhiệm
giải thích, sửa chữa những điểm chưa rõ trong quyết định thi hành án trong
trường hợp cơ quan thi hành án hình sự, Viện kiểm sát, người bị hại, người
chấp hành thi hành án, đương sự liên quan đến việc thi hành án yêu cầu. Cụ
thể: Thẩm phán chủ tọa phiên tòa đã ra quyết định, bản án có trách nhiệm sửa
chữa, giải thích những điểm chưa rõ trong bản án, quyết định thi hành án, nếu
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa khơng thực hiện được thì việc giải thích, sửa
chữa này sẽ do Chánh án Tòa án đã ra bản án, quyết định thực hiện.
Ngồi ra, Tịa án nhân dân cịn có quyền quyết định buộc người phạm
tội được hưởng án treo vi phạm pháp luật tiếp tục chấp hành án phạt tù hoặc
quyết định việc rút ngắn thời gian thử thách, quyết định đình chỉ thi hành án
khi người đang hưởng án treo chết… theo quy định của pháp luật.
- Viện kiểm sát nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân sẽ kiểm sát các hoạt động thi hành án hình sự,
pháp luật hiện hành đã giao trách nhiệm, quyền hạn cụ thể để Viện kiểm sát
có thể kiểm sát chặt chẽ việc tuân theo pháp luật của Tòa án, tổ chức, đơn vị,
cá nhân có liên quan trong việc thi hành án treo nhằm đảm bảo các bản án,
quyết định đó thi hành đúng pháp luật, đầy đủ, kịp thời và thống nhất.
- Cơ quan quản lý thi hành án


21


Cơ quan quản lý thi hành án hình sự bao gồm cơ quan quản lý thi
hành án hình sự thuộc Bộ Công an và cơ quan quản lý thi hành án hình sự
thuộc Bộ Quốc phịng, là đầu mối giúp Chính phủ và chính quyền địa phương
quản lý về cơng tác thi hành án hình sự nói chung và thi hành thi hành án án
treo nói riêng. Trong đó, ở Trung ương là Tổng cục Cảnh sát thi hành án hình
sự và hỗ trợ tư pháp là cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Cơng an
(nay là Cục C10, C11 Bộ Công an), Cục Điều tra hình sự Bộ Quốc phịng
đang thực hiện nhiệm vụ của cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ
Quốc phòng.
Ở địa phương cơ quan quản lý thi hành án hình sự là các cơ quan cơng
an, qn đội cấp tương ứng.
Theo khoản 2, Điều 11 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 thì Cơ quan
trực tiếp thi hành án hình sự gồm: “a) Trại giam thuộc Bộ Cơng an, trại giam
thuộc Bộ Quốc phịng, trại giam thuộc quân khu (sau đây gọi là trại giam); b)
Cơ quan thi hành án hình sự Cơng an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
(sau đây gọi là cơ quan thi hành án hình sự Cơng an cấp tỉnh); c) Cơ quan thi
hành án hình sự Cơng an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là cơ quan thi hành án hình sự Công an
cấp huyện); d) Cơ quan thi hành án hình sự quân khu và tương đương (sau
đây gọi là cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu).”[13]. Đây là những cơ
quan có liên quan trực tiếp đến cơng tác thi hành án treo, được thành lập và
chính thức đi vào hoạt động sau khi Luật Thi hành án hình sự năm 2010 ra
đời, góp phần tạo sự thống nhất trong chỉ đạo, quản lý và tăng cường hiệu lực,
hiệu quả của cơng tác thi hành án hình sự.

22



- Ủy ban nhân dân cấp xã: Là một trong những cơ quan được giao một số
nhiệm vụ thi hành án hình sự, trong đó có việc quản lý, giám sát những người
chấp hành án treo trên địa bàn xã, phường.
- Cơng an cấp xã: Có nhiệm vụ tham mưu, trực tiếp giúp Ủy ban nhân dân
cấp xã thực hiện nhiệm vụ theo Luật Thi hành án hình sự. Cơng an cấp xã cần
gặp gỡ, động viên người bị kết án chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, báo cáo
định kỳ với thủ trưởng cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục về tình hình chấp
hành án, báo cáo cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục khi người được hưởng
án treo có đủ điều kiện được xét giảm thời gian thử thách...; đồng thời, kiến
nghị cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục có trách nhiệm tạo điều kiện để
người được hưởng án treo giáo dục tốt, đề nghị rút ngắn thời gian thử thách
cho người người được hưởng án treo.
- Gia đình, các cơ quan, tổ chức, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở cơ sở,
cộng đồng cư dân nơi có người được hưởng án treo cư trú
Theo Điều 5 Luật Thi hành án hình sự năm 2019: “Cơ quan, tổ chức,
cá nhân, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ của mình, có trách
nhiệm phối hợp và thực hiện yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền trong
thi hành án hình sự” và Điều 6 Luật này: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
tổ chức thành viên của Mặt trận giám sát hoạt động của cơ quan, tổ chức,
người có thẩm quyền và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan trong thi
hành án hình sự theo quy định của pháp luật”[13].
Gia đình người được hưởng án treo có vai trị rất quan trọng trong việc
giúp cho người bị kết án cải tạo, tích cực phấn đấu vươn lên trở thành người
có ích cho xã hội. Có vai trị quan trọng với người được hưởng án treo, gia
đình của những người này cũng có trách nhiệm: Phối hợp với Ủy ban nhân

23



dân cấp xã và người được phân công trong việc giám sát, giáo dục; Thông báo
kết quả chấp hành án với Uỷ ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo
dục khi có yêu cầu; Bồi thường thiệt hại và thực hiện các nghĩa vụ dân sự
khác do người chấp hành án là người chưa thành niên gây ra; phải có mặt tại
cuộc họp kiểm điểm người được hưởng án treo theo yêu cầu.
1.2.2. Nội dung thi hành án treo
Nội dung thi hành án treo được xác định bởi tổng thể các quy định về
quyền, nghĩa vụ của người bị kết án; trách nhiệm và quyền hạn của các cơ
quan, tổ chức, gia đình trong việc giám sát, giáo dục người được hưởng án
treo. Trình tự thi hành án treo bắt đầu ngay sau khi Tòa án xét xử sơ thẩm ra
bản án, quyết định thi hành án.
- Ra quyết định thi hành án hoặc ủy thác thi hành án
Ra quyết định thi hành án hay ủy thác thi hành án thuộc thẩm quyền
của Chánh án Tòa án nhân dân xét xử sơ thẩm vụ án theo khoản 1 Điều 364
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Như vậy thẩm quyền, trách nhiệm ra quyết định thi hành án hay ủy thác
ra quyết định thi hành án thuộc về Chánh án Tòa án nhân dân đã xét xử sơ
thẩm vụ án. Đây là bước quyết định để tiếp tục các thủ tục thi hành án. Chỉ
khi nhận được quyết định thi hành án của Tịa án thì Cơ quan Thi hành án
hình sự và các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan mới có thể bắt đầu thực
hiện quá trình thi hành án. Vì vậy, tuy việc ra quyết định thi hành án không
phải là một trong các bước của thủ tục thi hành án nhưng là một bước quan
trọng, khơng thể thiếu mang tính quyết định với tồn bộ q trình thi hành án
sau này. Trong quyết định thi hành án cũng sẽ được ghi rõ họ, tên, chức vụ
người ra quyết định; bản án, quyết định được thi hành; tên cơ quan có nhiệm

24


vụ thi hành; họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của người được hưởng

án treo; mức hình phạt tù và thời gian thử thách của người được hưởng án
treo; hình phạt bổ sung, trừ hình phạt bổ sung là hình phạt tiền; hậu quả của
việc vi phạm nghĩa vụ trong thời gian thử thách; Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn
vị quân đội được giao giám sát, giáo dục người được hưởng án treo.
- Trình tự thủ tục thi hành án (những hoạt động tuân thủ pháp luật
trong quá trình thi hành án)
Theo khoản 1 Điều 85 Luật Thi hành án hình sự 2019, trong thời hạn
03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định thi hành án treo, người
được hưởng án treo, người đại diện của người được hưởng án treo phải có mặt
theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách
quan. Trường hợp người được hưởng án treo khơng có mặt theo giấy triệu tập
hoặc khơng cam kết thì cơ quan thi hành án hình sự Cơng an cấp huyện, cơ
quan thi hành án hình sự cấp quân khu lập biên bản vi phạm nghĩa vụ.[13]
Khi nhận được quyết định thi hành án, cơ quan thi hành án hình sự
Cơng an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu lập hồ sơ thi
hành án và sao gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao
giám sát, giáo dục người được hưởng án treo.
Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày triệu tập người được hưởng án treo,
Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục người
được hưởng án treo phải lập hồ sơ giám sát, giáo dục người được hưởng án
treo.
Trường hợp người được hưởng án treo vi phạm nghĩa vụ quy định tại
khoản 1 Điều 87 của Luật Thi hành án hình sự 2019 thì cơ quan thi hành án
hình sự Cơng an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu lập

25


×