Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Khó khăn học tập của học sinh khiếm thị lớp 1 hòa nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.58 KB, 8 trang )

JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Educational Sci., 2015, Vol. 60, No. 8C, pp. 217-224
This paper is available online at

DOI: 10.18173/2354-1075.2015-0244

KHÓ KHĂN HỌC TẬP CỦA HỌC SINH KHIẾM THỊ LỚP 1 HÒA NHẬP
Nguyễn Thị Thắm
Khoa Giáo dục Đặc biệt, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

Tóm tắt. Giáo dục hịa nhập đang được xem là mơ hình giáo dục tối ưu nhất cho trẻ khiếm
thị học tập và phát triển. Giai đoạn chuyển tiếp từ trường mầm non hoặc gia đình vào học
lớp 1 ở các trường hòa nhập là một gia đoạn quan trọng đánh dấu nhiều sự thay đổi về tâm
sinh lí của trẻ khiếm thị. Sự chuyển tiếp này đã dẫn đến trẻ khiếm thị gặp khơng ít những
khó khăn tâm lí trong học tập, ảnh hưởng đến quá trình tham gia vào các hoạt động học tập,
vui chơi và hòa nhập với các bạn cùng trang lứa. Từ việc nghiên cứu thực trạng ở trường
Phổ thông cơ sở Nguyễn Đình Chiểu – Hà Nội và Tiểu học Lê Hồng Phong – Thái Bình,
bài viết này phân tích một số khó khăn trong học tập của học sinh khiếm thị lớp 1 hòa nhập
và những nguyên nhân ảnh hưởng đến các khó khăn đó.
Từ khóa: Trẻ khiếm thị, khó khăn, khó khăn học tập, giáo dục hịa nhập, lớp 1 hòa nhập.

1.

Mở đầu

Trong tác phẩm “6 tuổi vào lớp 1” tác giả Nguyễn Thị Nhất đã nhấn mạnh vai trò của giáo
dục tiểu học và sự chuyển biến tâm lí của trẻ khi bước vào lớp 1. Giai đoạn chuyển tiếp từ mầm
non lên tiểu học đã đánh dấu sự chuyển biến về tâm lí của trẻ. Trẻ phải thích nghi từ hoạt động vui
chơi là chính sang hoạt động học tập với nhiều nội quy khắt khe hơn [3]. Sự chuyển tiếp này đã
khiến trẻ lớp 1 gặp rất nhiều khó khăn trong học tập.
Kết luận và kiến nghị của kì họp thứ 48 của Hội nghị quốc tế về giáo dục, Geneva, tháng


11, 2008 đã đưa ra là: Giáo dục hồ nhập là một q trình liên tục nhằm cung cấp một nền giáo
dục chất lượng cho tất cả mọi người, có tơn trọng sự đa dạng và những khác biệt về nhu cầu và
khả năng, đặc điểm và kì vọng trong học tập của các em học sinh và cộng đồng, và loại bỏ tất cả
các hình thức phân biệt đối xử [1]. Mơi trường giáo dục hòa nhập sẽ tạo điều kiện thuận lợi để
trẻ khiếm thị học tập, phát triển và hòa nhập xã hội. Tuy nhiên, khi bước vào lớp 1 hòa nhập, học
sinh khiếm thị đã gặp phải khơng ít những khó khăn trong học tập. Những khó khăn này đã làm
ảnh hưởng đến sự phát triển các lĩnh vực nhận thức, ngôn ngữ, giao tiếp xã hội,. . . Bài viết này tập
trung tìm hiểu một số khó khăn trong học tập của học sinh khiếm thị khi đi học lớp 1 hòa nhập và
những nguyên nhân gây nên những khó khăn đó.
Ngày nhận bài: 25/7/2015/2015. Ngày nhận đăng: 10/10/2015.
Liên hệ: Nguyễn Thị Thắm, e-mail:

217


Nguyễn Thị Thắm

2.
2.1.

Nội dung nghiên cứu
Một số khái niệm
Trẻ khiếm thị

Trẻ khiếm thị là trẻ em dưới 16 tuổi có khuyết tật thị giác, sau khi đã có các phương tiện
trợ thị vẫn gặp nhiều khó khăn trong các hoạt động (sinh hoạt, học tập, vui chơi,. . . ) cần sử dụng
mắt [4].
Khuyết tật thị giác được chia làm 3 mức độ sau [4]:
- Mù: Mù hoàn toàn (thị lực và thị trường = 0), mắt khơng cịn khả năng phân biệt sáng tối.
Mù thực tế (thị lực từ 0,005 – 0,04 Vis, thị trường nhỏ hơn 10 độ), mắt cịn khả năng phân biệt

sáng, tối nhưng nhìn khơng rõ.
- Nhìn quá kém: thị lực từ 0,05 – 0,08 Vis đối với mắt nhìn tốt hơn sau khi đã có các phương
tiện trợ thị. Trẻ có thị lực nhìn quá kém gặp rất nhiều khó khăn trong học tập khi sử dụng mắt và
cần được giúp đỡ thường xuyên.
- Nhìn kém: Thị lực cịn 0,09 – 0,3 Vis đối với mắt nhìn tốt hơn sau khi đã có các phương
tiện trợ thị hoặc thị lực, thị trường giảm không nhiều nhưng do các nguyên nhân khác nhau nên
khó khăn trong việc dùng mắt để hoạt động. Trẻ nhìn kém có khả năng tự phục vụ, ít cần sự giúp
đỡ của mọi người, có thể chủ động trong mọi hoạt động và học chữ phổ thông với những hỗ trợ
đặc thù.
(Vis là đơn vị đo thị lực của mắt được tính theo cơng thức Vis = d/D trong đó d là khoảng
cách mà mắt người được đo có thể phân biệt được 2 điểm gần nhau nhất và D là khoảng cách mà
mắt người bình thường có thể nhìn được chúng với góc nhìn α = 1 phút) [4].
Trong bài viết này chúng tôi sử dụng khái niệm trẻ mù và trẻ nhìn q kém.
Khó khăn học tập
Theo Từ điển Tiếng Việt thì “khó khăn” có nghĩa là trở ngại
Theo Từ điển Anh Việt “difficulty” có nghĩa là khó, khó khăn, cản trở.
Theo Từ điển Pháp Việt “difficule” có nghĩa là khó, khó khăn, gian nan, khổ nhọc.
Theo Từ điển Tâm lí học thì “khó khăn” là những trở ngại ngăn cản, cản trở con người tham
gia vào hoạt động.
Trong bất kì hoạt động nào chủ thể cũng có thể gặp những trở ngại làm cho quá trình hoạt
động này đi chệch hướng với mục tiêu đề ra, không thể tiếp tục vận hành hoặc đạt mục tiêu không
như mong muốn. Người ta gọi chung là những khó khăn trong q trình hoạt động của con người
(chủ thể) [2].
Khó khăn học tập là những trở ngại ngăn cản, cản trở quá trình học tập của học sinh, làm
cho quá trình học tập của học sinh đi chệch hướng với mục tiêu đề ra, học sinh không đạt được kết
quả học tập như mong muốn [8].
Như vậy: Khó khăn học tập của học sinh khiếm thị lớp 1 hòa nhập là những trở ngại ngăn
cản, cản trở quá trình tham gia của học sinh khiếm thị vào các hoạt động học tập trong lớp học hòa
nhập, làm cho học sinh khiếm thị khó đạt được mục tiêu học tập như mong muốn.


218


Khó khăn học tập của học sinh khiếm thị lớp 1 hịa nhập

2.2.

Khó khăn học tập của học sinh khiếm thị lớp 1 hòa nhập

2.2.1. Đánh giá của giáo viên về khó khăn học tập của học sinh khiếm thị lớp 1 hịa nhập
Để tìm hiểu xem học sinh khiếm thị lớp 1 hịa nhập đang gặp khó khăn như thế nào chúng
tôi đã thực hiện trưng cầu ý kiến của 30 giáo viên đã và đang dạy lớp 1 hịa nhập ở Trường Phổ
thơng Nguyễn Đình Chiểu – Hà Nội và trường Tiểu học Lê Hồng Phong – Thành phố Thái Bình.
Với câu hỏi “Khi đi học lớp 1 hịa nhập, học sinh khiếm thị gặp khó khăn trong học tập như thế
nào?” chúng tôi thu được kết quả thu được như sau:
Bảng 1. Mức độ khó khăn học tập của học sinh khiếm thị lớp 1 hòa nhập
Kết quả
Mức độ khó khăn học tập
Số lượng
%
Thường xun
26
86,65
Thỉnh thoảng
4
13,35
0
0
Khơng bao giờ
Nhận xét:

Qua bảng 1 chúng ta thấy khi đi học lớp 1 hòa nhập học sinh khiếm thị gặp rất nhiều khó
khăn trong học tập. Có 100% ý kiến giáo viên đánh giá học sinh khiếm thị lớp 1 hòa nhập gặp
khó khăn học tập, trong đó mức độ “thường xuyên” có 26/30 ý kiến chiếm 86,65%, mức độ “thỉnh
thoảng” có 4/30 ý kiến chiếm 13,35%. Đặc biệt khơng có giáo viên nào cho rằng học sinh khiếm
thị không gặp khó khăn học tập khi đi học lớp 1 hịa nhập. Theo các giáo viên, việc thay đổi môi
trường học tập, sự chuyển đổi từ hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập, sự thay đổi phương
pháp giảng dạy của giáo viên,. . . đã khiến học sinh khiếm thị đã gặp phải rất nhiều khó khăn trong
học tập. Có học sinh khiếm thị đã phải nghỉ học vì không thể vượt qua các rào cản trong học tập
này. Các em cảm giác lo sợ mỗi khi đến lớp và thường xun khơng hồn thành nhiệm vụ học tập
được giao.

2.2.2. Khó khăn học tập của học sinh khiếm thị học lớp 1 hịa nhập
Để tìm hiểu những khó khăn trong học tập của học sinh khiếm thị lớp 1 hịa nhập chúng
tơi đã tiến hành quan sát, phỏng vấn, đánh giá trên 13 học sinh khiếm thị đang học hịa nhập tại
trường Phổ thơng đặc biệt Nguyễn Đình Chiểu – Hà Nội và trường Tiểu học Lê Hồng Phong –
Thái Bình. Với mỗi khó khăn học tập chúng tơi tiến hành phỏng vấn, quan sát học sinh theo các
mức độ “thường xuyên”, “đôi khi”, “không bao giờ” và cho điểm tương ứng là 3-2-1. Kết quả thu
được như sau:

Stt
1
2
3
4

Bảng 2: Khó khăn học tập của học sinh khiếm thị lớp 1 hịa nhập
Mức độ
Khó khăn học tập
X
Thứ bậc

Khơng nhớ được các nội dung bài học
28
2,15
8
Không tập trung chú ý vào hoạt động
32
2,46
5
Khó tư duy, tưởng tượng khi thực hiện nhiệm vụ
31
2,38
6
Thích ứng với các hoạt động học tập trên lớp
33
2,54
4
219


Nguyễn Thị Thắm

5
6
7
8

Khơng hiểu bài, khơng làm được bài khó
Lo sợ khi giáo viên đưa yêu cầu
Vi phạm nội quy, quy định của lớp học
Khơng hịa nhập với các bạn cùng trang lứa trong

các hoạt động học và chơi

37
35
29

2,85
2,69
2,23

1
3
7

36

2,77

2

Nhận xét:
Qua bảng 2 ở trên chúng ta thấy trẻ khiếm thị gặp rất nhiều khó khăn trong học tập khi đi
học lớp 1 hịa nhập và mức độ của các khó khăn là rất cao (X ≥ 2). Khi vào học hịa nhập trẻ
khiếm thị gặp khó khăn nhất trong việc hiểu bài và làm các bài tập khó. Do khuyết tật thị giác
đã ảnh hưởng đến khả năng ngôn ngữ, nhận thức của trẻ khiếm thị nên trẻ khó hiểu được các nội
dung giáo viên giảng giải [4]. Mặt khác, trẻ khiếm thị học chung chương trình với học sinh sáng
nên nhiều nội dung quá khó đối với năng lực của các em. Do đó trẻ khiếm thị rất khó khăn trong
việc hiểu bài, đặc biệt các nội dung khó.
Xếp ở vị trí thứ 2 là biểu hiện khó khăn trong việc hòa nhập với các bạn trong các hoạt động
học tập. Việc khó khăn trong giao tiếp, làm quen với học sinh sáng cũng dẫn đến trẻ khó khăn

trong việc hòa đồng cùng các bạn. Trong giờ học, vui chơi, trẻ khiếm thị chủ yếu làm một mình,
ngồi tại chỗ hoặc quay trở về phòng bán trú để chơi với các anh chị khiếm thị khác. Trẻ thường
xuyên sợ hãi, thu mình lại khi giáo viên yêu cầu tham gia hoạt động cùng các bạn sáng. Qua quan
sát các giờ học ở trên lớp chúng tôi thấy rằng khi giáo viên tổ chức các hoạt động làm việc nhóm,
trẻ khiếm thị vẫn ngồi tại chỗ vì các em khơng nhìn thấy nên khó di chuyển trong lớp. Nhiều học
sinh khiếm thị có tham gia vào nhóm với các học sinh sáng nhưng chỉ tham gia cho có mặt, các
em thường khơng thực hiện nhiệm vụ nào cả.
Khơng chỉ khó khăn trong tham gia hoạt động với học sinh sáng cùng trang lứa, học sinh
khiếm thị lớp 1 cũng luôn có biểu hiện lo lắng, sợ hãi khi giáo viên đưa yêu cầu. Khi hỏi các giáo
viên ở hai trường hòa nhập, các ý kiến đều cho rằng học sinh khiếm thị lớp 1 thường thu mình,
ngại giao tiếp với giáo viên. Nếu giáo viên có chủ động lại gần, chia sẻ, đưa ra yêu cầu thì học sinh
khiếm thị thường tỏ ra lo lắng, khóc. Chúng tơi quan sát giờ học, giờ chơi của trẻ thì thấy hầu hết
học sinh khiếm thị khơng chủ động nói chuyện với giáo viên. Khi giáo viên gọi trả lời câu hỏi trẻ
thường rất sợ, có trẻ khóc. Chính vì vậy để đảm bảo giờ học của cả lớp giáo viên thường hiếm khi
gọi học sinh khiếm thị trả lời các câu hỏi hoặc yêu cầu trẻ thực hiện nhiệm vụ học tập.
Khó khăn trong vấn đề thích ứng với các hoạt động trên lớp và thực hiện các nhiệm vụ học
tập xếp ở vị trí thứ 4. Khi bước vào lớp 1 hịa nhập, học sinh khiếm thị thường vẫn giữ thói quen
ở nhà hoặc ở lớp mẫu giáo. Do đó, học sinh khiếm thị thường có biểu hiện chống đối hoặc không
tham gia các hoạt động giáo viên đưa ra. Trẻ thường xun khơng hồn thành nhiệm vụ giáo viên
giao. Đặc biệt nhiều giáo viên cho rằng học sinh khiếm thị cịn có rất nhiều hành vi khơng tốt mỗi
khi giáo viên yêu cầu trẻ tham gia vào hoạt động học tập như: khóc, la hét, dụi tay vào mắt,. . . Đây
cũng chính là những hành vi điển hình của trẻ khiếm thị [4].
Ngoài ra học sinh khiếm thị học lớp 1 hịa nhập cịn gặp khó khăn trong việc ghi nhớ bài
học, tập trung chú ý vào các hoạt động và tư duy tưởng tượng. Ảnh hưởng của khuyết tật thị giác
đã khiến trẻ gặp nhiều khó khăn trong vấn đề ghi nhớ, chú ý và tưởng tượng [1]. Mặt khác trẻ cũng
không được can thiệp để phát triển các kĩ năng này nên trong lớp trẻ thường mất tập trung, không
nhớ được các nội dung bài học và khó tư duy các vấn đề giáo viên yêu cầu. Chính khó khăn này
220



Khó khăn học tập của học sinh khiếm thị lớp 1 hòa nhập

đã ảnh hưởng rất lớn đến kết quả học tập của học sinh khiếm thị học lớp 1 hịa nhập.
Xếp ở vị trí thứ 7 là biểu hiện khó khăn của học sinh khiếm thị lớp 1 hịa nhập trong việc
“chấp hành các nội quy, quy định của lớp học”. Qua quan sát, hỏi giáo viên và phỏng vấn trẻ khiếm
thị chúng tôi thấy rằng hầu hết học sinh khiếm thị đều vi phạm các quy định của lớp học. Trẻ khiếm
thị thường có các hành vi điển hình trong lớp như “chọc tay vào mắt, vẫy tay, nói nhảm,. . . ”. Trẻ
khơng thể ngơi n theo đúng quy định trong suốt buổi học. Khi muốn ra ngồi trẻ thường khơng
xin phép giáo viên. Đặc biệt nhiều trẻ khiếm thị nói rằng “khơng muốn đi học” vì không thể làm
theo các nội quy, quy định của lớp học.
Như vậy qua quan sát trẻ và trưng cầu ý kiến của giáo viên ở cả hai trường hòa nhập chúng
ta thấy rằng trẻ khiếm thị học lớp 1 hòa nhập có rất nhiều khó khăn học tập. Các khó khăn học tập
này được thể hiện rất đa dạng từ khó khăn học tập được thể hiện qua lĩnh vực nhận thức (trí nhớ, tư
duy, tưởng tượng), lĩnh vực cảm xúc tình cảm (lo lắng, sợ hãi) đến lĩnh vực hành vi (không tham
gia hoạt động, nghỉ học, vi phạm nội quy, có biểu hiện chống đối).

2.3.

Nguyên nhân dẫn đến những khó khăn học tập của trẻ khiếm thị lớp 1 hịa
nhập

Trẻ khiếm thị gặp những khó khăn học tập ở các lĩnh vực khác nhau là do rất nhiều yếu tố
trong đó có thể chia thành hai nhóm chính: nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan [5].
Những nguyên nhân khách quan dẫn đến trẻ gặp khó khăn học tập bao gồm: cơ sở vật chất của
nhà trường, phương pháp giảng dạy của giáo viên, sự kì thị của học sinh sáng và cha mẹ học sinh
sáng, sự quan tâm chưa hợp lí của cha mẹ học sinh khiếm thị,. . . Những nguyên nhân chủ quan dẫn
đến khó khăn học tập của học sinh khiếm thị lớp 1 hòa nhập: mức độ khiếm thị, vấn đề can thiệp
sớm, khả năng nhận thức, sự chuẩn bị về tâm lí trước khi vào lớp 1,. . . Qua điều tra ở hai trường
hòa nhập cho học sinh khiếm thị kết quả cho thấy rõ mức độ ảnh hưởng của các nguyên nhân đối
với khó khăn học tập của trẻ khiếm thị. Kết quả này được cụ thể hóa qua bảng sau:


Stt
1
2
3
4
5
6

Bảng 3: Nguyên nhân khách quan dẫn đến khó khăn học tập
của học sinh khiếm thị lớp 1 hòa nhập
Mức độ
Nguyên nhân khách quan
X
Thứ bậc
Chương trình, nội dung học khơng phù hợp
32
2,46
4
Phương pháp, hình thức tổ chức dạy học của giáo viên
31
2,38
5
Sự kì thị của học sinh sáng và gia đình học sinh sáng
37
2,85
1
Phụ huynh học sinh khiếm thị quá quan tâm hoặc không
28
2,15

6
quan tâm đến trẻ
Cơ sở vật chất của lớp học
35
2,69
3
Mơi trường tâm lí của lớp học, trường học
36
2,77
2
Nhận xét:

Nhìn vào bảng 3 chúng ta thấy có nhiều nguyên nhân khách quan dẫn đến trẻ khiếm thị học
lớp 1 hịa nhập gặp khó khăn học tập và mức độ ảnh hưởng của các nguyên nhân là rất cao (X
≥ 2). Trong đó yếu tố ảnh hưởng nhất là “sự kì thị của học sinh sáng và gia đình học sinh sáng”.
Các giáo viên đều cho rằng việc học sinh sáng không hiểu học sinh khiếm thị nên dẫn đến các em
221


Nguyễn Thị Thắm

thường cười đùa, trêu trọc, xa lánh. Điều này đã dẫn đến học sinh khiếm thị có tâm lí sợ đi học,
thu mình và khó hịa nhập với các bạn cùng trang lứa [7]. Mặt khác nhiều phụ huynh học sinh sáng
cũng nhận thức sai về khuyết tật thị giác, họ có suy nghĩ sợ con mình sẽ bắt chước các hành vi của
học sinh khiếm thị nên thường cấm con của họ chơi cùng.
Bên cạnh đó hầu hết giáo viên đều nhận thấy “môi trường lớp học” đã khiến học sinh khiếm
thị gặp nhiều khó khăn (xếp ở vị trí thứ 2, thứ 3) . Mơi trường lớp học bao gồm mơi trường tâm
lí và mơi trường vật chất. Ánh sáng trong lớp quá tối hoặc quá chói sẽ dẫn đến trẻ khiếm thị ln
cảm thấy khó chịu, khó thực hiện các hoạt động. Bàn ghế lớp học, lối ra vào sắp xếp không thuận
lợi cho sự định hướng di chuyển của học sinh khiếm thị [1]. Ngồi ra, bầu khơng khí lớp học, sự

quan tâm của giáo viên cũng là những yếu tố gây nên nhiều khó khăn học tập của trẻ khiếm thị ở
lớp 1 hòa nhập.Việc tạo ra một lớp học vui vẻ, thoải mái có quan hệ gần gũi giữa học sinh và giáo
viên, giữa học sinh sáng và học sinh khiếm thị sẽ làm trẻ cảm thấy hứng thú, thích đi học và tham
gia hoạt động tích cực [4]. Để làm được điều này địi hỏi người giáo viên phải có kĩ năng sư phạm,
biết cách tổ chức lớp học và có nhận thức, thái độ đúng đắn về học sinh khiếm thị.
Xếp ở vị trí cuối cùng là các nguyên nhân liên quan đến nội dung, chương trình học và
phương pháp giảng dạy của giáo viên. Theo sự chỉ đạo của Bộ giáo dục và đào tạo thì học sinh
khuyết tật phải học cùng với học sinh không khuyết tật theo một chương trình giáo dục chung. Do
đó u cầu trong mỗi lớp học hòa nhập, giáo viên sẽ là người chủ động điều chỉnh chương trình,
nội dung học cho phù hợp với khả năng và nhu cầu của trẻ khuyết tật [6]. Nếu giáo viên có sự điều
chỉnh các nội dung, chương trình cho phù hợp với năng lực của học sinh khiếm thị thì trẻ sẽ thích
nghi với các hoạt động học được tốt hơn. Tuy nhiên, vì lớp học quá đông (trên 50 học sinh) nên
giáo viên không có thời gian để điều chỉnh, quan tâm đến học sinh khiếm thị. Vì vậy, trẻ khiếm thị
khó thực hiện được nhiệm vụ, sợ đi học và cảm giác lo lắng mỗi khi đến lớp. Ngoài ra giáo viên
cũng chưa được đào tạo chuyên sâu về dạy học hòa nhập cho học sinh khiếm thị. Các giáo viên ở
cả hai trường chủ yếu là giáo viên tiểu học, chỉ được tập huấn chuyên đề về hỗ trợ cho trẻ khiếm
thị nên chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc đổi mới phương pháp, điều chỉnh nội dung, chương
trình phù hợp với học sinh khiếm thị.
Bên cạnh các nguyên nhân khách quan, các yếu tố chủ quan cũng làm trẻ khiếm thị gặp
nhiều khó khăn học tập. Qua điều tra chúng tơi thu được kết quả:

Stt
1
2
3
4
5
6

Bảng 4: Nguyên nhân chủ quan dẫn đến khó khăn học tập

của học sinh khiếm thị lớp 1 hòa nhập.
Mức độ
Nguyên nhân chủ quan
X
Thứ bậc
Chưa được chuẩn bị tâm lí trước khi vào lớp 1 hịa nhập
37
2,85
1
Mức độ khiếm thị
26
2,0
5
Khơng được tham gia các chương trình can thiệp sớm
36
2,77
2
Khả năng nhận thức
28
2,15
6
Trẻ luôn tự ti vào bản thân, sống khép mình
34
2,62
3
Mức độ thực hiện các kĩ năng đặc thù
30
2.30
4
Nhận xét:

Nhìn vào bảng 4 chúng ta thấy có nhiều yếu tố liên quan đến chính bản thân học sinh khiếm

222


Khó khăn học tập của học sinh khiếm thị lớp 1 hịa nhập

thị cũng dẫn đến trẻ gặp khó khăn học tập khi học hịa nhập. Xếp ở vị trí thứ 1 là yếu tố “trẻ chưa
được chuẩn bị về tâm lí trước khi vào lớp 1 hịa nhập”. Hầu hết trẻ đi học lớp 1 hòa nhập đều hơn
tuổi so với học sinh sáng. Trẻ khiếm thị không được các giáo viên, cha mẹ chuẩn bị trước tâm lí
đi học. Do đó, những ngày đầu vào lớp học hịa nhập, học sinh khiếm thị thường khơng thích nghi
được các hoạt động học, nhiều trẻ bị căng thẳng và bỏ học. Nếu như trẻ được làm quen trước với
các hoạt động ở trường tiểu học, trẻ hiểu được những khó khăn khi chuyển sang môi trường mới
hay trẻ được báo trước về sự thay đổi môi trường học sẽ giúp trẻ cảm thấy tự tin và an toàn hơn [4].
Tuy nhiên trên thực tế ngay cả việc trẻ đến lớp như thế nào hay trẻ phải làm gì khi vào lớp 1 thì trẻ
khiếm thị cũng khơng được báo trước.
Một yếu tố chủ quan cũng ảnh hưởng lớn đến khó khăn học tập của học sinh khiếm thị chính
là trẻ khơng được tham gia vào các chương trình can thiệp sớm. Có nhiều trẻ khiếm thị chuyển từ
mơi trường gia đình vào học tiểu học hịa nhập. Những chương trình can thiệp sớm sẽ giúp trẻ phát
triển nhận thức và hình thành những kĩ năng đặc thù như: kĩ năng tự phục vụ, kĩ năng định hướng
di chuyển, đọc viết chữ Braille,. . . Những kĩ năng này sẽ là nền tảng để trẻ thích nghi với các hoạt
động học tập ở trường tiểu học hịa nhập [4].
Ngồi ra các yếu tố “khả năng nhận thức, tự ti sống khép mình, mức độ khiếm thị của trẻ
khiếm thị” cũng gây nên các khó khăn học tập cho học sinh khiếm thị. Qua thực tế nghiên cứu
chúng tôi nhận thấy rằng đa số trẻ mù hồn tồn gặp nhiều khó khăn học tập hơn những trẻ nhìn
kém. Trẻ có khả năng nhận thức, chỉ số trí tuệ thấp có khó khăn học tập hơn những trẻ khiếm thị
khác. Đặc biệt những học sinh khiếm thị ln có tâm lí tự ti vào khuyết tật của bản thân, sống khép
mình thì sẽ gặp nhiều khó khăn trong các hoạt động hơn những trẻ tự tin, mạnh dạn.

3.


Kết luận

Mơi trường giáo dục hịa nhập là một môi trường tốt nhất dành cho học sinh khiếm thị. Tuy
nhiên, khi bước vào lớp 1 hòa nhập, học sinh khiếm thị đã gặp phải những khó khăn học tập. Qua
tìm hiểu thực trạng hai trường tiểu học hịa nhập ở Hà Nội và Thái Bình đã cho thấy học sinh khiếm
thị học lớp 1 hòa nhập gặp rất nhiều khó khăn học tập và mức độ của các khó khăn là khác nhau.
Học sinh khiếm thị gặp phải những khó khăn học tập này là do những nguyên nhân chủ quan và
nguyên nhân khách quan. Điều quan trọng và cần thiết là giáo viên, cha mẹ phải phối kết hợp với
nhau thực hiện các biện pháp để khắc phục những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tham gia vào
trường học của học sinh khiếm thị, giúp trẻ giảm thiểu các khó khăn học tập này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]

[2]
[3]
[4]
[5]

Hoàng Thị Nho, 2015. Biện pháp tổ chức dạy học mơn tốn theo hướng phát huy tính tích
cực học tập cho học sinh khiếm thị lớp 1 hòa nhập. Luận án tiến sĩ giáo dục học – Trường
Đại học sư phạm Hà Nội.
Nguyễn Thanh Bình, 2001. Một số trở ngại tâm lí trong giao tiếp của sinh viên với học sinh
khi thực tập. Luận án tiến sĩ tâm lí học, Trường Đại học Sư phạm Hà nội.
Nguyễn Thị Nhất, 1992. 6 tuổi vào lớp 1. Trung tâm nghiên cứu tâm lí trẻ em, Nxb Kim
Đồng.
Nguyễn Đức Minh, 2010. Giáo dục trẻ khiếm thị. Nxb Giáo dục.
Vũ Ngọc Hà, 2005. Khó khăn tâm lí trong học tập của học sinh lớp 1. Tạp chí Tâm lí học, số
11 (80), 11.
223



Nguyễn Thị Thắm

[6]

[7]
[8]

Nguyễn Xuân Hải, 2015. Đảm bảo chất lượng giáo dục hòa nhập học sinh khuyết tật trong
các nhà trường phổ thơng. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, số 6BC tr.
45 - 55.
Đỗ Thị Thanh Thủy, 2015. Kì thị đối với người khuyết tật – rào cản trong thực hiện giáo dục
hòa nhập. Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, số 6BC, tr. 97 - 101.
Daniel Fung, Li Zhong Yinh, 2009. Khi trẻ đối mặt với khó khăn trong học tập, Văn Thị Thu
Huyền dịch. Nxb Tri thức.
ABSTRACT
Identifying the difficulties of children with visual impairments
in grade 1 in inclusive schools

Inclusive education is deemed to be the educational model in which children with
visual impairments can best learn and develop. The stage for transitioning from preschool or
family to Grade 1 in an inclusive school is a critical stage which marks many changes in
the psychophysiology of children with visual impairments. This transition has led to many
learning difficulties for children who are visually impaired, affecting their participation in learning
activities, games and integration with peers. From practical studies conducted at Nguyen Dinh
Chieu Junior High School in Hanoi and Le Hong Phong Primary School in Thai Binh Province,
this paper analyzes the learning difficulties of visually impaired children in Grade 1 in inclusive
schools and the causes of learning difficulties.
Keywords: Children with visual impairments, difficulties, learning difficulties, inclusive

education, grade one in inclusive education.

224



×