Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (332.06 KB, 73 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN ANH HOÀNG

BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA BỊ CÁO TRONG
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN VĂN ĐIỆP

Tháng 8, năm 2020


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy
định.
Tác giả

Nguyễn Anh Hoàng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................................................ 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON


NGƯỜI CỦA BỊ CÁO TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM HÌNH SỰ............................................... 5
1.1. Khái niệm quyền con người................................................................................................... 5
1.2. Khái niệm quyền con người trong TTHS Việt Nam và luật pháp quốc tế............5
1.3 Khái niệm bị cáo trong luật TTHS Việt Nam................................................................. 7
1.4. Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử theo Luật Quốc Tế...............8
1.5. Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử theo Luật Tố tụng hình sự
Việt Nam từ năm 2015 đến nay………………………………….………………………15
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA BỊ CÁO
TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH……............................................................................................................................................ 26
2.1. Những kết quả đạt được trong việc bảo đảm quyền con người của bị cáo trong
hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh....................................... 26
2.2. Những hạn chế, bất cập trong việc bảo đảm quyền con người của bị cáo trong
hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh....................................... 28
2.3. Nguyên nhân của tình hình oan, sai trong hoạt động xét xử…………………47
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA BỊ CÁO
TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ.......................................................................... 51
3.1 Nhóm giải pháp về hoàn thiện một số nguyên tắc tố tụng........................................ 51
3.2 Giải pháp hoàn thiện các thủ tục tố tụng.......................................................................... 54


3.3 Nhóm giải pháp hồn thiện quy định về các chủ thể tố tụng: địa vị pháp lý của
bị cáo; quyền hạn, trách nhiệm, thẩm quyền........cơ quan tiến hành tố tụng...........................54
3.4 Nhóm giải pháp hồn thiện các quy định khác................................................................ 61
KẾT LUẬN......................................................................................................................................... 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS 2015:


Bộ luật dân sự 2015

BLHS 2015:

Bộ luật hình sự 2015

BLTTDS:

Bộ luật tố tụng dân sự

BLTTHS 2015: Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT:

Cơ quan điều tra

ĐTV:

Điều tra viên

KSV:

Kiểm sát viên

LS:


Luật sư

NBC:

Người bào chữa

PLTTHS:

Pháp luật tố tụng hình sự

TAND:

Tịa án nhân dân

TTHS:

Tố tụng hình sự

THTT:

Tiến hành tố tụng

VAHS:

Vụ án hình sự

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân


XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
Quyền con người là những nội dung quan trọng của Hiến pháp, kết tinh những giá
trị cao đẹp trong nền văn hóa của các dân tộc. Đây không chỉ là những ngôn ngữ chung
mà còn là “sản phẩm chung”, “mục tiêu chung” của mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới
Bảo đảm quyền con người là một trong những yêu cầu, nhiệm vụ cơ bản và quan
trọng nhất trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 nêu rõ phương hướng, nhiệm vụ: “….hoàn thiện các thủ tục
tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo
vệ quyền con người”.
Hoạt động tố tụng hình sự là hoạt động liên quan rất chặt chẽ với quyền con người,
là hoạt động sử dụng quyền lực nhà nước để cưỡng chế; là nơi quyền con người của các
chủ thể tố tụng, đặc biệt là bị can, bị cáo có nguy cơ dễ bị xâm hại nhất, vì sử dụng các
biện pháp ngăn chặn ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của con người.
Thực tiễn trong những năm qua cho thấy vẫn còn nhiều trường hợp vi phạm quyền
con người trong quá trình tiến hành tố tụng. Những vi phạm thường biểu hiện như: vi
phạm các thủ tục tố tụng trong xét xử, tranh tụng, bào chữa, áp dụng và viện dẫn sai điều
luật, nhận định sai tình tiết vụ việc….Các hành vi này không những xâm phạm trực tiếp
quyền cơ bản của con người là quyền công bằng, quyền tự do thân thể, sức khỏe, tôn
trọng danh dự, nhân phẩm của con người mà còn xâm phạm đến nền pháp chế XHCN,
làm mất niềm tin của nhân dân vào các cơ quan pháp luật. Những vi phạm trên xuất phát
từ nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến là do trình độ năng lực ý thức tuân thủ pháp
luật của các cán bộ trong các cơ quan tố tụng cịn hạn chế, tiếp đến là chính sách pháp
luật hình sự, tố tụng hình sự chưa rõ ràng, chi tiết, vẫn còn tồn tại những hạn chế bất cập

6


dẫn đến có sự áp dụng tùy tiện, lạm dụng và khơng đồng bộ ở một số nơi.Có thể nói
nghiên cứu quyền con người, đặc biệt của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự từ góc độ
lập pháp cũng như áp dụng pháp luật có vai trị rất quan trọng trong việc thực hiện nhiệm
vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và công cuộc cải cách tư pháp nói
riêng ở nước ta. Vì vậy mà tác giả chọn đề tài “Bảo đảm quyền con người của bị cáo
trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” để thực hiện
nghiên cứu viết luận văn thạc sĩ nhằm đưa ra các kiến nghị hoàn hiện hệ thống pháp luật
TTHS Việt Nam trên nguyên tắc bảo đảm những quyền cơ bản của con người.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ góc độ nghiên cứu về quyền con người nói chung có cơng trình “Lý luận pháp
luật về quyền con người” của Khoa Luật ĐHQG Hà Nội do Nguyễn Đăng Dung chủ
biên; “Giáo dục quyền con người ở Việt Nam hiện nay” của Học viện KHXH do Võ
Khánh Vinh chủ biên, “Tư tưởng Việt Nam về Quyền con người” của Phạm Hồng Thái...
Từ góc độ nghiên cứu quyền con người trong lĩnh vực Tư pháp có “Bảo đảm quyền
con người trong tư pháp hình sự Việt Nam” (Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia Thành phố
Hồ Chí Minh, 2010); “Quyền con người trong tư pháp hình sự” của Nguyễn Ngọc Chí...
Ngồi ra trong các đề tài nghiên cứu khoa học là Luận văn, luận án có một số tác giả
chọn vấn đề bảo vệ quyền con người trong luật hình sự như Luận án của Lại văn Trình,
ĐH Luật TpHCM năm 2011, Trần Hưng Bình, Học viện KHXH năm 2013, Luận văn
Ngô Thi Thanh, ĐHQG Hà Nội 2013…..
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu về một số vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện quyền con
người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất một
số giải pháp cụ thể cho việc hồn thiện pháp luật và chính sách áp dụng pháp luật của
TTHS đối với bị cáo trên cơ sở bảo đảm quyền con người.

7



Để thực hiện mục đích đó luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Thứ nhất, làm rõ khái niệm bị cáo, quyền của bị cáo trong TTHS Việt Nam, xác
định và phân tích cơ sở pháp lý và nội dung các quyền của bị cáo trong xét xử; thủ tục tố
tụng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, nghiên cứu so sánh lịch sử hình thành và phát triển
quyền của bị cáo và thủ tục tố tụng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong hệ thống tư pháp
hình sự thế giới và Việt Nam; xác định các cơ chế, điều kiện bảo đảm hiện thực hóa các
quyền đó trong điều kiện thực tế của Việt Nam.
- Thứ hai, đánh giá thực trạng các qui định pháp luật về quyền của bị cáo và thủ tục
tố tụng hình sự; thực trạng thực hiện các quyền và thủ tục đó ở Việt Nam từ 2003 đến
nay, bao gồm: làm rõ nghĩa vụ thực thi của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; nêu và phân tích bằng các số liệu, tình huống
điển hình về bức tranh hiện thực phản ánh việc bảo đảm quyền con người của bị cáo
trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời so
sánh với kinh nghiệm một số nước trên thế giới. Từ đó đề xuất phương pháp để bảo đảm
quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở Việt Nam.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quan điểm khoa học, các quy định của luật
TTHS hiện hành và thực tiễn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh
trong việc bảo đảm quyền con người của bị cáo.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo đảm
quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh từ giai đoạn
2010 đến nay.

8



5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và pháp luật về cải cách tư pháp.
- Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống: Phân tích, tổng
hợp, lịch sử cụ thể, thống kê, khảo sát thực tế... của các Tòa án trên địa bàn TpHCM.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa đối với việc hồn thiện pháp luật, đóng
góp thêm vào sự phát triển lý luận về việc thực hiện bảo đảm quyền con người trong xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự . Với việc đề xuất các giải pháp, trong đó có việc đưa ra một số
giải pháp – kiến nghị góp phần hồn thiện hệ thống pháp luật TTHS Việt Nam
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan lập pháp trong hồn
thiện pháp luật về tố tụng hình sự, đồng thồi cũng có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
trong công tác nghiên cứu, giảng dạy trong các trường Đại học và học viện.
7. Kết cấu của luận văn.
Nội dung của Luận văn gồm 2 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận chung về bảo đảm quyền con người của bị cáo trong
xét xử sơ thẩm hình sự.
Chương 2. Thực trạng bảo đảm quyền con người của bị cáo trong hoạt động xét xử xét
xử sơ thẩm hình sự tại TpHCM.
Chương 3. Giải pháp bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm hình sự

9


Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN
CON NGƯỜI CỦA BỊ CÁO TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm chung về quyền con người
Theo Từ điển Luật học đã đưa ra quan niệm về quyền con người là: “Quyền của

thành viên trong xã hội loài người – quyền của tất cả mọi người. Đó là nhân phẩm, nhu
cầu, lợi ích và năng lực của con người được thể chế hóa (ghi nhận) trong pháp luật quốc
tế và pháp luật quốc gia”.
Theo quan điểm của các nhà triết học, chính trị học thời kỳ Khai sáng (thế kỷ
XVII) thì quyền con người là các quyền không thể tước bỏ được; đây là các quyền tự
nhiên (natural right) do tạo hóa ban cho họ mang tính bẩm sinh, vốn có của các cá nhân,
khi sinh ra đã được thừa hưởng. Các quyền này không một xã hội hay một chính phủ nào
có thể ban phát, xóa bỏ hoặc “chuyển nhượng” và nó khơng phụ thuộc vào các phong tục,
tập quán, truyền thống văn hóa,… đây là các quyền vốn có của các cá nhân. Theo quan
điểm của tác giả đây là định nghĩa đầy đủ và mang tính bao quát nhất về quyền con
người. Mặc dù nó ra đời từ thế kỷ XVII nhưng vẫn cịn ngun tính giá trị cho đến ngày
nay, kế thừa quan điểm này các nhà chính trị đã phát triển định nghĩa quyền con người để
làm kim chỉ nam cho các tun ngơn đó là: “Quyền sống, quyền tự do, và quyền mưu cầu
hạnh phúc”
1.2. Khái niệm quyền con người trong tố tụng hình sự Việt Nam và luật pháp
quốc tế.
Tố tụng hình sự là quá trình giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật
bao gồm các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Mỗi giai
đoạn tố tụng thực hiện chức năng khác nhau nhưng chúng có mối liên hệ thống nhất cùng
hướng về mục đích là giải quyết vụ án hình sự. Hoạt động tố tụng hình sự một mặt là
phát hiện và xử lý tội phạm, bảo vệ người bị hại trước hành vi vi phạm của tội phạm
nhưng cũng đồng thời phải bảo vệ quyền con người. Ở đây tác giả chỉ muốn đề cập đến
10


các khái niệm bảo đảm quyền con người trong giai đoạn tố tụng xét xử sơ thẩm. Theo
Hiến pháp 2013 đã nêu rõ: “khơng ai bị coi là có tội khi chưa có bản án có hiệu lực của
pháp luật”, vì vậy trong các giai đoạn TTHS chưa có kết luận của Tịa án thì bị can, bị
cáo vẫn chưa bị coi là có tội, thậm chí theo ngun tắc của luật TTHS bản án có hiệu lực
khi bản án đó phải tn theo đúng quy trình thủ tục TTHS thì bản án mới được thi hành,

vì vậy quyền con người, thậm chí quyền cơng dân của họ vẫn phải được bảo đảm trước
và trong q trình xét xử. Có thể thấy rằng, hoạt động TTHS là sử dụng quyền lực nhà
nước tạo sức mạnh để cưỡng chế chủ thể tham gia quan hệ pháp luật TTHS, vì vậy sẽ dẫn
đến quyền con người dễ bị xâm phạm và gây hậu quả nghiêm trọng khi nó động chạm
đến quyền sống, quyền tự do, quyền không bị bắt, giam giữ tùy tiện, quyền được xét xử
cơng bằng….Theo PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí: “Phạm vi quyền con người trong TTHS
bao gồm hai khuynh hướng: Một mặt, các hoạt động tố tụng hướng tới bảo đảm quyền
được buộc tội khách quan, công bằng của người bị cáo buộc phạm tội, mặt khác bảo đảm
quyền của những người yếu thế trong xã hội bao gồm những người bị cáo buộc phạm tội,
… tránh sự lạm dụng của người tiến hành tố tụng”. Xã hội sẽ bất ổn định khi mà bất cứ ai
cũng có thể bị tình nghi, cáo buộc và rơi vào thế yếu, bị động và bất lợi trong khi xét xử.
Quyền con người được ghi nhận trong các văn bản pháp luật của Nhà nước đặc biệt là
luật TTHS, là cơ sở để Nhà nước bảo đảm những quyền lợi cơ bản nhất của con người
của các chủ thể tham gia tố tụng, trong đó có bị cáo, đồng thời khi quyền con người được
bảo đảm cũng kéo theo sự công bằng, công lý được thực thi. Quyền con người đối với bị
cáo trong xét xử là tập hợp các quyền thuộc nhóm quyền dân sự, chính trị khẳng định
phẩm giá của con người, bảo vệ các cá nhân khỏi sự tùy tiện và sự lạm quyền của các cơ
quan nhà nước trong các hoạt động xét xử. Theo các văn bản pháp lý quốc tế về quyền
con người thì quyền con người của bị cáo là quyền được xét xử công bằng, quyền được
suy đốn vơ tội; quyền được bào chữa và biện hộ….Vì vậy, một Nhà
nước pháp quyền là Nhà nước cần phải bảo đảm được quyền con người, được cụ thể hóa
trong pháp luật của Nhà nước, ghi nhận quyền con người trong hệ thống pháp luật nói
chung và pháp luật tố tụng hình sự nói riêng. Ghi nhận quyền con người trong pháp luật
11


không chỉ giới hạn trong mỗi quốc gia mà là những giá trị cao quý đã được ghi nhận
trong suốt lịch sử văn minh nhân loại. Trong các văn kiện quốc tế như Tuyên ngôn nhân
quyền thế giới năm 1948 (UHDR); Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm
1966 (ICCPR); Hiến chương Liên Hợp Quốc về quyền con người, 1945, Các quy tắc

hành động của cán bộ thi hành pháp luật, 1979, Các nguyên tắc cơ bản về tính độc lập
của tồ án, 1985; Các ngun tắc cơ bản về vai trò của Luật sư, 1990; Các hướng dẫn về
vai trị của Cơng tố viên, 1990…… đã ghi nhận quyền con người một cách rõ ràng.
Theo UHDR và ICCPR quyền con người trong TTHS được quy định tại các điều 5,
7, 9, 10, 11, 14, 15 bao gồm các quyền sau: Quyền được xét xử công bằng bởi một thủ
tục tố tụng hình sự; Quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và
quyền tự do cá nhân khác; Quyền được nhanh chóng minh oan; Quyền được bào chữa và
biện hộ, Quyền không bị xét xử quá mức chậm trễ; Quyền không bị kết tội hai lần về
cùng một hành vi; Quyền được suy đốn vơ tội; Quyền kháng cáo bản án để xét xử phúc
thẩm; Người chưa thành niên phải được áp dụng thủ tục tố tụng hình sự đặc biệt;…..
1.3 Khái niệm bị cáo trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Bộ Luật TTHS 2015 dành một chương trong bộ luật để định nghĩa về những người tham
gia TTHS, trong đó tại điều 61 của Bộ Luật TTHS 2015 định nghĩa bị cáo như sau: “Bị
cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Quyền và nghĩa vụ
của bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp
nhân theo quy định của Bộ luật TTHS này”. Vì vậy có thể hiểu là bị cáo là người bị khởi
tố về hình sự, bị Viện kiểm sát truy tố và bị Tòa án đưa ra xét xử, bị cáo được hiểu là
người bị cáo buộc vi phạm một tội nào đó trong Bộ luật hình sự, khác với trường hợp bị
can đó là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự mà chưa có quyết định của Tòa án
đưa ra xét xử, bị can được hiểu là người liên can đến một vi phạm nào đó. Qua phân tích
trên có thể thấy bị cáo là tư cách pháp lý của người tham gia tố tụng hình sự sau quá trình
điều tra, truy tố, hồ sơ vi phạm của bị cáo đã được chuyển sang Tòa án và Tòa án nhận
thấy cần thiết đưa bị cáo ra xét xử bằng một quy trình và thủ tục TTHS.
12


1.4. Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử theo Luật quốc tế
Trong tiến trình hội nhập quốc tế, tính đến nay, Việt Nam đã là tham gia một số
Công ước quốc tế như: ICCPR (tham gia năm 1982); Công ước về không áp dụng thời
hiệu tố tụng đối với tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại năm 1968 (tham gia năm

1983); CRC (tham gia năm 1990); Tham gia hầu hết các công ước quốc tế về quyền con
người cho thấy sự khẳng định và quyết tâm của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc
tôn trọng và bảo đảm quyền con người. Các chuẩn mực quốc tế về quyền con người đã
được Đảng và Nhà nước thực hiện thông qua việc thực hiện các điều ước quốc tế về
quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Đồng thời Nhà nước chuyển hóa các điều
luật quốc tế thành “nội luật hóa” pháp luật việt nam thông qua các bản Hiến pháp và Bộ
luật TTHS. Theo các văn bản pháp lý quốc tế thì quyền con người trong TTHS có thể xếp
vào hai nhóm: 1) Các quyền sống, quyền an toàn về thân thể, danh dự, nhân phẩm của cá
nhân trong TTHS. 2) Quyền được xét xử nhanh chóng, khơng trì hỗn, cơng bằng bởi
một Tịa án độc lập. Như đã phân tích ở trên thì xét xử là đích cuối cùng xun suốt q
trình của TTHS, và nhóm quyền thứ 2 trong TTHS ảnh hưởng và chi phối trực tiếp các
quyền con người của bị cáo trong xét xử.
Điều 1 của Tuyên ngôn toàn thế giới về Quyền con người (UDHR) tuyên bố” Mọi
người sinh ra tự do và bình đẳng về phẩm cách và quyền lợi, có lý trí và lương tri, và phải
đối xử với nhau trong tình bằng hữu”. Điều 3 của UDR khẳng định: “Ai cũng có quyền
được sống, tự do, và an toàn thân thể”.
Khoản 2 điều 11 của UDHR, 1948 cũng ghi nhận: “Khơng ai có thể bị kết án về
một tội hình sự do những điều mình đã làm hay khơng làm, nếu những điều ấy khơng cấu
thành tội hình sự chiếu theo luật pháp quốc gia hay luật pháp quốc tế hiện hành; mà cũng
không bị tuyên phạt một hình phạt nặng hơn hình phạt được áp dụng trong thời gian
phạm pháp”.
Những người bị tạm giam, tạm giữ vì tình nghi phạm tội theo luật hình sự, họ cần
được xét xử và phán quyết bởi Tòa án để xác định tội của họ. “Việc đối xử với một người
13


khi họ bị buộc tội phản ảnh rõ mức độ tơn trọng nhân quyền của Nhà nước đó. Quyền xét
xử công bằng được coi như nền tảng của các xã hội dân chủ và là quyền thiết yếu
(essential) trong mọi quốc gia pháp trị - The Right to a Fair Trial). Nhóm quyền này là
tập hợp các quyền bao gồm: Bình đẳng trước Tịa án; Quyền được xét xử nhanh chóng và

được xét xử bởi một Tịa án độc lập, khơng thiên vị, cơng khai; Được suy đốn vơ tội;
Khơng bị áp dụng hồi tố; Khơng hình sự hóa vụ án dân sự, Quyền kháng cáo bản án để
xét xử phúc thẩm; Quyền không bị kết tội hai lần về cùng một hành vi; Quyền bào chữa ;
Quyền được xét xử theo thủ tục riêng của người chưa thành niên.....


Quyền của bị cáo trong xét xử hình sự có thể hiểu là quyền của người bị

buộc tội trong vụ án hình sự trước cơ quan tư pháp. Về nhóm quyền này tại Điều 10
Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế 1948 (UDHR) nêu rõ: “Ai cũng có quyền, trên căn bản
hồn tồn bình đẳng, được một Tồ án độc lập và vô tư xét xử một cách công khai và
công bằng để phán xử về những quyền lợi và nghiã vụ của mình, hay về những tội trạng
hình sự mà mình bị cáo buộc”. Cũng tại Khoản 1 điều 11 của tuyên ngôn trên: “Bị cáo bị
cáo buộc về một tội hình sự được suy đốn là vơ tội cho đến khi có đủ bằng chứng phạm
pháp trong một phiên xử công khai với đầy đủ bảo đảm cần thiết cho quyền biện hộ”. Có
thể nói thêm rằng những bằng chứng phạm pháp và thủ tục xét xử phải được thu thập
theo đúng quy trình pháp luật TTHS, khi chưa có bản án có hiệu lực của Tịa án thì bị cáo
phải được coi là vơ tội, được đối xử bình đẳng, công bằng và tôn trọng. Đây là bước tiến
vĩ đại của nhân loại trong tư duy pháp lý về nhân quyền, nó phải được xem như là sợi chỉ
đỏ xuyên suốt trong tư duy của cơ quan tư pháp từ giai đoạn người phạm tội bị tình đến
khởi tố, điều tra, bắt tạm giam và xét xử.


Quyền được xét xử nhanh chóng để xác định tính hợp pháp của việc bắt giữ

người cũng được cụ thể hóa bằng Điều 9 của Công ước quốc tế (ICCPR) năm 1966: “Bất
cứ người nào do bị bắt hoặc giam giữ mà bị tước tự do đều có quyền yêu cầu được xét xử
trước Tịa án, nhằm mục đích để Tịa án đó có thể quyết định khơng chậm trễ về tính hợp
pháp của việc giam giữ và ra lệnh trả lại tự do cho họ, nếu việc giam giữ là bất hợp
pháp”. Cũng tại khoản 3, điều 9 Công ước quốc tế (ICCPR) “Bất cứ người nào bị bắt

14


hoặc bị giam giữ vì một tội hình sự phải được sớm đưa ra Toà án hoặc một cơ quan tài
phán có thẩm quyền thực hiện chức năng tư pháp và phải được xét xử trong thời hạn hợp
lý hoặc được trả tự do. Trong ICCPR, bên cạnh các quyền con người như quyền sống,
quyền tự do thân thể thì quyền được xét xử công bằng cũng là một trong các quyền cơ
bản của con người, đã được quy định trong điều 14 của ICCPR, đã bao quát hầu hết các
nội dung của quyền con người. 1) Mọi người đều bình đẳng trước các Tồ án và cơ quan
tài phán. Mọi người đều có quyền được xét xử cơng bằng và cơng khai bởi một Tồ án có
thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật; 2) Quyền được
suy đốn vơ tội; 3) Quyền được thông báo lý do buộc tội, 4) Quyền bào chữa hoặc tự bào
chữa, hoặc có người bào chữa và được nhận sự trợ giúp pháp lý theo chỉ định trong
trường hợp lợi ích của cơng lý địi hỏi, 5) Quyền được xét xử mà khơng bị trì hỗn một
cách vơ lý, được có mặt trong khi xét xử, được thẩm vấn hoặc yêu cầu thẩm vấn những
nhân chứng, không bị buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình; 6) Được áp dụng
thủ tục riêng đối với người chưa thành niên; 7) Được xét xử phúc thẩm; 8) Được bồi
thường khi bị kết án oan, trừ trường hợp cơ quan tố tụng chứng minh rằng việc sự thật
khơng được làm sáng tỏ tại thời điểm đó hồn toàn hoặc một phần là do lỗi của người bị
kết án gây ra; 9) Không bị xét xử hai lần về cùng một tội danh mà người đó đã bị kết án
hoặc đã được tuyên trắng án, 10) Các quyền tố tụng của người bị buộc tội được bảo đảm
thực hiện đầy đủ như quyền được thông báo không chậm trễ và chi tiết bằng một ngơn
ngữ mà người đó hiểu về bản chất và lý do buộc tội mình; 11) được xét xử nhanh chóng,
kịp thời mà khơng bị trì hỗn một cách vơ lý; được có mặt trong khi xét xử, 12) được
phiên dịch miễn phí nếu khơng hiểu hoặc khơng nói được ngơn ngữ sử dụng trong phiên
toà, 13) Thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử. Bất cứ người nào bị kết án là phạm tội đều
có quyền u cầu tồ án cấp cao hơn xem xét lại bản án và hình phạt đối với mình theo
quy định của pháp luật, 14) Tố tụng hình sự áp dụng đối với những người dưới 18 tuổi
phải xem xét tới độ tuổi của họ và mục đích thúc đẩy sự phục hồi nhân cách của họ.
Mặt khác, tại các nước thuộc liên minh Châu Âu thì Cơng ước Châu Âu cũng quy

định rất rõ về quyền của con người. Điều 6 của Công ước này quy định quyền xét xử

15


cơng bằng, trong đó có quyền của người bị buộc tội, đây là điều khoản được viện dẫn
nhiều nhất bởi Ủy ban Châu Âu và Tòa án nhân quyền Châu Âu bao gồm các điều khoản:
Điều 6.1 Công ước quy định người bị buộc tội có quyền được xét xử bởi Tịa án; các bên
được đối xử cơng bằng trong xét xử và có quyền tham gia phiên tịa và xét xử công khai
trong việc giải quyết các vụ việc dân sự và hình sự bao gồm 2 nội dung, một là quy định
quyền của người bị buộc tội – điều này đã xác định các nguyên tắc cơ bản để bảo đảm
các quyền lợi của người bị buộc tội, trên cơ sở các nguyên tắc trong hoạt động tố tụng.
Điều 6.2, Công ước quy định người bị buộc tội được suy đốn là khơng có tội cho đến
khi tội phạm được chứng minh theo quy định của pháp luật – Nguyên tắc này đặt ra
nhiệm vụ cho Tòa án phải xem xét vấn đề theo hướng có lợi cho bị cáo mà không bị ràng
buộc bởi bất cứ định kiến nào, và chỉ có thể kết tội anh ta trên cơ sở đã xem xét, đánh giá
các chứng cứ được xem là hợp pháp và được thu thập theo một trình tự, thủ tục luật định.
Như vậy, theo cơng ước này quy định sự kết tội của tòa án chỉ có giá trị pháp lý khi dựa
trên việc đánh giá và xem xét một cách khách quan các chứng cứ đã được thu thập theo
một trình tự và thủ tục hợp pháp. Ngun tắc suy đốn là khơng có tội buộc tịa án phải
nhìn nhận bị cáo trên quan điểm là khơng có tội, nếu ngay từ đầu Tịa án coi bị cáo là
người có tội thì tại phiên tịa xét xử, Tịa án sẽ tập trung đi tìm chứng cứ buộc tội mà
không tập trung đánh giá các chứng cứ, ý kiến tranh luận của các bên để tìm ra sự thật
của vụ án. Đồng thời nếu coi bị cáo là người phạm tội thì ngay cả giai đoạn điều tra cũng
không bảo đảm công bằng, cơ quan điều tra sẽ có định hướng cố tìm ra bằng chứng để
kết tội người bị buộc tội hơn là tìm ra chứng cứ khách quan. Và như vậy sẽ gây bất lợi và
có ý buộc tội người bị buộc tội ngay từ đầu. Một điều quan trọng trong nguyên tắc TTHS
không chỉ ở luật TTHS Việt Nam mà cũng là nguyên tắc chung của TTHS thế giới đó là
thẩm quyền chứng minh tội phạm được “đẩy” cho cơ quan điều tra – có nghĩa là khi buộc
tội cơ quan điều tra phải đưa ra được chứng cứ buộc tội, chứ không phải yêu cầu người bị

buộc tội đưa ra chứng cứ rằng họ không phạm tội, nhưng cho phép người bị buộc tội có
quyền đưa ra những chứng cứ cho rằng bản án của Tịa án là khơng chính đáng và sẽ bị
bác bỏ bởi cấp phúc thẩm. Việc làm này sẽ bảo đảm được quyền lợi chính

16


đáng của bị cáo. Điều 6.3 về quyền được xét xử cơng bằng , trong đó có quyền được xét
xử cơng khai trước một Tịa án độc lập và khơng thiên vị trong thời gian hợp lý, quyền
được coi là vơ tội khi chưa có phán quyết của Tịa án, và các quyền tối thiểu khác đối với
những người bị cáo buộc một tội hình sự ((Quyền được thơng báo kịp thời về lý do họ bị
buộc tội và đòi hỏi phải chính xác, đầy đủ để họ có điều kiện chuẩn bị cho việc bào chữa
(Điều 6.3a); Quyền được tạo điều kiện thuận lợi về thời gian thích hợp để chuẩn bị cho
việc bào chữa (Điều 6.3b); Quyền được tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa (Điều
6.3c); Quyền được thu thập chứng cứ và kiểm tra chứng cứ do nhân chứng cung cấp
chống lại mình (Điều 6.3d); Quyền được có phiên dịch miễn phí: khi người bị buộc tội
không hiểu ngôn ngữ đang được sử dụng để chống lại anh ta (Điều 6.3e)) – Đây là các
quy định cụ thể về các quyền cơ bản của người bị buộc tội. Vấn đề bảo đảm quyền của
người bị buộc tội theo nội dung Điều 6 Công ước Châu Âu về quyền con người được thể
hiện ở hai góc độ: Một là, quyền của người bị buộc tội được bảo đảm trên cơ sở các
nguyên tắc trong hoạt động tố tụng. Hai là, các quy định cụ thể về các quyền cơ bản của
người bị buộc tội.
_Tuyên ngôn về nhân quyền nước Mỹ quy định nguyên tắc xét xử cơng bằng:
trong mọi trường hợp bị truy tố hình sự, bị cáo có quyền được xét xử nhanh chóng và
cơng khai bởi một Bồi thẩm đồn cơng bằng…, bị cáo được thơng báo tính chất, lý do
buộc tội, được đối chất với nhân chứng chống lại mình và được sự giúp đỡ của luật sư
bào chữa (Điều 6)
_Bộ Luật TTHS Pháp hiện hành quy định quyền của của bị cáo trong xét xử:
Nguyên tắc bảo đảm quyền con người trong pháp luật TTHS của Pháp được đề cập
ngay tại Điều 1- P - Điều khoản sơ bộ bao gồm các ngun tắc:

+Tố tụng hình sự phải cơng bằng và tranh tụng, duy trì sự cân bằng về quyền giữa
các bên. Những người nào thuộc các trường hợp tương tự nhau và bị truy tố bởi các tội
danh giống nhau thì phải được xử lý theo các quy định pháp luật giống nhau.

17


+Cơ quan tư pháp bảo đảm là các nạn nhân được thông báo và các quyền của họ
được tôn trọng trong suốt bất kỳ quá trình tố tụng nào.
+ Bất kỳ ai bị nghi ngờ hoặc truy tố được suy đốn vơ tội chừng nào chưa chứng
minh được tội của họ. Việc vi phạm ngun tắc suy đốn vơ tội bị cấm, và phải bị bồi
thường, trừng phạt trong các trường hợp luật định.
+Người này có quyền được thơng báo về cáo buộc chống lại họ và được bào chữa
về mặt pháp lý.
+Các biện pháp cưỡng chế mà người này phải chịu được tiến hành bởi hoặc dưới
sự kiểm soát hiệu quả của cơ quan tư pháp. Chúng phải được giới hạn một cách nghiêm
ngặt trong sự cần thiết của tiến trình, tương ứng với mức độ nghiêm trọng của tội phạm bị
cáo buộc và không xâm phạm phẩm giá của con người.
+Việc buộc tội đối với người này phải được đưa ra trước phán quyết cuối cùng
trong thời gian hợp lý.
+Bất kì ai bị kết án có quyền được Toà án cấp thứ hai thẩm tra việc kết án.
_Bộ TTHS

Liên bang Nga cũng thể hiện rõ mục tiêu bảo vệ lợi ích của con người, bảo

vệ lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức là nạn nhân của tội phạm, không hạn chế các quyền
tự do cá nhân khơng có căn cứ và trái pháp luật, đồng thời xác định trách nhiệm của Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát (VKS) và Tòa án trong khi tiến hành tố tụng phải tôn trọng các quyền,
tự do của những người tham gia tố tụng. Theo quy định tại Điều 6 Bộ luật TTHS Liên bang
Nga thì tố tụng hình sự có 3 nhiệm vụ chính, đó là: Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các

cá nhân và tổ chức, của những người bị thiệt hại do tội phạm gây ra; bảo đảm không ai bị
buộc tội, bị kết án, bị hạn chế các quyền và tự do một cách khơng có căn cứ và trái pháp luật;
việc truy cứu trách nhiệm hình sự, áp dụng hình phạt một cách công bằng đối với người
phạm tội, đồng thời không được truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với
người khơng phạm tội, minh oan cho bất cứ người nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự một
cách khơng có căn cứ [29].Nội
18


dung luật TTHS liên bang Nga cũng bao gồm một số nguyên tắc chung về quyền của bị
cáo trong việc bảo đảm quyền con người như là: Nguyên tắc suy đốn vơ tội (Điều 14);
Tơn trọng danh dự và nhân phẩm của cá nhân (Điều 9); Quyền bất khả xâm phạm của cá
nhân (Điều 10); Bảo vệ các quyền và tự do của con người và của công dân trong tố tụng
hình sự (Điều 11); Bảo đảm tranh tụng giữa các bên (Điều 15), Quyền được bào chữa
(Điều 16); Các quyền của người bào chữa (Điều 49); Quy định về khiếu nại quyết định và
hành vi của Tòa án và những người THTT (từ Điều 123 đến Điều 127), Quy định về
minh oan (từ Điều 133 đến Điều 139)…..
_Luật TTHS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) cũng chứa đựng vài
nguyên tắc chung của TTHS quốc tế: “Không ai bị coi là có tội nếu khơng bị xét xử và
kết án bởi một Toà án nhân dân theo quy định của pháp luật (Điều 12). Đây cũng là điểm
tương đồng giữa luật pháp Trung Quốc và luật pháp Việt Nam. Quy định Toà án nhân dân
thực hành quyền xét xử độc lập (Điều 5); Bảo đảm quyền được bào chữa (Điều 32-Điều
39); Bảo đảm quyền không bị quá hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn (Điều 124, 126)” ….
Về cơ bản pháp luật TTHS Trung Quốc và pháp luật Việt Nam có nhiều nét
tương đồng trong việc quy định bảo đảm quyền của bi can, bị cáo trước xét xử và trong
xét xử.
Từ những khái niệm trên, tác giả có nhận xét rằng luật nhân quyền quốc tế có nhiều
điểm tiến bộ và quy đinh đầy đủ hơn về quyền con người trong TTHS nói chung và giai
đoạn xét xử nói riêng so với pháp luật Việt Nam. Cụ thể là luật nhân quyền quốc tế đã ghi
nhận cho bị cáo được quyền xét xử nhanh chóng, quyền im lặng, trong khi pháp luật Việt

Nam chưa có ghi nhận chính thức về những quyền này mà chỉ quy nhận một cách gián
tiếp qua các quy định khác. Có thể thấy rằng so với luật quốc tế thì các văn bản chúng ta
đã nội luật hóa thường có nội hàm hẹp hơn. Xét một cách tổng quát các quy định của
Luật nhân quyền quốc tế ln mang tính nhân văn, vì con người vì Luật nhân quyền quốc
tế ra đời nhằm mục đích xác lập, bảo vệ và thúc đẩy các quyền và tự do cơ bản cho mọi
thành viên của cộng đồng nhân loại. Trong khi đó pháp luật Việt Nam ra đời ngoài mục

19


đích bảo vệ các quyền con người, cịn phải hướng đến mục đích khác nhau như: vừa là để
đấu tranh phòng chống tội phạm, vừa xử phạt người phạm tội, vừa bảo vệ lợi ích nhà
nước và cộng đồng, bảo vệ các giá trị xã hội, vừa nội luật hóa các vấn đề liên quan đã
tham gia trong các công ước quốc tế, vừa phải xuất pháp từ thực tiễn của quốc gia. Do
đó, một số các quy định bảo đảm quyền con người trong pháp luật Việt Nam có thể bị
lược bỏ hoặc sửa đổi cho phù hợp với thực tế Việt Nam là điều tất nhiên.
1.5. Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử theo Luật Tố tụng hình
sự Việt Nam từ năm 2015 đến nay
1.5.1 Quy định bảo đảm quyền không phân biệt đối xử và đối xử bình đẳng
Điều 9, Bộ luật TTHS 2015 nêu rõ: Quyền bình đẳng của mọi cơng dân được hiểu
là sự bình đẳng như nhau của mọi cơng dân trong mọi lĩnh vực của hoạt động nhà nước
và xã hội mà khơng có sự ưu tiên, ưu đãi, phân biệt đối xử với bất cứ đối tượng nào.
Không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tơn giáo, thành phần, địa vị xã hội. Điều
này được hiểu theo luật TTHS là bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo trình tự thủ
tục của pháp luật TTHS khơng phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành
phần, địa vị xã hội; mọi công dân ở địa vị pháp lý như nhau thì có quyền và nghĩa vụ tố
tụng như nhau, áp dụng pháp luật như nhau.
1.5.2 Quyền khơng bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp
luật của Tịa án.
Theo ngun tắc suy đốn vơ tội tại Điều 13 của Bộ luật TTHS 2015 thì người bị

buộc tội chỉ coi là có tội khi thỏa cả hai yếu tố đó là phải được chứng minh theo trình tự,
thủ tục do Bộ luật TTHS quy định và có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp
luật. Luật TTHS ghi rõ “cho đến khi” được chứng minh theo thủ tục và bản án có hiệu
lực của Tịa án, vì vậy hiểu trên ngun lý là khi chưa có 2 điều kiện đã nói ở trên thì
người bị buộc tội vẫn chưa bị coi là có tội, vì vậy họ vẫn phải được bảo đảm hầu hết các
quyền công dân của họ.
20


Nguyên tắc này được quy định lại từ nguyên tắc được quy định tại Điều 9 Bộ Luật
TTHS 2003 với nội dung “khơng ai bị coi là có tội” được sửa lại thành” “Người bị buộc
tội được coi là không có tội”. Đây là điểm kế thừa và hồn thiện khi mà luật năm 2015
chỉ quy định suy đốn vơ tội chỉ dùng cho người bị buộc tội, còn luật 2003 có thể hiểu là
tất cả mọi người, tất cả cơng dân đều được suy đốn vơ tội. Mặc nhiên, một người, một
cơng dân khơng có tội thì khơng thể dùng ngun tắc suy đốn vơ tội với người đó được,
mà phải mặc nhiên coi người đó khơng có tội.. Mặt khác, Điều 13 Luật TTHS 2015 quy
định thêm yêu cầu đó là việc buộc tội phải được chứng minh theo trình tự, thủ tục của
luật và đồng thời bỏ cụm từ “phải chịu hình phạt” như trong luật TTHS 2003. Cụm từ
“phải chịu hình phạt” vơ hình dung làm người đọc liên tưởng đến tư duy ưu tiên chọn
hình phạt trước trong tư duy pháp lý về TTHS của nước ta. Đó là bước tiến, khơng ngừng
cải cách hồn thiện pháp luật của Đảng và Nhà nước trên quan điểm bảo vệ tối đa quyền
con người.
Thứ hai cũng tại khoản 2, Điều 13, Luật TTHS 2015 quy định khi không đủ và
không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy
định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội
khơng có tội. Trong các giai đoạn tố tụng đặc biệt là q trình xét xử mà khơng chứng
minh được bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội thì phải tun vơ tội, và mọi nghi ngờ
trong q trình tố tụng phải được giải thích theo hướng có lợi cho người bị buộc tội. Luật
hoá nguyên tắc suy đốn vơ tội nhằm thay đổi nhận thức của người tiến hành tố tụng và
quan điểm của nhà nước nhằm bảo đảm quyền con người trong TTHS. Luôn quan niệm

bản chất coi người theo hướng nhân văn, lương thiện, tránh quan niệm “Giết nhầm cịn
hơn bỏ sót”.
1.5.3 Ngun tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo
Theo quy định của điều 16 BLTTHS thì người bị buộc tội có quyền tự bào chữa,
nhờ Luật sư hoặc người khác bào chữa. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
có trách nhiệm thơng báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị can, bị cáo

21


thực hiện đầy đủ quyền bào chữa nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy
định của Bộ luật TTHS.
Quy định về quyền bào chữa cũng là một trong những nguyên tắc rất quan trọng
trong TTHS nhằm bảo đảm QCN của bị cáo. Bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ
người bào chữa để chứng minh sự vô tội hoặc nhằm làm giảm nhẹ tội trước những cáo
buộc của cơ quan tố tụng đặt ra cho họ. Hay nói cách khác quyền bào chữa được pháp
luật quy định để người bị buộc tội chống lại sự buộc tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự. Luật TTHS cũng quy định cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có
trách nhiệm thơng báo, giải thích và bảo đảm quyền được bào chữa của bị cáo. Bởi vì hơn
ai hết bị cáo là người hiểu rõ sự việc của vụ án. Vì vậy, quy định bị cáo có quyền tự bào
chữa là hết sức cần thiết. Trong những trường hợp, bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có
nhược điểm về thể chất và tâm thần, người bị truy tố về tội có khung hình phạt từ 20 năm
tù trở lên nếu bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không nhờ người bào chữa thì
Tịa án phải chỉ định người bào chữa cho họ. Người bị buộc tội hoặc người đại diện,
người thân thích của người bị buộc tội quy định tại điểm b khoản 1 Điều 76 của Bộ luật
TTHS có quyền từ chối người bào chữa. Nhưng trong trường hợp người bị truy tố về tội
có khung hình phạt từ 20 năm tù trở lên thì luật yêu cầu bắt buộc phải có người bào chữa.
Đó cũng là một quy định thể hiện tính nhân văn, cơng bằng đối với những người phạm
tội mà nếu bị kết án sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền tự do của họ, thậm chí ảnh
hưởng đến quyền sống của con người. Một tư tưởng được tác giả xem là tiến bộ trong tư

duy pháp lý về quyền con người của luật TTHS 2015 so với luật 2003 về quy định thay
đổi hoặc từ chối người bào chữa đó là trong trường hợp người bị bắt, người bị tạm giữ,
người bị tạm giam trong giai đoạn điều tra có đề nghị từ chối người bào chữa do người
thân thích của họ nhờ thì Điều tra viên phải cùng người bào chữa đó trực tiếp gặp người
bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam để xác nhận việc từ chối (Điều 77, Luật
TTHS 2015). Đây là quy định nhằm tránh việc ép cung, mớm cung hoặc dùng nhục hình
để người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam từ chối việc mời người bào chữa.
Tiếp theo nữa là luật TTHS 2003 quy định chủ thể của quyền bào chữa là người bị
22


tạm giữ, bị can, bị cáo không đề cập đến trường hợp người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp, người bị bắt thì Luật TTHS 2015 đã mở rộng quyền tự bào chữa hoặc nhờ người bào
chữa trong trường hợp bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm
tội quả tang hoặc bị bắt theo quyết định truy nã ( điểm g khoản 1, điều 58, Bộ Luật TTHS
2015).
Ngoài nguyên tắc quy định quyền bào chữa của bị can, bị cáo thì Bộ luật TTHS
2015 dành hẳn một chương để quy định về quyền bào chữa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp
của người bị hại, đương sự từ điều 72 đến điều 84 trong đó quy định trách nhiệm thông
báo cho người bào chữa (Điều 79); Thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng, đối với
trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có
mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra (Điều 74), Quyền của người bào chữa (Điều 73,
80,81,82...). Bên cạnh đó, để bảo đảm người bào chữa có mặt sớm nhất có thể để bảo vệ
quyền lợi từ khi bị can, bị cáo, Luật TTHS quy định trách nhiệm thông báo cho người
bào chữa (Điều 79) và quy định thời gian, thủ tục đăng ký bào chữa (Điều 78). Vấn đề
quy định người bào chữa có mặt ngay từ đầu của quá trình bắt, giữ, tạm giữ, tạm giam
giúp cho người bào chữa có đầy đủ thơng tin và bằng chứng phục vụ cho việc bào chữa
trước phiên tòa xét xử.
Bảo đảm thực hiện quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa của bị cáo,
BLTTHS 2015 đã có những quy định về quyền của bị cáo tại các Điều 58, Điều 59, Điều

60, Điều 61 đó là các quyền:
+ Được biết lý do mình bị bắt, tạm giữ, bị khởi tố. Đây là yếu tố cơ bản nhất để
tránh trường hợp bắt giữ người tùy tiện, đồng thời cũng là bảo đảm quyền bào chữa của
họ bởi vì điều đầu tiên khi biết tội danh đang bị cơ quan thẩm quyền buộc tội gì thì họ
mới có thể đưa ra những chứng cứ, lý lẽ để bào chữa.
+ Được thơng báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ theo luật: Ngoài việc giao quyết
định tạm giam, tạm giữ, quyết định khởi tố.... thì Cơ quan điều tra phải thơng báo, giải
thích cho bị can biết quyền và nghĩa vụ của họ tạo điều kiện cho người bị bắt, bị giữ, bị
23


can thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ của họ để tạo thuận lợi cho việc bào chữa của bị
cáo sau này.
+ Được nhận lệnh bắt giữ người trong trường hợp khẩn cập, quyết định khởi tố,
quyết định tạm giữ, quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn. Quy
định này để bảo đảm quyền được biết để thực hiện tốt quyền bào chữa của mình. Đồng
thời cũng địi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ việc theo đúng thủ tục, trình
tự, và các quyết định đưa ra phải có văn bản cơng khai, minh bạch.
+ Được trình bày lời khai, trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ, tài liệu chứng minh,
không buộc phải đưa ra lời khai chống lại mình hoặc phải thừa nhận mình có tội. Vì vậy,
trong trường hợp họ từ chối khai báo hoặc khai báo gian dối thì cũng khơng phải chịu
trách nhiệm hình sự về hành vi đó cũng như khơng bị áp dụng những tình tiết này là tình
tiết tăng nặng hình phạt. Bị can cũng có thể đưa ra những tài liệu, đồ vật nhằm chứng
minh họ không liên quan đến vụ việc, đồng thời họ cũng có quyền yêu cầu xác minh lại
sự việc, yêu cầu Cơ quan điều ra đưa ra những bằng chứng chứng minh lý do bắt giữ, tạm
giam. Đây phải được coi là quyền mà không phải nghĩa vụ của họ.
+ Quyền đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch
thuật… nếu có căn cứ cho rằng họ không bảo đảm sự vô tư, công bằng trong khi giải
quyết vụ việc. Trong trường hợp này các cơ quan có thẩm quyền phải xem xét giải quyết

yêu cầu của bị can, bị cáo nếu có căn cứ.
+ Quyền tham dự phiên tòa: Tại phiên tòa, bị cáo được bình đẳng với các chủ thể
khác trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu và tranh luận tại phiên tịa. Vì vậy, quyền tham
dự phiên tịa của bị cáo bảo đảm sự dân chủ, công bằng trong việc làm sáng tỏ sự thật vụ
án. Ngoài ra, bị cáo cũng có quyền đề nghị triệu tập người làm chứng, bị hại, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người giám định, người định giá tài sản, người
tham gia tố tụng khác và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tham gia phiên tòa.

24


+ Quyền tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa. Luật TTHS cũng quy định ngoài tự
bào chữa, bị can, bị cáo có quyền nhờ người khác bào chữa. Bảo đảm quyền của người
bào chữa cũng đồng thời bảo đảm quyền được bào chữa của bị can, bị cáo. Để bảo đảm
quyền của người bào chữa điều 73 BLTTHS quy định toàn bộ quyền và nghĩa vụ của
người bào chữa, gồm các quyền:
+ Gặp, hỏi người bị buộc tội, có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ:
Quy định người bào chữa có quyền gặp gỡ trao đổi, tiếp xúc với người bị buộc tội giúp
người bào chữa nắm đầy đủ các tình tiết của vụ án, trên cơ sở đó tìm ra những tình tiết gỡ
tội cho người bị buộc tội, trong quá trình hỏi người bị buộc tội, người bào chữa có thể
phát hiện ra các tình tiết có lợi cho người bị buộc tội. Đồng thời sự có mặt của người bào
chữa giúp người bị buộc tội an tâm, tự tin hơn khi một mình đối mặt với các cơ quan
cơng quyền. Mặt khác, sự có mặt của người buộc tội cũng mang ý nghĩa giám sát, kiểm
soát các hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng bảo đảm các cơ quan tiến hành tố tụng
phải thực hiện theo đúng quy trình, thủ tục pháp luật.
+ Xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng
liên quan đến người mà mình bào chữa. Quy định người bào chữa có thể xem biên bản về
hoạt động tố tụng của mình cũng là để giám sát việc thực hiện pháp luật của các cơ quan
nhà nước, bảo đảm các biên bản đó phản ánh đúng thực tế hoạt động tố tụng.
+ Quy định bị cáo, người bào chữa có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố

tụng, đề nghị thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế nếu có căn
cứ cho rằng những người này khi tham gia tố tụng hoặc những hoạt động này thực hiện
trong quá trình tố tụng là không công bằng, ảnh hưởng đến quyền lợi của người bào chữa,
ảnh hưởng đến quyền lợi của bị can, bị cáo, hoặc vi phạm quy định về thủ tụng TTHS.
Điều này yêu cầu sự công bằng, công minh, không vu lợi, khách quan của những người
tiến hành tố tụng.
1.5.4 Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng hoặc người
tham gia tố tụng.
25


×