Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn huyện krông bông, tỉnh đăk lăk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.32 KB, 76 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ TIẾN TÀI

TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN HUYỆN
KRÔNG BÔNG, TỈNH ĐĂK LĂK

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ TIẾN TÀI

TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN HUYỆN
KRƠNG BƠNG, TỈNH ĐĂK LĂK

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số:8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. PHAN ANH TUẤN

HỒ CHÍ MINH, năm 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số
liệu và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những
kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ cơng trình nào
khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Lê Tiến Tài


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài............................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài....................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.............................................................4
3.1. Mục đích nghiên cứu............................................................................4
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu........................................................................... 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..............................................................5
4.1. Đối tượng nghiên cứu...........................................................................5
4.2. Phạm vi nghiên cứu..............................................................................5
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu......................................5
5.1. Phương pháp luận................................................................................5
5.2. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.................................................6
7. Kết cấu của luận văn...................................................................................6
Chương 1..............................................................................................................8
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ
TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN................................................................................8

1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản............8
1.2. Phân biệt tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự Việt Nam với một
số tội chiếm đoạt tài sản khác.................................................................. 11
1.3. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản.
14
1.4. Khái quát lý luận định tội danh tội trộm cắp tài sản......................23
Chương 2............................................................................................................27
THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN
KRƠNG BƠNG, TỈNH ĐĂK LĂK.................................................................27
2.1. Đặc điểm, tình hình của huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk ảnh
hưởng đến áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản......27


2.2. Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm
cắp tài sản trên địa bàn huyện Krông Bông...........................................32
2.3. Những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình
sự trên địa bàn huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk................................ 46

2.4. Những nguyên nhân cơ bản dẫn đến những hạn chế, vướng mắc
trong thực tiễn xét xử tội trộm cắp tài sản..............................................49
Chương 3............................................................................................................52
CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN......................................... 52
3.1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội trộm
cắp tài sản.................................................................................................. 52
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội
trộm cắp tài sản.........................................................................................54
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện quy định của luật hình sự về tội trộm cắp
tài sản......................................................................................................... 54

3.2.2 Các giải pháp khác nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của Bộ
luật hình sự năm 2015 về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện
Krông Bông – tỉnh Đăk Lăk.....................................................................54
KẾT LUẬN........................................................................................................63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................65


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

TCTS:

Trộm cắp tài sản

BLHS:

Bộ luật hình sự

TAND:

Tịa án nhân dân

TNHS:

Trách nhiệm hình sự

BLDS:

Bộ luật dân sự

CTTP:


Cấu thành tội phạm

CĐTS:

Chiếm đoạt tài sản

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa

HĐXX:

Hội đồng xét xử

UBND:

Uỷ ban nhân dân

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Số lượng số vụ và bị cáo phạm tội tội trộm cắp tài sản bị đưa ra xét xử trong
nhóm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn huyện Krông Bông từ năm 2015 đến năm
2019 ............................................................................................................................... 29


Bảng 2.2. Tỷ lệ tội trộm cắp tài sản trong nhóm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn
huyện Krông Bông từ năm 2015 đến năm 2019............................................................
30
Bảng 2.3. Tỷ lệ tội phạm đã bị xét xử trên địa bàn huyện Krông Bông
giai đoạn từ
năm 2015 đến năm 2019 ................................................................................................

31



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phức tạp của tội phạm hình sự trên cả nước, tình hình tội phạm
hình sự trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk cũng có nhiều biến động và phức tạp, thủ đoạn
hoạt động ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Qua báo cáo tổng kết hàng năm ở địa bàn
tỉnh Đăk Lăk thì phương thức hoạt động của tội phạm rất đa dạng, mức độ thiệt hại
do chúng gây ra ngày càng lớn. Trong đó có các loại tội phạm như giết người, cướp
tài sản, hiếp dâm, lừa đảo, trộm cắp, buôn bán ma túy... gia tăng. Đặc biệt loại tội
phạm trộm cắp tài sản trong nhà dân xảy ra nhiều, thiệt hại do loại tội phạm này gây
ra rất lớn, làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới tình hình trật tự an tồn xã hội trên địa
bàn.
Krơng Bơng là một huyện vùng sâu, vùng xa tỉnh Đắk Lắk. Trong những năm
gần đây nhờ thực hiện đúng đắn các chính sách kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà
nước, huyện Krông Bông đang từng bước đổi mới và phát triển kinh tế theo hướng
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa để theo kịp xu hướng của đất nước. Cùng với sự phát
triển của nền kinh tế thì kèm theo đó là sự nảy sinh những vấn đề tiêu cực như các
tệ nạn xã hội, cũng như các tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình, tranh chấp di sản
thừa kế, tranh chấp đất đai, đặc biệt là tình hình tội phạm ngày càng gia tăng. Trong
đó, tội trộm cắp tài sản là tội xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản đang xảy

ra khá phổ biến. Trong thời gian gần đây, tình hình TCTS vẫn đang có những
chuyển biến khó lường, gây ra những thiệt hại lớn về tài sản, làm mất trật tự an tồn
xã hội, trong đó có địa bàn huyện Krông Bông. Mặc dù các cơ quan tiến hành tố
tụng tại địa bàn huyện đã nổ lực trong việc đấu tranh, phòng chống tội phạm, tuy
nhiên, việc xử lý loại hình tội phạm này vẫn cịn nhiều hạn chế, chưa thỏa mãn được
yêu cầu đặt ra trong vấn đề phịng chống tội phạm. Để khắc phục tình trạng trên thì
vấn đề đầu tiên là phải nắm vững các quy định của pháp luật về tội trộm cắp tài sản,
nhận thức đúng đắn hành vi phạm tội, xác định những vướng mắc trong việc áp
dụng quy định của pháp luật hình sự của tội này trên thực tiễn để từ đó xác định

1


được các nguyên nhân và đưa ra giải pháp khắc phục để có đường lối xử lý đúng
đắn, đảm bảo sự cơng bằng, nghiêm minh của pháp luật.
Vì vậy, Học viên đã lựa chọn đề tài “Tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn huyện
Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk” làm luận văn Thạc sĩ với mong muốn trên cơ sở nghiên
cứu lý luận và thực tiễn để khắc phục những bất cập trong quy định của pháp luật
hình sự và đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp
luật hình sự về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu về tội trộm cắp tài sản được rất nhiều nhà nghiên cứu lý luận,
luật gia hình sự, cán bộ pháp lý quan tâm. Đến nay ở các mức độ khác nhau, trực
tiếp và gián tiếp đã có nhiều cơng trình nghiên cứu được cơng bố như: giáo trình,
luận văn, luận án, các bài viết trên các tạp chí…Có thể kể ra một số cơng trình sau:
- Các giáo trình luật hình sự của các cơ sở đào tạo luật như: (1) Võ Khánh
Vinh (Chủ biên) (2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam- Phần Các tội phạm,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; (2) Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo
trình Luật hình sự Việt Nam- Phần Các tội phạm, Nxb Cơng an nhân dân, Hà Nội;
…Các giáo trình này cung cấp những kiến thức lý luận cơ bản về dấu hiệu pháp lý

của tội trộm cắp làm cơ sở tham khảo cho luận văn nghiên cứu về lý luận và quy
định của pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản.
- Các Luận văn thạc sỹ Luật hình sự và tố tụng hình sự có liên quan đến tội
trộm cắp tài sản có thể kể đến như: (1) Luận văn “Tội trộm cắp tài sản theo pháp
luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Phước” của tác giả Lê Thị Bình, Học
viện Khoa học xã hội Việt Nam, năm 2018; (2) Luận văn thạc sỹ Luật học “Thực
trạng, giải pháp nâng cao hiệu qua điều tra tội trộm cắp tài sản của lực lượng cảnh
sát điều tra công an tỉnh Quảng Trị” của tác giả Nguyễn Việt Hùng, Học viện Cảnh
sát nhân dân, năm 2014; (3) Luận văn thạc sỹ Luật học “Tội trộm cắp tài sản ở tỉnh
Quảng Nam: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa” của tác giả Phạm
Thị Bé, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam, năm 2014; (4) Luận văn thạc sỹ Luật
học “Đấu tranh phòng chống tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Chương Mỹ,

2


thành phố Hà Nội” của tác giả Nguyễn Anh Tuấn, Học viện Khoa học xã hội Việt
Nam, năm 2013; (5) Luận văn thạc sĩ “Tội trộm cắp tài sản do người nước ngoài
thực hiện từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Trần Thị Bích Liên,
Học viện Khoa học xã hội, 2016; (6) Nguyễn Thanh Tùng, “Tội trộm cắp tài sản
theo Luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu địa bàn thành phố Hồ Chí Minh)”,
Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013; (7) Trần Thị
Phường, Định tội danh đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu tại tỉnh Bình Định giai
đoạn 2006-2010, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội,
2011 … Các luận văn này, nghiên cứu tội trộm cắp tài sản dưới các góc độ khác
nhau và ở các địa phương khác nhau là tài liệu quan trọng cho tác giả tham khảo
xây dựng phần lý luận cũng như cách thức thực hiện nghiên cứu về tội trộm tài sản
khi áp dụng vào địa bàn nghiên cứu của luận văn là huyện Krông Bông, tỉnh Đăk
Lăk.
- Các bài viết trên các tạp chí có liên quan đến đề tài có thể kể đến như: (1) Lê

Văn Định (2017), “Bàn về nguyên nhân và điều kiện của tội trộm cắp tài sản ở Tây
Nguyên”, Kiểm sát, Số 10, tr. 20 – 24; (2) Dương Vân Anh (2014), “Yếu tố định
lượng tài sản đối với tội trộm cắp tài sản”, Kiểm sát, Số 23, tr.49-52;62; (3) Mai Bộ
(2008), “Quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội “trộm cắp tài sản”, Tòa án
nhân dân, 2008, số 4; (4) Nguyễn Văn Trượng (2008), “Một số vấn đề cần hoàn
thiện đối với Tội trộm cắp tài sản”, Tòa án nhân dân, số 4, tháng 2/2008; (5) Trần
Mạnh Hà (2006), “Định tội danh tội trộm cắp tài sản qua một số dấu hiệu đặc
trưng”, Nghề luật, số 5/2006 ...
Các bài viết trên các tạp chí nêu trên trong chừng mực nhất định gợi ý cho luận
văn những vướng mắc từ thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài
sản – dù việc áp dụng quy định về tội trộm cắp tài sản theo quy định của BLHS năm
1999.
Như vậy, qua các cơng trình nghiên cứu về tội trộm cắp tài sản trong Luật hình
sự Việt Nam được cơng bố trong thời gia qua có thể rút ra một số điểm sau:

3


Qua nghiên cứu các cơng trình trên cho thấy: một số cơng trình có phạm vi
nghiên cứu rộng, ngược lại có một số cơng trình chỉ nghiên cứu tội trộm cắp tài sản với
ý nghĩa là tội phạm để nghiên cứu các dấu hiệu pháp lý hình sự và hình phạt, có cơng

trình thì đã nghiên cứu chủ yếu về tội trộm cắp tài sản theo quy định của BLHS năm
1999, do vậy giá trị lý luận và thực tiễn còn hạn chế.
Trong thời gian từ năm 2015 đến nay, chưa có cơng trình nào đi sâu nghiên
cứu về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk cũng như địa bàn huyện Krơng
Bơng, trong khi đó loại tội phạm này đang diễn biến khá phức tạp tại địa phương,
thực tiễn áp dụng quy định của BLHS về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện
Krông Bông cho thấy những bất cập, khó khăn trong việc xác định đối tượng tác
động của tội phạm, một số dấu hiệu định tội, một số tình tiết định khung hình phạt

và mức phạt đối với người phạm tội.
Đối chiếu với các cơng trình nghiên cứu đã cơng bố trong nước những năm
gần đây liên quan đến đề tài về tổng thể vẫn còn nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên
cứu, có giá trị lý luận và thực tiễn và khơng trùng lặp với các cơng trình đã cơng bố
do tính đặc thù về địa bàn thực tiễn nghiên cứu là huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk.
Từ các lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài “Tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn địa bàn
huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk” để làm Luận văn Thạc sĩ Luật học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật hình sự về
Tội trộm cắp tài sản theo quy định của BLHS Việt Nam năm 2015, đồng thời đi sâu
vào phân tích thực tiễn xét xử tội trộm cắp tài sản từ năm 2015 đến 2019 trên địa
bàn huyện Krông Bông, Luận văn đưa ra một số vướng mắc, tồn tại trong thực tiễn
áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản để đề xuất một số kiến nghị,
giải pháp hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các
quy định của BLHS Việt Nam về loại tội phạm này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích trên, đề tài xác định các nhiệm vụ nghiên cứu sau:

4


- Phân tích khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản theo quy
định của Bộ luật hình sự Việt Nam;
- Phân biệt tội trộm cắp tài sản với một số tội phạm xâm phạm sở hữu khác
- Phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật đối với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn
huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk; những hạn chế, bất cập trong áp dụng pháp luật
hình sự đối với trộm cắp tài sản .
- Đưa ra các giải pháp nhằm hồn thiện pháp luật hình sự hiệu quả áp dụng
pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Krông Bông, tỉnh Đăk

Lăk
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp
tài sản tại địa bàn huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn
áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản.
- Phạm vi về thời gian: luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định về tội
trộm cắp tài sản từ năm 2015 đến năm 2019.
- Về địa bàn nghiên cứu: luận văn khảo sát, nghiên cứu thông qua các bản án
trên phạm vi tại địa bàn huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài này được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin với phép duy vật biện chứng, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về tội
phạm, cải cách tư pháp, hình phạt, đấu tranh phịng chống tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu Luận văn, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ
thể như sau:

5


- Phương pháp lịch sử: phương pháp này được sử dụng để làm rõ sự hình
thành và phát triển của tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự Việt Nam từ sau Cách
mạng Tháng Tám đến nay.
- Phương pháp thống kê, tổng hợp: phương pháp này được sử dụng để làm rõ
tình hình xử lý hình sự đối với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Krông Bơng,
tỉnh Đăk Lăk.

- Phương pháp phân tích, tổng hợp được tác giả sử dụng để làm rõ những vấn
đề chung và những hạn chế, vướng mắc về tội trộm cắp tài sản.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về tội
trộm cắp tài sản, từ đó góp phần nâng cao nhận thức và áp dụng pháp luật cũng như
hoàn thiện lý luận về tội trộm cắp tài sản trong Bộ luật Hình sự Việt Nam. Qua đó
chỉ ra những tồn tại bất cập của các quy định hiện hành cịn sai sót trong q trình
áp dụng các quy định đó cũng như đưa ra những nguyên nhân để tìm giải pháp khắc
phục, đặc biệt một số giải pháp gắn liền với việc phịng, chống tội phạm này trên địa
bàn Huyện Krơng Bơng, Tỉnh Đăk Lăk.
Luận văn là tài liệu tham khảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng đặc biệt là
Tòa án trong việc áp dụng pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản trong quá trình
giải quyết các vụ án hình sự . Ngồi ra luận văn cịn là cơ sở để đưa ra các kiến nghị
tiếp tục hồn thiện pháp luật hình sự Việt Nam liên quan đến tội trộm cắp tài sản. Từ
đó, làm tiền đề cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực thi tốt nhiệm vụ được giao,
khi xử lý các vụ án về trộm cắp tài sản trên địa bàn Huyện Krông Bơng, Tỉnh Đăk
Lăk.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm ba chương với tên gọi như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm
cắp tài sản.

6


Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về
tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Huyện Krông Bông, Tỉnh Đăk Lăk.
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự
về tội trộm cắp tài sản


7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ
TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản
1.1.1. Khái niệm tội trộm cắp tài sản
Khái niệm của tội phạm được quy định tại Điều 8 BLHS Việt Nam năm 2015,
sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi là BLHS năm 2015). Theo đó, “tội phạm là
hành vi nguy hiểm…phải bị xử lý hình sự”.
Khái niệm tội phạm phản ánh những đặc điểm cơ bản: tội phạm là hành vi gây
nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách
nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện, có lỗi và phải xâm
phạm đến các quan hệ xã hội được BLHS bảo vệ.
Khái niệm tội trộm cắp tài sản: “Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm
đoạt tài sản đang do người khác quản lý, được thực hiện bởi người có năng lực
TNHS và đủ từ 14 tuổi trở lên, thực hiện một cách cố ý, xâm phạm quan hệ sở hữu
tài sản của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân, thỏa mãn các dấu hiệu được quy định
tại Điều 173 BLHS”.
Để có cái nhìn rõ hơn về khái niệm tội trộm cắp tài sản thì chúng ta lần lượt đi
vào phân tích các đặc điểm của tội phạm này. Cụ thể bao gồm các đặc điểm sau:
Thứ nhất, hành vi chiếm đoạt tài sản được thực hiện một cách lén lút
Đặc điểm riêng biệt có tính đặc thù của tội “trộm cắp tài sản” là hành vi “lén
lút”, khơng có hành vi này thì khơng phải là trộm cắp. Nếu một hành vi chiếm đoạt
tài sản công khai đối với chủ sở hữu tài sản, người quản lý tài sản thì khơng thể coi
đó là hành vi trộm cắp, mà hành vi trộm cắp phải được thực hiện một cách lén lút,
vụng trộm đối với chủ sở hữu tài sản. Trong tội “trộm cắp tài sản”, hành vi “lén lút”
chiếm đoạt tài sản có đầy đủ các dấu hiệu này, thiếu một trong những dấu hiệu đó sẽ

khơng thể hiện hết được bản chất của sự “lén lút”. Nói theo cách khác, “lén lút” là

8


thủ đoạn của một người cố ý thực hiện làm một việc sai trái, vụng trộm không để
cho người khác biết, nhằm mục đích chiếm đoạt trái phép tài sản của họ.
Hành vi “lén lút” ở đây không nhất thiết là việc làm mà khơng ai biết, nó có
thể được thực hiện một cách bí mật, vụng trộm, nhưng cũng có thể được thực hiện
một cách cơng khai, ở nơi có nhiều người.
Thứ hai, bị hại mà tội phạm hướng đến để thực hiện hành vi trộm cắp
Bị hại mà tội phạm hướng đến để thực hiện hành vi trộm cắp là chủ sở hữu và
người quản lý tài sản.
- Chủ sở hữu tài sản: theo quy định tại Điều 158 Bộ luật Dân sự 2015 thì quyền
sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ

sở hữu. Hay nói cách khác, chủ sở hữu là người có quyền: tự quản lý, nắm giữ, chi
phối tài sản theo ý mình mà khơng bị hạn chế về thời gian; có quyền khai thác các
lợi ích, giá trị của tài sản và quyết định về số phận của tài sản đó.
- Người quản lý tài sản: là người đang nắm giữ hoặc trông coi tài sản, họ
không phải là chủ sở hữu tài sản nên họ khơng có được đầy đủ ba quyền của chủ sở
hữu. Vì vậy, người quản lý tài sản khơng được định đoạt tài sản. Họ có thể được
định đoạt tài sản trong phạm vi ủy quyền của chủ sở hữu.
- Thứ ba, về thủ đoạn chiếm đoạt tài sản
Thủ đoạn chiếm đoạt tài sản của người khác có thể dưới các hình thức:
+ Do lâm vào tình trạng khơng có khả năng để biết như: bị tai nạn ngất…
+ Khơng có mặt tại nơi để tài sản;
+ Thủ đoạn và phương pháp tinh vi của người phạm tội làm cho chủ tài sản
khơng biết được việc mình bị mất tài sản ...
Thứ tư, đặc điểm về tài sản bị trộm cắp

Theo quy định tại Điều 105 BLDS 2015 quy định về tài sản theo hướng là một
quy phạm định nghĩa: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”.
Tuy nhiên, không phải tài sản nào cũng là đối tượng tác động của tội trộm cắp
tài sản, mà chỉ những tài sản thuộc các trường hợp sau mới là đối tượng tác động
của loại tội phạm này. Trước hết, tài sản là đối tượng tác động của tội “trộm cắp tài

9


sản” có đặc điểm sau: (1) Phải là một dạng vật chất cụ thể và tồn tại dưới dạng là
một động sản; (2) Là tài sản có sự đầu tư sức lao động của con người; (3) Không
phải là tài sản có tính năng đặc biệt (như: vũ khí qn dụng, ma túy ...); (4) Là tài
sản phải đang trong vịng kiểm sốt của chủ sở hữu, người quản lý tài sản; (5) Là tài
sản có giá trị hoặc giá trị sử dụng; (6) Tài sản chưa bị chủ tài sản từ bỏ quyền sở
hữu.
Các đặc điểm trên của tội trộm cắp tài sản là yêu cầu khi sửa đổi, bổ sung quy
định về tội trộm cắp tài sản phải đảm bảo các nội dung này. Chẳng hạn, hành vi
trộm cắp cây rừng chưa có sự đầu tư sức lao động của con người thì khơng cấu
thành tội trộm cắp tài sản (Điều 173 BLHS năm 2015)
1.1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản
1.1.2.1. Khách thể của tội trộm cắp tài sản
Theo quy định của pháp luật hình sự, khách thể trực tiếp của tội trộm cắp tài
sản là quyền sở hữu, mà không xâm phạm đến quan hệ nhân thân, đây cũng là một
trong những điều khác biệt với các tội cướp giật tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm
đoạt tài sản, tội cướp tài sản,... Đặc điểm này được thể hiện trong cấu thành tội trộm
cắp tài sản mà nhà làm luật không quy định thiệt hại về tính mạng, sức khỏe là tình
tiết định khung hình phạt.
1.1.2.2. Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản
- Hành vi khách quan: Hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản là hành vi
chiếm đoạt tài sản của người khác một cách lén lút. Trong đó, hành vi chiếm đoạt

làm cho chủ tài sản mất khả năng thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài
sản của mình và tạo cho người chiếm đoạt có thể thực hiện được việc chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt tài sản đó. Tuy nhiên, chủ sở hữu khơng mất quyền sở hữu của
mình mà chỉ mất khả năng thực tế thực hiện các quyền cụ thể.
Về thủ đoạn khách quan: Thủ đoạn của tội phạm này là thủ đoạn lén lút. Để
chiếm đoạt được tài sản của người khác thì người phạm tội phải thực hiện hành vi
chiếm đoạt. Tuy nhiên, điểm khác biệt cơ bản giữa hành vi chiếm đoạt của tội trộm
cắp tài sản với các tội có tính chất chiếm đoạt khác là tính lén lút.

10


Như vậy, hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác trong tội trộm cắp tài sản
được thực hiện một cách lén lút, nhưng tính lén lút của hành vi có thể chỉ che giấu
đối với chủ sở hữu, người quản lý tài sản, còn đối với những người khác thì khơng
cần che giấu.
- Hành vi trộm cắp tài sản chỉ cấu thành tội phạm khi:
+ Chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng trở lên
+ Hoặc dưới 2 triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi
phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168,
169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của BLHS chưa được xóa án tích mà cịn vi
phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;
đ) Tài sản là di vật, cổ vật.
1.1.2.3. Mặt chủ quan của tội trộm cắp tài sản
Về yếu tố lỗi: Lỗi của người có hành vi chiếm đoạt là lỗi cố ý trực tiếp. Người
thực hiện hành vi chiếm đoạt biết tài sản chiếm đoạt là tài sản đang thuộc quyền sở

hữu của người khác hoặc đang có người quản lý nhưng vẫn mong muốn biến tài sản
đó thành tài sản của mình khi thực hiện hành vi chiếm đoạt.
1.1.2.4. Chủ thể của tội trộm cắp tài sản
Căn cứ theo Điều 12 và Điều 173 BLHS hiện hành ta có thể xác định được
rằng: Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài
sản. Cịn người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi mà thực hiện hành vi trộm cắp tài sản
thì chỉ phải chịu TNHS về tội trộm cắp tài sản theo khoản 3 và khoản 4 Điều 173
BLHS.
1.2. Phân biệt tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự Việt Nam với một số
tội chiếm đoạt tài sản khác.
1.2.1. Tội trộm cắp tài sản phân biệt với tội cướp giật tài sản

11


Tội cướp giật tài sản là hành vi mà người phạm tội thực hiện một cách cơng
khai, nhanh chóng chiếm đoạt tài sản của người khác.
Về mặt khách thể: Khách thể của tội trộm cắp tài sản là những quan hệ sở hữu,
còn khách thể của tội cướp giật tài sản bao gồm các quan hệ sở hữu tài sản và quan
hệ nhân thân (khách thể bổ sung)
Về mặt khách quan: Hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản là hành vi
được thực hiện lén lút, kín đáo, che giấu nạn nhân và những người xung quanh. Còn
tội cướp giật tài sản là hành vi công khai, nhanh chóng, gây bất ngờ cho nạn nhân
và những người xung quanh. Dấu hiệu cơng khai, nhanh chóng là những dấu hiệu
đặc trưng trong tội cướp giật tài sản: nhanh chóng được thể hiện ở việc người phạm
tội tận dụng việc chủ sở hữu tài sản không để ý để nhanh chóng tiếp cận họ để rồi
chiếm đoạt nhanh chóng rồi bỏ trốn, với hành vi nhanh chóng chiếm đoạt tài sản thì
người phạm tội chủ động được hành vi của mình và khơng để người bị mất tài sản
có đủ điều kiện để ngăn chặn việc chiếm đoạt tài sản nên người phạm tội không cần
phải dùng thêm bất kỳ thủ đoạn nào để đối phó với chủ tài sản; mặc nhiên cơng khai

hành vi phạm tội của mình trước sự chứng kiến của chủ sở hữu tài sản mà khi hành
vi cướp giật tài sản xảy ra thì người chủ sở hữu tài sản biết được tài sản của mình đã
bị một người khác chiếm đoạt. Khơng những vậy, ở tội cướp giật tài sản hành vi
phạm tội thể hiện tính chất nguy hiểm cao của tội phạm này nên dấu hiệu hậu quả
không được thể hiện trong CTTP mà điều luật cũng không quy định mức tối thiểu
giá trị mà tài sản bị chiếm đoạt mà người phạm tội chỉ cần có hành vi cướp giật là
phạm tội, khơng cần biết giá trị tài sản có giá trị như thế nào; cịn trong tội trộm cắp
tài sản thì quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt.
Về tính chất: Tội trộm cắp tài sản chỉ nhắm vào tài sản, mà khơng gây ảnh
hưởng đến tính mạng, sức khỏe của nạn nhân. Còn tội cướp giật tài sản, cũng nhắm
vào tài sản nhưng có thể xâm phạm đến sự an tồn về tính mạng, sức khỏe của nạn
nhân.
1.2.2. Phân biệt tội trộm cắp tài sản và tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.

12


Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 172 BLHS năm
2015. Theo đó, cơng nhiên chiếm đoạt tài sản là hành vi mà người phạm tội thực
hiện một cách cơng khai, lợi dụng hồn cảnh khó khăn của người khác trong việc
quản lý tài sản hoặc lợi dụng tình trạng họ khơng có điều kiện bảo vệ tài sản nhằm
CĐTS của người đó mà khơng phải dùng bất kỳ thủ đoạn nào khác nhằm uy hiếp
tinh thần người bị hại.
Thứ nhất, về hành vi khách quan của tội phạm: Hành vi khách quan của Tội
trộm cắp tài sản thể hiện ở hành vi lén lút, bí mật chiếm đoạt tài sản của người khác;
còn hành vi khách quan của Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là hành vi công khai,
ngang nhiên chiếm đoạt tài sản ngay trước sự chứng kiến của chủ tài sản do chủ tài
sản bị vướng mắc khách quan nào đó mà không thể quản lý được tài sản.
Thứ hai, về nhận thức chủ quan của chủ tài sản: Ở Tội trộm cắp tài sản, người
phạm tội đã sử dụng thủ đoạn "lén lút, bí mật" để người quản lý tài sản khơng biết

được hành vi chiếm đoạt tài sản của mình, chiếm đoạt tài sản được thực hiện bằng
khả năng không cho phép chủ tài sản biết khi xảy ra hành vi phạm tội; cịn ở Tội
cơng nhiên chiếm đoạt tài sản, khi có hành vi chiếm đoạt tài sản chủ tài sản vẫn
nhận biết được có hành vi chiếm đoạt nhưng do vướng mắc khách quan họ khơng có
điều kiện bảo vệ tài sản của mình nên người phạm tội mới ngang nhiên chiếm đoạt
tài sản mà không cần dùng bất kì thủ đoạn nào để đối phó với chủ tài sản.
1.2.3. Tội trộm cắp tài sản phân biệt với tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản.
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 175 BLHS
năm 2015, theo đó, lạm dụng tín nhiệm CĐTS được hiểu là vay, mượn, thuê tài sản
của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi
dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả
lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình khơng trả; hoặc vay, mượn,
th tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức
hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến khơng có khả

13


năng trả lại tài sản. Còn hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản là hành vi lén
lút chiếm đoạt tài sản.
Chủ thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là chủ thể có đủ năng
lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS, thực hiện với lỗi cố ý. Khách thể của tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và tội trộm cắp tài sản đều là hành vi xâm hại đến quan
hệ sở hữu. Mục đích của cả hai tội phạm này mà đối tượng hướng đến là chiếm đoạt
tài sản.
1.2.4. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội cướp tài sản.
Sự khác nhau cơ bản giữa tội trộm cắp tài sản với tội cướp tài sản là hành vi
phạm tội của người phạm tội: Đối với tội cướp tài sản là hành vi dùng vũ lực hoặc
đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc dùng các hành vi khác có khả năng làm cho

nạn nhân mất hoàn toàn khả năng phản kháng, mục đích nhằm chiếm đoạt tài sản.
Cịn đối với tội trộm cắp tài sản, hành vi của người phạm tội là hành vi chiếm đoạt
tài sản bằng thủ đoạn lén lút.
Về quan hệ xã hội bị xâm phạm: Ở tội cướp tài sản, ln có xâm phạm đến
quyền sở hữu, sức khỏe và tính mạng của nạn nhân. Cịn tội trộm cắp tài sản chỉ
xâm phạm đến quyền sở hữu.
Về hậu quả: Ở tội cướp tài sản, người phạm tội chỉ cần có hành vi được mơ tả
trong CTTP của tội cướp tài sản là đã cấu thành tội cướp tài sản. Còn ở tội trộm cắp
tài sản, thiệt hại về tài sản là dấu hiệu định tội của tội trộm cắp tài sản.
1.3. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản.
1.3.1. Quy định về tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự từ năm 1945
đến trước khi ban hành BLHS năm 1985
Ở mỗi giai đoạn, Nhà nước đều ban hành các quy định về tội trộm cắp tài sản
nhằm đấu tranh loại bỏ tội phạm khỏi đời sống xã hội, bởi lẽ đây là hành vi gây
nguy hiểm cho xã hội, cần phải được quan tâm sâu sắc.
Sau Cách mạng tháng tám, nền kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước cịn khó
khăn, hệ thống văn bản pháp luật chưa được hồn thành, do đó, để bảo vệ sự bình
yên của xã hội, hạn chế sự xáo trộn trong đời sống và quan hệ thường nhật của nhân

14


dân, Nhà Nước đã ban hành một số Sắc lệnh trong đó có Sắc lệnh số 12/SL ngày
12/3/1949 phạt tội ăn cắp lấy trộm các vật dụng của nhà binh trong thời bình và
trong thời kỳ chiến tranh. Điều 2 Sắc lệnh 267/SL ngày 15/06/1956 quy định: “Kẻ
nào vì mục đích phá hoại mà trộm cắp, lãng phí, làm hỏng, huỷ hoại, cướp bóc tài
sản của Nhà nước, của hợp tác xã, của nhân dân sẽ bị xử phạt từ năm năm đến hai
mươi năm tù”
Ngoài các Sắc lệnh trên, để bảo hộ tài sản riêng của công dân, giữ gìn trật tự,
trị an, bảo đảm điều kiện thuận lợi cho mọi người tham gia xây dựng chủ nghĩa xã

hội và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; để đề cao đạo đức xã hội chủ nghĩa, chống
lại những hành động xâm phạm tài sản riêng của công dân, Ủy Ban thường vụ quốc
hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành hai Pháp lệnh nhằm trừng trị những
tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài
sản riêng của công dân.
Hai bản pháp lệnh đã xây dựng hai cấu thành tội phạm hồn chỉnh về tội trộm
cắp tài sản đó là tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa và tội trộm cắp tài sản riêng
của công dân, đã quy định cụ thể và tập trung các tình tiết tăng nặng định khung
trong điều luật, có các khung hình phạt tương ứng với tính chất và mức độ nguy
hiểm của tội phạm.
1.3.2. Quy định tội trộm cắp tài sản trong Bộ luật hình sự năm 1985
Các văn pháp luật hình sự kể trên đã phát huy vai trị to lớn trong một thời
gian dài cho đến khi BLHS năm 1985 ra đời. BLHS năm 1985 được Quốc hội khóa
VII thông qua ngày 27/6/1985 đã thể hiện hai loại hành vi xâm phạm sở hữu là hành
vi xâm phạm sở hữu XHCN và hành vi xâm phạm sở hữu của công dân, quy định ở
hai chương khác nhau: các tội xâm phạm sở hữu của công dân.
Tại điều 132 BLHS 1985 quy định tội trộm cắp tài sản XHCN như sau:
1. Người nào trộm cắp tài sản XHCN thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến
hai năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba năm
đến mười hai năm:

15


a) Có tổ chức;
b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;
c) Hành hung để tẩu thoát;
d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn;
đ) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười
năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.
Điều 155. Tội trộm cắp tài sản của công dân
1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác thì bị phạt cải tạo khơng giam
giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai năm
đến mười năm:
a) Có tổ chức;
b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; hành hung để tẩu thốt;
c) Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác;
d) Tái phạm nguy hiểm
3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm
đến hai mươi năm.
1.3.3. Quy định tội trộm cắp tài sản trong Bộ luật hình sự năm 1999
BLHS năm 1985 là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc xử lý người phạm tội,
song vẫn còn sự phân biệt giữa tội trộm cắp tài sản XHCN và tội trộm cắp tài sản
của công dân. Đường lối xử lý của Nhà nước đối với người phạm tội trộm cắp tài
sản XHCN nghiêm khắc hơn người phạm tội trộm cắp tài sản của công dân. Qua
bốn lần sửa đổi, bổ sung (ngày 28/12/1989, ngày 12/8/1991, ngày 22/12/1992 và
ngày 10/5/1997), BLHS năm 1985 không cịn là một chỉnh thể thống nhất cần có
một BLHS mới thay thế cho phù hợp với điều kiện xã hội.
Vì vậy, BLHS năm 1999 đã ra đời thay thế cho BLHS năm 1985 trên cơ sở kế
thừa và phát triển cho phù hợp với tình hình xã hội. Xuất phát từ chủ trương, chính

16


sách của Đảng và Nhà nước ta nhằm xây dựng nền kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
BLHS năm 1999 đã nhập thành hai chương; Các tội xâm phạm sở hữu riêng

của công dân và Các tội xâm phạm sở hữu XHCN vào thành một chương với tên
gọi: Các tội xâm phạm sở hữu. Việc nhập hai chương là việc làm cần thiết bởi:
Thứ nhất: Điều 132 và Điều 155 trong BLHS năm 1985 cơ bản giống nhau về
dấu hiệu pháp lý. Hơn nữa, có nhiều trường hợp người phạm tội Trộm cắp tài sản họ
không quan tâm đến tài sản mình trộm là của ai, họ chỉ nhằm mục đích lấy được tài
sản mà thơi.
Thứ hai: Trong nền kinh tế lúc bây giờ, Nhà nước chủ trương đa dạng hóa
thành phần kinh tế theo các hình thức sở hữu khác nhau nhưng đều phải bình đẳng
trước pháp luật, đều được Nhà nước bảo hộ như sau. Do đó, việc BLHS năm 1985
quy định ở hai chương riêng khơng cịn phù hợp nữa. Đồng thời, thực tiễn cho thấy,
trong nền kinh tế nhiều thành phần, các hình thức sở hữu đan xen nhau do có sự liên
kết, góp vốn cổ phần nên khó có thể xác định được đâu là tài sản riêng của công dân
và đâu là tài sản XHCN.
Thứ ba: tại Điều 15 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nền kinh tế Việt Nam là
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữa vai trò chủ đạo”. Và tại điều 179 BLDS quy
định: Trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, Nhà nước
công nhận và bảo vệ các hình thức sở hữu gồm sở hữu tư nhân, sở hữu của tổ chức
xã hội, sở hữu toàn dân , sở hữu hỗn hợp, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức
chính trị - xã hội.
Vì vậy, khi có hành vi xâm phạm đến sở hữu hỗn hợp thì việc tiếp tục sử dụng
quy định tại BLHS năm 1985 để giải quyết sẽ gặp khó khăn, vướng mắc, nhất là
trong việc định tội danh.
Để khắc phục những sự cố trên, Điều 138 BLHS năm 1999 quy định:
1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn
đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây

17



×