Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tội trộm cắp tài sản và thực tiễn xét xử tội phạm này tại địa phương nơi sinh viên thực tập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.72 KB, 32 trang )

PHẦN I. LỜI NÓI ĐẦU
Trộm cắp tài sản trong giai đoạn hiện nay là một trong những vấn đề gây bức
xúc trong xã hội, tình hình phạm tội và số người khơng những khơng giảm mà
có chiều hướng ngày càng tăng và phức tạp. Cùng với sự pháp triển của nền
kinh tế đất nước, tỉnh Hưng Yên nói chung và huyện Kim Động nói riêng đã gặt
hái được những thành tựu đáng kể trên mọi lĩnh vực; ví dụ: vấn đề công ăn việc
làm đã được khắc phục, thu nhập bình quân trên đầu người tăng, đời sống của
nhân dân được cải thiện và đảm bảo hơn trước…Tuy nhiên bên cạnh sự phát
triển của nền kinh tế trên địa bàn huyện, thì những tệ nạn xã hội cũng xuất hiện
rất nhiều, nhất là sự tha hoá về đạo đức, lối sống buông thả thiếu trách nhiệm và
ăn sẵn của một số bộ phận thanh niên. Đứng trước tình hình phạm tội trên, đã
đặt ra rất nhiều vấn đề cho chính quyền và nhân dân huyện phải làm gì và làm
như thế nào để loại trừ những hành vi phạm tội ra khỏi đời sống xã hội và giữ
gìn trật tự kỷ cương. Do vậy để có thể giải quyết những vấn đề trên các cơ quan
chức năng trên địa bàn huyện cần phải nghiên cứu, xem xét đặc điểm hành vi
của từng đối tượng phạm tội, nắm rõ tính chất của tội phạm…để đề ra những
giải pháp đấu tranh, phòng ngừa thật phù hợp nhằm hạn chế một cách tốt nhất
tình hình phạm tội. Tuy nhiên từ thực tiễn xét xử các vụ án phạm tội “trộm cắp
tài sản” xảy ra trên địa bàn huyện Kim Động nói riêng và cơng tác phịng chống
loại tội phạm này nói chung, cịn tồn tại một số vấn đề cần xem xét, giải quyết
để đảm bảo nhanh chóng, kịp thời và đúng pháp luật, giữ vững an ninh trật tự
trên địa bàn huyện giúp nhân dân tập trung vào lao động sản xuất.
Từ những vấn đề đã nêu, nhận thấy vai trị, tính cấp thiết và tầm quan trọng
của đề tài trong thực tiễn xét xử tại TAND (Toà án nhân dân) huyện Kim Động,
với những kiến thức được trang bị ở trường, cùng những đặc điểm tại cơ quan
nơi em thực tập nên em đã chọn đề tài số 13 môn Luật hình sự: “Tội trộm cắp tài
sản và thực tiễn xét xử tội phạm này tại địa phương nơi sinh viên thực tập” làm
nội dung cho báo cáo tổng kết thực tập cuối khố của mình.


Mặc dù đã được tranh bị kiến thức tại trường nhưng do trình độ và kinh


nghiệm thực tế cịn chưa hồn chỉnh vì vậy khơng thể tránh khỏi những thiếu sót
trong bài viết. Kính mong các thầy cơ giúp đỡ để báo cáo cuối khoá sau bốn
năm học tập của em được hoàn thiện hơn.
Qua đây, em xin gửi lời cảm ơn trân thành đến các thầy cô giáo trường Đại
học Luật Hà Nội, các cô, chú, anh, chị công tác tại TAND huyện Kim Động,
tỉnh Hưng Yên đã giúp đỡ em hoàn thành bài viết này.


Phần II
Những nội dung chính của chuyên đề.
Mục I. Quá trình tìm hiểu thu thập thơng tin.
1 Thời gian thu thập thông tin.
Nhận thức được tầm quan trọng và cần thiết của đề tài, ngay từ những ngày
đầu về TAND huyện Kim Động thực tập em đã tích cực thu thập các thông tin
liên quan đến các vụ án “trộm cắp tài sản” trên địa bàn huyện Kim Động như:
Đọc các hồ sơ vụ án đã xét xử, đọc sổ kết qủa xét xử các vụ án hình sự, sổ thụ lý
các vụ án hình sự, tham nghe phiên Tồ xét xử các vụ án mới và các vụ án lưu
động hay đi xuống Trại giam của Công an Hưng Yên để tống đạt giấy tờ, hoặc
gặp các Thẩm phán để xin ý kiến…để có thể nắm bắt được những thơng tin bổ
ích liên quan đến bài viết của mình.
Với khoảng thời gian thực tập không dài cũng không quá ngắn gần bốn tháng
thực tập tại TAND huyện Kim Động từ ngày 4/1/2010 đến ngày 23/4/2010 đã
giúp em, Thứ nhất: Tìm hiểu và thu thập được số lượng thơng tin tương đối
chính xác và đúng đắn phục vụ cho việc hồn thành đề tài; Thứ hai: giúp em có
cơ hội làm quen với môi trường mới để em hiểu hơn về áp dụng giữa lý thuyết
và thực tiễn; Thứ ba: những ngày thực tập ở Toà án đã giúp em làm quen với
môi trường làm việc thực sự nghiêm túc và cách giải quyết các vụ án của các cô,
chú, anh, chị giúp em hiểu ra rằng mình phải học tập chăm chỉ,hơn thế nữa để có
kiến thức khơng những phục vụ cho bản thân mà cao hơn nữa là phục vụ cho đất
nước. Quan trọng nhất là đã giúp em học và làm việc một cách tự giác đúng đắn,

phải học cho bản thân tính nhẫn nại làm gì cũng phải logic có cơ sở.
2. Phương pháp thu thập thơng tin.
Để có những thơng tin, những ví dụ thực tế và những con số thống kê cụ thể
chính xác về tội “trộm cắp tài sản” nhằm phục vụ cho việc hồn thành tốt
chun đề thực tập của mình, em đã sử dụng một số phương pháp cơ bản như:
Nghiên cứu lý thuyết; thống kê; phân tích; tổng hợp và một số phương pháp


khác nhằm bổ sung và hoàn thiện hơn, bao quát và khách quan hơn cho vấn đề
em muốn đề cập.
2.1 Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
Với lượng thời gían khơng nhiều; tầm một tháng em tập trung vào nghiên cứu
hồ sơ vụ án “trộm cắp tài sản” đã có hiệu lực, xem xét báo cáo tổng kết các năm,
báo cáo thi đua của ngành toà án các năm 2007, năm 2008, năm 2009 để từ đó
có được những số liệu sát với thực tế và nắm bắt được tình hình tội phạm trên
địa bàn huyện Kim Động.
2.2 Phương pháp thống kê.
Thống kê là công cụ, phương tiện chủ yếu để chúng ta tìm hiểu cụ thể về tình
hình tội phạm, nó cung cấp cho chúng ta những số liệu cụ thể về hành vi phạm
tội, người phạm tội và những số liệu khác có liên quan và cơng tác đấu tranh,
phòng chống tội phạm trong xã hội để tổng hợp thành lý luận có tính áp dụng
chung.
Phương pháp thống kê trong vấn đề tội phạm được sử dụng vào việc đánh giá
thực trạng, mức độ, cơ cấu, diễn biến tội phạm, phân tích làm rõ nguyên nhân và
điều kiện làm phát sinh tội phạm, các đặc điểm xã hội, nhân thân người phạm
tội, xác định quy luật vận động phát triển của tội phạm để từ đó dự báo tội
phạm, soạn thảo những biện pháp phòng chống tội phạm trong những năm tiếp
theo.
Như chúng ta đã biết phương pháp lý thuyết giúp ta rút ra được những hành vi,
đối tượng, tính chất…của từng vụ án trộm cắp tài sản và trên cơ sở đó tiến hành

thống kê một cách cụ thể từng vụ việc, vụ án một cách rõ ràng. Để từ đó tiến
hành phân loại thành từng nhóm như: thời gian, không gian phạm tội, đặc điểm
phạm tội, phương pháp và cách thức phạm tội, công cụ phương tiện phạm tội,
khách thể của tội phạm, lý do phạm tội, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội, khuynh hướng của tội phạm….
Thông kê là phương pháp giúp em nhận biết rõ diễn biến và tính chất của từng
vụ án trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện.


2.3 Phương pháp phân tích và tổng hợp.
Nếu ở phương pháp thống kê sẽ giúp em phân loại tội phạm thành các nhóm
thì ở phương pháp phân tích so sánh và tổng hợp giúp em nhận xét được tình
hình phạm tội “trộm cắp tài sản” một cách khách quan, chính xác và đúng đắn
hơn khi vận dụng thông tin thu thập vào bài viết của mình.
3 Nguồn thu thập tư liệu.
Quá trình thực tập tại TAND huyện Kim Động, được sự hướng dẫn tận tình
của các cơ, chú, anh, chị giúp em tiếp cận nhiều nguồn tư liệu thực tế như:
- Sổ thụ lý sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND huyện Kim Động về trộm cắp
tài sản trong các năm 2007, 2008, 2009.
- Sổ kết quả tổng kết giải quyết các vụ án hình sự của TAND huyện Kim Động
các năm 2007, 2008, 2009
- Bảng thống kê các vụ án hình sự của TAND huyện Kim Động các năm 2007,
2008, 2009.
- Các báo cáo, đánh giá của TAND huyện Kim Động về tội phạm trộm cắp tài
sản qua từng năm 2007, 2008, 2009.
- Các hồ sơ án đã có hiệu lực pháp luật qua các năm 2007, 2008, 2009.
- Bộ luật hình sự và bộ luật tố tụng hình sự
- Tạp chí tồ án nhân dân, tạp chí pháp luật và báo pháp luật
4 Các thơng tin thu thập được.
Tại sổ thụ lý sơ thẩm vụ án hình sự trong 3 năm 2007, 2008 , 2009 tại TAND

huyện Kim Động cho thấy:
Đối với năm 2007 ( từ 1/10/2006 đến 30/9/2007).
- Toà án đã thụ lý mới tổng số 34 vụ án với 50 bị cáo, trong đó trộm cắp tài sản
là 14 vụ 17 bị cáo đã giải quyết đủ số vụ.
- Trả hồ sơ cho Viện Kiểm Sát điều tra bổ sung: 0 vụ; xét xử lưu động khơng.
- Về mức hình phạt áp dụng đối với tội trộm cắp tài sản: chủ yếu là tù dưới 3
năm (13 bị cáo); tù trên 3 năm ( 1 bị cáo); án treo (3 bị cáo)
- Hình phạt bổ sung: 02 hình phạt.


Đặc điểm của các bị cáo: Cán bộ công nhân viên chức khơng có, tái phạm nguy
hiểm khơng, nghiện ma t có: 03 bị cáo; nữ khơng có. Độ tuổi: trong 17 bị cáo
thì tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 là 0 bị cáo ; từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là 03 bị
cáo; từ 18 tuổi đến 30 tuổi có 10 bị cáo và trên 30 có 4 bị cáo.
Đối với năm 2008 ( từ ngày 01/10/2007 đến 30/09/2008).
Toà án đã thụ lý mới tổng 37 vụ với 49 bị cáo, trong đó Trộm cắp tài sản là
18 vụ với 25 bị cáo. Toà đã giải quyết đủ số vụ trên.
- Trả hồ sơ Viện Kiểm Sát là không vụ, xét xử lưu động là 06 vụ.
- Về mức hình phạt áp dụng với tội Trộm cắp tài sản: chủ yếu là tù dưới 3 năm;
trong đó: 16 bị cáo bị phạt tù dưới 3 năm; 09 bị cáo xử án treo; tù trên 3 năm: 0
có bị cáo.
- Hình phạt bổ sung: khơng có.
Đặc điểm các bị cáo: Cán bộ công nhân viên chức không có, tái phạm nguy
hiểm khơng, nghiện ma t có 02 bị cáo, nữ có 01 bị cáo, người nước ngồi
khơng có bị cáo. Độ tuổi từ 14 đến dưới 16 khơng có, từ đủ 16 đến dưới 18: 09
bị cáo, từ đủ 18 đến 30: 08 bị cáo, Từ 30 tuổi trở nên: 08 bị cáo.
Đối với năm 2009 (Từ 1/10/2008 đến 30/9/2009)
Toà án đã thụ lý mới 46 vụ với 90 bị cáo, trong đó tội Trộm cắp tài sản là 11
vụ, với 15 bị cáo. Toà án đã giải quyết đủ số vụ án trên
- Trả hồ sơ cho Viện Kiểm Sát là không vụ, xét xử lưu động 04 vụ

- Về hình phạt áp dụng đối với tội trộm cắp tài sản: chủ yếu là hình phạt tù
dưới 03 năm, trong đó 09 bị cáo bị phạt tù dưới 3 năm, bị cáo phạt tù trên 3
năm: 01 bị cáo, án treo là 05 bị cáo.
- Hình phạt bổ sung: khơng có.
Đặc điểm của các bị cáo: Cán bộ cơng nhân viên chức khơng có, tái phạm nguy
hiểm khơng có, nghiện ma t khơng, nữ khơng có, người nước ngồi khơng.
Độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 khơng có, từ đủ 16 đến dưới 18 có 03 bị cáo, từ 18
dến 30 có 09 bị cáo, trên 30 tuổi có 03 bị cáo. Có 01 vụ án có người báo chữa.


Nhận xét: Q trình tìm hiểu và thu thập thơng tin là một q trình quan trọng
đối với cơng việc nghiên cứu, xem xét vấn đề tình hình tội phạm Trộm cắp tài
sản trên địa bàn huyện Kim Động được chính xác để từ đó phân tích các dấu
hiệu của tội phạm phục vụ công tác xét xử, đấu tranh phòng chống tội phạm của
các cơ quan chức năng.
Mục II Tình hình phạm tội trộm cắp tài sản.
1 Nhận xét chung.
Theo quy định của pháp luật thì Tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều
138 BLHS 1999, với cấu thành cơ bản là: Hành vi trộm cắp tài sản là hành vi
lén lút, bí mật, lợi dụng sơ hở của người khác để chiếm đoạt tài sản do họ quản
lý và tài sản đó phải có giá trị trên năm trăm nghìn đồng.
Tội trộm cắp tài sản được coi là hoàn thành từ khi chiếm đoạt được tài sản và
người phạm tội có khả năng thực sự quyết định được vận mệnh của tài sản ấy.
Vì vậy, xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội gây ra chúng ta
thấy mọi hành vi xâm phạm đến tài sản của công dân, quốc gia nếu không được
pháp luật cho phép đều phải được phát hiện và xử lý, có như vậy mới khơng
làm ảnh hưởng tới tình hình an ninh xã hội, trật tự cơng cộng tại địa phương và
tâm lý của nhân dân lao động.
1.1.Đặc điểm địa bàn huyện Kim Động:
Kim Động là huyện nằm ở phía Đơng Nam tỉnh Hưng n, trong vùng đồng

bằng châu thổ sơng Hồng, có phía Bắc giáp huyện Khối Châu và huyện Yên
Mỹ, phía Nam giáp Thành phố Hưng n, phía Đơng giáp huyện Ân Thi, phía
Tây giáp tỉnh Hà Tây (cũ) nay là thành phố Hà Nội. Có quốc lộ 39A và sông
Hồng chạy qua liền kề với Trung tâm tỉnh lỵ Hưng Yên. Kim Động có 19 đơn
vị Hành Chính, gồm 18 xã và 01 Thị trấn với tổng diện tích 114,65 km2, dân số
là 123.700 người, mật độ dân số 1083 người/km2 (Thống kê tháng 6/2004).
Dân số phân bổ khơng đều, các xã vùng ngồi đê mật độ thấp nhất và tăng dần
theo hướng Tây đến Tây Nam và Nam, cao nhất là huyện lỵ. Nhân dân trong


huyện phần lớn sống nhờ vào sản xuất nông nghiệp, đời sống cịn khó khăn.
Tuy nhiên trong những năm gần đây những chính sách về kinh tế - xã hội đúng
đắn của Đảng và nhà nước. Huyện Kim Động đã từng bước đổi mới và phát
triển theo hướng phát triển CNH-HĐH của đất nước cũng như của thế giới, từ
đó cuộc sống nhân dân được cải thiện rất nhiều.
Kim Động có một số điều kiện thuận lợi sau:
+) Có 11Km quốc lộ 39A rải nhựa chạy dọc huyện và 2Km đường 38 rải nhựa
do TW quản lý. Các tuyến đường do tỉnh quản lý: đường 205 dài 9km; đường
195 (trên mặt đê sông Hồng) dài 11Km đều rải nhựa. Đường Huyện quản lý
gồm đường 38B dài 4Km rải nhựa; đường 61 dài 5Km rải nhựa và đã cấp phối.
Đường 208 dài 9Km rải nhưạ. Về đường thuỷ có 55Km trên các tuyến sơng Kim
Ngưu, Cửa An, Điện Biên có khả năng cho thuyền, xà lan có tải trọng 100 tấn
qua lại.
+) Hiện nay trên địa bàn huyện có tương đối nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ
đang hoạt động, tạo việc làm cho rất nhiều lao động trên địa bàn huyện và các xã
của huyện lân cận.
+) Đất đai của huyện nhìn chung rất màu mỡ bởi được bồi đắp lắng tụ của phù
sa sông Hồng, phù hợp với giống lúa cao sản, cây thực phẩm, cây ăn quả đặc sản
và thu hút các dự án đầu tư phát triển công nghiệp.
+) Huyện có tiềm năng du lịch sinh thái, 2 xã Phú Cường và Hùng Cường và

thôn Văn Nghệ xã Mai Động là những xã nổi trên sông Hồng, đất đai màu mỡ
cây cối trù phú có tiềm năng du lịch sinh thái nhưng chưa được khai thác.
- Với điều kiện như vậy huyện Kim Động có đầy đủ điều kiện giữ vững an ninh
trật tự, phát huy tiềm năng về đất đai cùng các nguồn lực khác, tạo điều kiện
phát triển KT-XH, hoà nhập vào kinh tế thị trường, phát triển CNH-HĐH các
nghành thương mại du lịch.
- Bên cạnh những thuận lợi đó huyện Kim Động đang phải đối mặt với nhiều
khó khăn thử thách đó là:


+) Tỉ lệ thất nghiệp cao do xây dựng nhiều nhà máy xí nghiệp nên người dân
khơng cịn ruộng để làm mặt khác điều kiện tuyển lao động lại chặt chẽ nên lao
động ở tuổi trung niên thất nghiệp nhiều.
+) Sự hiểu biết về pháp luật của người dân còn nhiều hạn chế
+) Phần lớn thanh niên hiện nay quen lối sống ăn sẵn lười lao động sẵn sàng tìm
mọi cách kiếm tiền tiêu xài kể cả cướp, giết người…..
Trên đây là điều kiện phát sinh tội phạm là bài tốn khó cho những cấp quản
lý của huyện làm như thế nào để giữ trật tự cho XH, ngăn chặn tình hình tội
phạm đặc biệt là tội trộm cắp tài sản
1.2. Tình hình tội phạm hình sự trên địa bàn huyện Kim Động.
Tình hình tội phạm là một hiện tượng XH tiêu cực, trái pháp luật hình sự mang
tính giai cấp và thay đổi theo thời gian.
Nhìn chung trong những năm gần đây tình hình tội phạm hình sự trên địa bàn
huyên Kim Động có nhiều diễn biến phức tạp số lượng tăng lên đáng kể; thể
hiện năm 2007 tổng số có 34 vụ sang năm 2008 có 37 vụ, năm 2009 tăng lên 46
vụ, tăng 12 vụ so với năm 2007. Năm 2007 số bị cáo là 50 bị cáo, năm 2008 là
49 bị cáo và năm 2009 là 90 bị cáo tăng 40 bị cáo so với năm 2007 tăng 41 bị
cáo so với năm 2008. Như vậy tình hình tội phạm có chiều hướng gia tăng về cả
số lượng cũng như chất lượng nguy hiểm. Nguyên nhân chính là do một số bộ
phận người dân suy đồi đạo đức, có lối sống khơng lành mạnh, khơng coi trọng

lao động lười biếng ăn sẵn. Các tội thường xảy ra như: Trộm cắp tài sản Đ138
BLHS, Cố ý gây thương tích Đ104, Vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thông Đ202, Đánh bạc Đ248 BLHS, Buôn bán trái phép chất ma tuý….
Bảng 01

Toà án thụ lý mới
Năm
2007
2008
2009

Vụ Án
34
37
46

Bị cáo
50
49
90


Tổng số các vụ án hình sự trên địa bàn huyện Kim Động từ năm 2007 đến
2009.
2. Tình hình phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Kim Động.
Huyện Kim Động những năm gần đây tình hình phạm tội trộm cắp tài sản có
chiều hướng phức tạp khơng cố định, nhìn chung qua thống kê ta thấy số vụ
cũng như số bị cáo có sự biến động. Qua hai năm 2007 và 2008 tăng 04 vụ từ 14
vụ lên 18 vụ, bị cáo cũng tăng 08 bị cáo từ 17 lên 25 bị cáo. Nhưng từ năm 2008
đến 2009 tình hình tội phạm lại giảm cả về số vụ lẫn bị cáo từ 18 vụ (năm 2008)

giảm xuống 11 vụ (năm 2009), bị cáo giảm từ 25 bị cáo xuống 21 bị cáo. Qua
thống kê tình hình trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Kim Động diễn biến phức
tạp số lượng lúc tăng lúc giảm, nhưng một điều dễ nhận thấy rõ rệt là tính nguy
hiểm cho xã hội (tinh vi hơn), mức độ thiệt hại cũng tăng lên từ trộm cắp vặt,
thực hiện đơn lẻ đến những vụ trộm có tổ chức, có giá trị lớn như trộm cắp xe
máy, tiền – vàng bạc…
Bảng 02

Toà án thụ lý mới
Năm
2007
2008
2009

Vụ Án
14
18
11

Bị cáo
17
25
15


Tổng số các vụ án về tội trộm cắp tài sản của TAND huyện Kim Động từ năm
2007 đến

2009.


2.1 Nguyên nhân phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Kim Động.
Ngun nhân của tình hình phạm tội nói chung là tổng hợp những ảnh hưởng
và quá trình xã hội, xác định tình hình tội phạm là hậu quả của chúng hay hiểu
cách khác chúng luôn mang nguồn gốc và bản chất xã hội gắn bó chặt chẽ với
các sự kiện chính trị, kinh tế, xã hội, văn hố và con người của từng thời kỳ.
Nghiên cứu nguyên nhân của tình hình phạm tội có ý nghĩa quan trọng đối với
việc phịng chống tội phạm có hiệu quả.
Từ thực tiễn ta thấy nguyên nhân dẫn tới tình hình phạm tội “trộm cắp tài sản”
là rất nhiều trong phạm vi của đề tài. Em có chỉ thể đi sâu vào tìm hiểu, trình
bày một số nguyên nhân cơ bản chủ yếu sau đây:
2.1.1. Nguyên nhân về kinh tế.
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển chung của cả nước và của
tỉnh Hưng Yên thì huyện Kim Động đã có những bước phát triển đáng kể về
KT-XH chính trị. Đặc biệt là kinh tế đang phát triển với nhịp độ khá nhanh và
hiệu quả đã có sự đầu tư đúng đắn, tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư
vào địa bàn huyện. Trong lĩnh vực CN-DV góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế
và cải thiện đời sống nhân dân. Bên cạnh mặt phát triển tích cực của kinh tế thị
trường thì mặt trái của nó cũng tác động đến mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội
đã làm tình hình tội phạm phát triển. Mặt trái của kinh tế như: sự phân hoá giàu
nghèo, khoảng cách giàu nghèo ngày càng mở rộng, số người thất nghiệp càng
tăng, thanh thiếu niên bỏ học tăng, đạo đức xã hội ngày càng suy thoái…
- Về ruộng đất canh tác nơng nghiệp: trong địa bàn huyện ngày càng có nhiều
cơng ty, nhà máy xí nghiệp mọc lên tạo điều kiện cho lao động trong địa
phương, nhưng đồng thời cũng kéo theo diện tích đất nơng nghiệp bị thu hẹp lại,
người nơng dân khơng cịn ruộng để canh tác. Cùng với đó trong mấy năm gần
đây thời tiết bất lợi kéo dài dẫn tới trồng trọt của huyện không đem lại nhiều


thuận lợi. Thời gian giữa hai vụ cấy trong một năm khá dài (1,2 tháng) đây
chính là thời gian nhàn rỗi đó là nguyên nhân dẫn tới vấn đề trộm cắp tài sản

trên địa bàn huyện Kim Động thêm phần phức tạp.
2.1.2 Nguyên nhân về giáo dục pháp luật.
Đứng trước thực trạng, tình hình phạm tội ngày một gia tăng, phức tạp, tinh
vi, để giảm thiểu các loại tội phạm cần phải tuyên tuyền giáo dục pháp luật đến
toàn thể nhân dân. Nhưng thực tiễn qua ba năm gần đây cho thấy công tác tuyên
truyền giáo dục pháp luật cho cơng dân cịn nhiều hạn chế, phiến diện, chưa
được tiến hành một cách sâu rộng và đạt hiệu quả, đại bộ phận dân cư trên địa
bàn huyện còn nghèo nàn về ý thức pháp luật, có nhiều trường hợp phạm tội rất
đáng tiếc do họ không hiểu biết pháp luật. Trong đó lực lượng trẻ khơng những
tích cực tham gia lao động mà có một bộ phận khơng nhỏ thanh niên học đòi
tham gia vào các tệ nạn xã hội nghiện hút, cờ bạc, nghiện chats – chơi game
điện tử… làm tình hình phạm tội ngày càng phức tạp.
2.1.3 Các nguyên nhân khác:
Công tác giáo dục, Công tác quản lý xã hội và ý thức quản lý tài sản của chủ sở
hữu.
Qua nghiên cứu thực tiễn cho thấy sự hình thành nhân cách con người và
hồn thiện nó cần có rất nhiều yếu tố xã hội, nó được bắt đầu khi họ sinh ra,
cùng một môi trường sống nhưng nhân cách của người là khác nhau có thể do:
Bản thân con người đó, các tiểu mơi trường mà người đó đang sống và hoạt
động ảnh hưởng thường xuyên và trực tiếp (gia đình, nhà trường, nơi lao động,
sản xuất…)
Huyện Kim Động đi lên từ một huyện thuần nông nghèo, nhân dân sống lẫn
giữa cái cũ vẫn tồn tại và cái mới xu nhập, nhiều người chưa được học hành đầy
đủ, sự hiểu biết còn rất nhiều hạn chế, một bộ phận khơng nhỏ thanh niên trong
huyện có lối sống khơng lành mạnh, thích thu thập học theo những thứ văn hố
khơng tốt, xem nhiều phim ảnh bạo lực, đồi truỵ, không thực tế. Để thoả mãn


cho những cuộc vui chơi của mình họ bất chấp mọi hành vi thủ đoạn, do đó có
rất nhiều vụ án bị cáo trộm cắp tài sản để lấy tiền tiêu xài, ăn chơi cho thích.

Mơi trường gia đình:
Ta đều biết gia đình là thiết chế xã hội có vai trị vơ cùng quan trọng trong
việc hình thành mỗi nhân cách con người. Đó là nơi hình thành phát triển của
các nhân, những gia đình an tồn, vững chắc ln luôn chú trọng vào các nhu
cầu căn bản của con trẻ như vậy sẽ đảm bảo cho trẻ nhân cách tốt và ngược lại,
hiện nay trên địa bàn huyện Kim Động có rất nhiều gia đình có hồn cảnh khơng
tốt như cha mẹ bỏ nhau,khơng cịn cha hoặc mẹ hay cha mẹ bất hồ kết quả là
khơng giáo dục được con cái, đẩy con cái vào tình trạng chán nản, đua địi,theo
những thói hư tật xấu của những đám bạn xấu, ăn chơi xa đoạ, trộm cắp tài sản
và dính vào tệ nạn xã hội khi nào khơng rõ.

Mơi trưịng giáo dục nhà trường
Môi trường xã hội
Một trong những môi trường giúp cá nhân hồn thiện, mơi trường xã hội đã
tác động rất lớn đến tâm lý hành vi của họ. Xã hội chưa có một phương pháp
cách thức nào nhằm giúp đỡ những người có tiền án, tiền sự, những người đã có
một thời gian sai lầm, cùng hồ nhập với cộng đồng. Đây cũng là một trong
những nguyên nhân khiến những hành vi phạm tội tiếp tục xảy ra.
* Bên cạnh những nguyên nhân về công tác giáo dục thì tình trạng trộm cắp tài
sản trên địa bàn huyện còn xuất hiện từ nguyên nhân quản lý xã hội. Những cách
quản lý tội phạm nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng chưa có những biện
pháp đồng bộ, kịp thời, cụ thể giữa những cơ quan chức năng, đơi khi có những
chính sách được thực hiện thì lại khơng chính xác với thực tế nên hiệu quả chưa
cao.
* Ngoài ra ý thức của chủ sở hữu tài sản bị trộm cắp: nhiều khi còn chủ quan,
thiếu cảnh giác đã tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng phạm tội dễ dàng


thực hiện hành vi của mình. Ví dụ như: khơng khố cửa khi đi vắng, khơng khố
xe cẩn thận… đã tạo điều kiện cho tội phạm hồn thành.

Ví dụ: theo bản án HSST số 17/2009/HSST ngày 08/05/2009. Nguyễn Thị Thuỷ:
Sinh ngày 20/02/1992; STQ: Thôn Mát – Nhân La – Kim Động – Hưng Yên.
Khoảng 12 giờ ngày 24/02/2009 Thuỷ đến nhà bạn chơi (Vũ Văn Tùng – trú
quán: An Xá – Toàn Thắng – Kim Động – Hưng Yên), ăn cơm và ngủ trưa tại
nhà Tùng. Khoảng 16 giờ Thuỷ ngủ dạy đi ra cổng nhà Tùng chơi nhìn thấy 01
chiếc xe mơtơ WaveS màu đỏ đen của gia đình anh Nguyễn Văn Trung (hàng
xóm nhà Tùng) dựng ở cổng chìa khố vẫn cắm ở ổ khố, xe khơng khố cổ
khoá càng nên Thuỷ đã lấy trộm chiếc xe máy trên. Sau một thời gian điều tra,
truy nã, Toà án thụ lý và xét xử Nguyễn Thị Thuỷ 09 tháng tù giam ( K1 Đ138
BLHS)
Từ ví dụ trên ta thấy anh Nguyễn Văn Trung mất cảnh giác với chính tài sản
của mình và hậu quả tạo điều kiện thuận lợi cho đối tượng dễ dàng phạm tội.
2.2 Đặc điểm của đối tượng phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Kim
Động.
Đặc điểm của đối tượng phạm tội trộm cắp tài sản trên đia bàn huyện Kim
Động chủ yếu là người trong huyện, bên cạnh đó nhiều vụ án đối tượng là người
nơi khác. Tuy nhiên các đối tượng này có đặc điểm cơ bản sau: như độ tuổi,
hồn cảnh gia đình, nhân thân…
2.2.1 Về giới tính.
Đối tượng phạm tội chủ yếu là nam giới, năm 2007 và năm 2008 chiếm 100%,
năm 2009 chiếm 98%. Ngồi ra cịn có cả nữ giới nhưng chiếm tỷ lệ nhỏ là 2%,
năm 2007, 2008 là khơng có trường hợp phạm tội nào là nữ. Nguyên nhân là do
bị dụ dỗ của bạn bè có lối sống bng thả, đàm đúm, nghiện ma tuý, trộm cắp
tài sản để ăn chơi…ở nữ giới cũng bị tác động nhưng số người phạm tội là rất ít
chỉ một số người do tính cách của họ đã thực sự bị tha hoá.
2.2.2 Về độ tuổi.


Căn cứ vào bản thống kê của TAND huyện Kim Động tính từ năm 2007,2008
thì đối tượng phạm tội trộm cắp tài sản nhìn chung ở độ tuổi từ 18 đến 30 tuổi

năm 2007 chiếm 85%, năm 2008 chiếm 80%, năm 2009 chiếm 70%. Nguyên
nhân do ở nhóm tuổi này tính cách đang có nhiều biến động mạnh đứng trước
nhiều cái mới cộng sự hiểu biết còn hạn chế, sự định hướng còn thiếu dễ bị thay
đổi bởi những điều kiện khách quan. Chính vì vậy dễ dẫn đến những hành vi trái
pháp luật và phạm tội.
Xu hướng trên địa bàn huyện Kim Động hiện nay về độ tuổi phạm tội ngày
càng trẻ hóa, xuất hiện khơng ít vụ án trộm cắp tài sản ở độ tuổi vị thành niên là
15, 16 tuổi, do một bộ phận không nhỏ các đối tượng này không học hành tử tế,
mải mê chơi game điện tử vì khơng đủ tiền để chơi và tiêu xài nên đã có hành vi
trộm cắp.
Ví dụ: Theo bản án HS số: 30/2009/HSST ngày 17/06/2009 Nguyễn Văn Nam
sinh ngày 18/11/1992; STQ: Phán Thuỷ - Song Mai – Kim Động - Hưng n.
Do khơng có tiền trả nợ nên sáng ngày 22/05/2009 Nam bàn bạc với hai người
bạn là Bùi Ngọc Toản sinh ngày 03/12/1992 và Đào Văn Quyền sinh ngày
09/01/1992 đều trú quán tại Đào Xá – Kim Động – Hưng Yên. Cả 3 đã bàn bạc
trộm xe máy của ơng Hồ (bố đẻ của Nam) mang đi bán lấy tiền trả nợ và tiêu
xài. Toà án đã thụ lý và tuyên: Nguyễn Văn Nam 09 tháng tù cho hưởng án treo;
Bùi Ngọc Toản 06 tháng tù cho hưởng án treo; Đào Văn Quyền 09 tháng tù cho
hưởng án treo, theo K1 Đ138, điểm g, h, p khoản 1, 2 Điều 46 BLHS.
2.2.3 Hồn cảnh gia đình.
Nhìn chung các đối tượng phạm tội trên địa bàn huyện Kim Động đều có hồn
cảnh gia đình khơng tốt như: cha mẹ bỏ nhau hay cha mẹ đi làm ăn xa khơng
quan tâm giáo dục con cái, trong gia đình có nhiều người có lối sống khơng lành
mạnh, bố mẹ mất sớm ở với ơng bà…Chính vì vậy khơng có sự giáo dục của gia
đình, bố mẹ dẫn đến bỏ dở học tập đua địi theo những thói xấu xã hội như: trộm
cắp tài sản để tiêu xài, chơi bời mà khơng lường hết được hậu quả của nó.
2.2.4 Nhân thân người phạm tội.


Nhân thân người phạm tội là tổng hợp các đặc điểm, dấu hiệu thể hiện bản

chất người tham gia các quan hệ xã hội.
Qua thực tế tìm hiểu tại địa phương cho thấy đối tượng trộm cắp tài sản trên
địa bàn huyện Kim Động phần lớn là phạm tội lần đầu, người có tiền án tiền sự
có chiếm khoảng 50%. Những đối tượng phạm tội chủ yếu có trình độ văn hố
thấp, khơng có nghề nghiệp ổn định,…pham tội vì mục đích chơi bời, lấy tiên
tiêu xài.
Nghiên cứu nhân thân người phạm tội giúp ta xác định được nguyên nhân
phạm tội, làm rõ những đặc điểm chủ yếu của chủ thể và hồn cảnh thực hiện tội
phạm, giới tính, độ tuổi, trình độ văn hố giúp ta khả năng tìm kiếm những đặc
điểm, dấu hiệu, yếu tố cấu tạo nên nhân thân người phạm tội một cách chung
nhất phục vụ công tác điều tra, xét xử.
2.3 Thời gian và địa điểm tội trộm cắp tài sản.
Đa số các hành vi phạm tội trộm cắp tài sản đều được các bị cáo thực hiện vào
ban đêm, hay lợi dụng sơ hở của các chủ sở hữu để lẻn vào nhà thực hiện hành
vi trộm cắp.
Ví dụ: Nguyễn Văn Bách sinh ngày: 01/04/1991; STQ: Tạ Trung – Chính Nghĩa
– Kim Động – Hưng Yên. Khoảng 01giờ ngày 22/03/2009, Bách thấy nhà anh
Đào Văn Toản, Trú tại: Lương Hội – Lương Bằng – Kim Động đang xây dựng
có bật đèn sáng khơng có người trông coi nên Bách đi vào trong và lấy một số
vật liệu xây dựng tổng trị giá là: 506.000đ.
Như vậy, em thấy rằng qua nghiên cứu thời gian và địa điểm trộm cắp tài sản
giúp các cơ quan chức năng có thời gian nắm bắt rõ từng đối tượng gây án, từ đó
có phương án điều tra, giám sát tốt nhất đối với các đối tượng phục vụ cho công
tác điều tra chung.
2.4. Phương pháp và thủ đoạn tội trộm cắp tài sản.
Mỗi vụ án đều có những phương pháp va thủ đoạn khác nhau nhưng nhìn
chung các đối tượng gây án có những phương pháp và thủ đoạn nhất định, có vụ
án hoạt động riêng lẻ 1 cá nhân có vụ hoạt động theo nhóm và có tổ chức … tuy



nhiên các nhóm này hoạt động có tính tạm thời, khơng mang tính chun nghiệp
lâu dài. thủ đoạn thường là đơn giản vì đối tượng trộm cắp tài sản mà chúng
hướng tới có giá trị nhỏ như: xe đạp, xe máy, gà vịt, chó… Chúng thường lợi
dụng đêm tối khi chủ nhà đi vắng hay khi chủ sở hữu mất cảnh giác với tài sản
của mình để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.
Nhận Xét Chung: Qua sự phân tích trên chúng ta có thể thấy được một số đặc
điểm cơ bản của tình hình phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Kim
Động, từ đó nghiên cứu và tìm hiểu tính sát thực của một số vụ án cụ thể để đưa
ra những giải pháp,biện pháp đấu tranh, phịng ngừa cũng như phục vụ cho cơng
tác xét xử được đúng người đúng tội, không làm ai bị tội oan hay lọt tội. Kết quả
cuối cùng làm giảm tối thiểu tội phạm trộm cắp tài sản, giữ gìn ANTT xã hội,
quần chúng nhân dân an tâm sinh sống. Có như vậy pháp luật mới được đưa vào
cuộc sống nhân dân một cách có ý nghĩa, người dân tin và làm theo pháp luật đó
mới là điều tốt mà bất cứ quốc gia nào cũng mong muốn.
PHẦN III
Phân tích các dấu hiệu của tội phạm và hình phạt áp dụng
Mục I: Phân tích các dấu hiệu của tội phạm.
1. Khái niệm tội phạm:
Tội phạm được quy định tại K1 Đ8 BLHS: Tội phạm là hành vi nguy hiểm
cho XH được quy định trong BLHS, do người có có năng lực trách nhiệm hình
sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất,
tồn vẹn lãnh thổ, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hố, quốc
phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm
phạm tính mạng sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền lợi ích
hợp pháp khác của cơng dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa.
*) Đặc điểm cơ bản của tội phạm:
- Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được qui định trong BLHS.



- Tội phạm do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện.
- Tội phạm thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý.
*) Khái niệm tội trộm cắp tài sản:
Cũng tương tự như đối với cướp giật tài sản và tội công nhiên chiếm đoạt tài
sản, điều văn của điều luật không mô tả hành vi trộm cắp tài sản được thực hiện
như thế nào nhưng căn cứ vào lý luận và thực tiễn xét xử thì trộm cắp tài sản là
hành vi lén lút lấy tài sản của chủ sở hữu hoặc của người có trách nhiệm quản lý
tài sản mà không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực hoặc bất cứ một thủ đoạn
nào nhằm uy hiếp tinh thần của người quản lý tài sản. Thông thường người
phạm tội lợi dụng sự mất cảnh giác của người quản lý tài sản để lấy tài sản mà
người quản lý tài sản khơng hề biết.
Từ đó ta có thể định nghĩa tội trộm cắp tài sản như sau:
Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác.Đặc
điểm nổi bật của tội trộm cắp tài sản là người phạm tội lén lút (bí mật) lấy tài
sản của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản khơng biết mình bị lấy tài sản, chỉ
sau khi mất họ mới biết bị mất tài sản.
Tính chất lén lút (bí mật) của hành vi trộm cắp tài sản thể hiện ở chỗ ng ười
phạm tội giấu diếm hành vi phạm tội của mình. Lén lút đối lập với công khai
trắng trợn. Tuy nhiên lén lút không phải đặc trưng duy nhất của tội trộm cắp tài
sản, mà trong nhiều tội phạm khác người phạm tội cũng lén lút nhưng để thực
hiện mục đích khác như: lẻn vào nhà người khác để đặt mìn nhằm mục đích giết
người, lẻn vào phịng ngủ của phụ nữ để thực hiện hành vi hiếp dâm…Vì vậy
khi nói đến tội trộm cắp tài sản thì khơng thể khơng đi kèm với hành vi chiếm
đoạt tài sản, nếu lén lút mà khơng nhằm chiếm đoạt tài sản thì khơng phải là
trộm cắp tài sản.
2. Phân tích các dấu hiệu của tội phạm.
2.1 Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm.
Đối với tội trộm cắp tài sản, chủ thể của tội phạm cũng tương tự như đối với
tội xâm phạm sở hữu khác. Tuy nhiên, người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16



tuổi khơng phải chịu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản thuộc trường
hợp qui định tại K1 và K2 Đ138 BLHS, vì K1 Đ138 BLHS là tội phạm ít
nghiêm trọng và K2 Đ138 BLHS là tội phạm nghiêm trọng, mà theo qui định tại
K2 Đ12 BLHS thì người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất quan trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt
quan trọng. Vì vậy, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các cơ quan Công an
, Viện kiểm sát, Toà án tại Kim Động cũng đã tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc trên,
trong trường hợp người phạm tội chưa đủ 16 tuổi, mà phạm tội theo K1, K2
Đ138. Nhìn chung, chủ thể của tội phạm trộm cắp tài sản mà TAND huyện Kim
Động xét xử chủ yếu phạm tội theo K1, K2 Đ138 đều ở độ tuổi từ đủ 16 tuổi trở
lên.
2.2 Các dấu hiệu về mặt khách thể của tội phạm.
Khách thể của tội phạm trộm cắp tài sản cũng tương tự giống tội có tính chất
chiếm đoạt khác, nhưng tội trộm cắp tài sản không xâm phạm đến quan hệ nhân
thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu, đây cũng là một đặc điểm khác tội
cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, đặc điểm
này được thể hiện trong cấu thành tội trộm cắp tài sản. Điều luật khơng qui định
thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ là tình tiết định khung hình phạt vì vậy sau khi
đã chiếm đoạt được tài sản, người phạm tội bị đuổi bắt mà có hành vi chống trả
để tẩu thốt, gây chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ
của người khác thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội còn phải bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người hoặc cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khoẻ người khác. Qua tìm hiểu, thống kê số liệu tội phạm
trộm cắp tài sản trong ba năm tại TAND huyện Kim Động thì khơng có trường
hợp nào người phạm tội trộm cắp tài sản xâm phạm cả quan hệ nhân thân, mà
chủ yếu xâm phạm quan hệ sở hữu, đối tượng chỉ trộm cắp tài sản mà không
xâm phạm quan hệ khác.
2.3 Các dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm.
2.3.1 Hành vi khách quan.



Do đặc điểm của tội trộm cắp tài sản nên người phạm tội chỉ có một hành vi
khách quan duy nhất là “chiếm đoạt” nhưng chiếm đoạt bằng hình thức lén lút,
với thủ đoạn lợi dụng sơ hở mất cảnh giác của chủ sở hữu tài sản để thực hiện
hành vi chiếm đoạt mà người quản lý tài sản không biết. Trong cuộc sống hàng
ngày, chúng ta có thể chứng kiến rất nhiều hành vi trộm cắp tài sản: Trộm cắp ở
bến tàu, nhà xe, nhà ga, nhà dân… trên tất cả các loại phương tiện bất kể thời
gian nào. Tuy nhiên không phải trường hợp phạm tội nào cũng giống nhau thực
tiễn xét xử cho thấy có nhiều trường hợp do nhầm lẫn với các tội phạm khác, có
khi chúng ta xác định hành vi đó là trộm cắp nhưng lại khơng phải, ngược lại có
trường hợp được xác định không phải là hành vi trộm cắp nhưng lại đúng là
trộm cắp. Đối với các trường hợp này thường nhầm với tội công nhiên chiếm
đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội chiếm giữ
trái phép tài sản. Để xác định hành vi trộm cắp tài sản và phân biệt tội trộm cắp
tài sản với một số tội phạm khác gần kề chúng ta nghiên cứu một số dạng trộm
cắp tài sản có tính chất đặc thù sau:
- Người phạm tội dùng những thủ đoạn gian dối tiếp cận tài sản để đến khi có
điều kiện sẽ lén lút chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài
sản :
Ví dụ: Nguyễn Văn Đức tự giới thiệu là bạn của con trai ông Trần Văn Tiến,
Đức ở chơi nhà ông Tiến 02 ngày, tới khi gia đình ông Tiến đi làm đồng hết,
Đức ở nhà tìm lục chìa khố xe máy và dắt xe đi tiêu thụ nhưng trong khi tiêu
thụ xe Đức đã bị bắt và khai nhận hành vi phạm tội của mình.
- Người phạm tội lợi dụng chỗ đông người chen lấn, xô đẩy, để chiếm đoạt tài
sản của người khác.
- Người phạm tội lợi dụng người quản lý tài sản khơng có mặt ở nơi để tài sản
hoặc tài sản khơng có người trực tiếp quản lý nên đã chiếm đoạt. Ví dụ: Nguyễn
Văn Nam thường đi lại lúc nửa đêm rình rập xem có gia đình nào sơ hở sẽ vào
ăn trộm.




×