NGUYỄN VIẾT DƯƠNG
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VIẾT DƯƠNG
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
THẨM QUYỀN CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG PHIÊN TÒA SƠ
THẨM GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH, DOANH THƯƠNG
MẠI TỪ THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
KHÓA
Hà Nội, năm 2020
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VIẾT DƯƠNG
THẨM QUYỀN CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG PHIÊN TÒA SƠ
THẨM GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH, DOANH THƯƠNG
MẠI TỪ THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành:. Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. VŨ THỊ HỒNG VÂN
Hà Nội, năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của bản thân tơi, dưới sự
hướng dẫn khoa học của Người hướng dẫn khoa học là PGS.TS. Vũ Thị Hồng Vân.
Các nội dung và kết quả nghiên cứu trong đề tài là trung thực và chưa từng được
cơng bố trong bất kỳ cơng trình khoa học nào trước đây.
Trong q trình nghiên cứu, tác giả có sử dụng các nguồn tài liệu khác nhau,
tất cả đều được chỉ dẫn nguồn cụ thể và được liệt kê trong Danh mục tài liệu tham
khảo.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào, tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm
trước nhà trường, Hội đồng chấm Luận văn, cũng như kết quả Luận văn của mình.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 02 tháng 5 năm 2020
Tác giả
Nguyễn Viết Dương
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................ 1
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THẨM QUYỀN CỦA KIỂM SÁT
VIÊN TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN KINH DOANH, THƯƠNG
MẠI.................................................................................................................................... 7
1.1. Cơ sở lý luận về thẩm quyền của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm xét
xử vụ án kinh doanh thương mại.......................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm về thẩm quyền của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ
án kinh doanh thương mại ............................................................................................. 7
1.1.2. Vai trò của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm giải quyết các vụ án kinh
doanh thương mại............................................................................................................. 18
1.1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện thẩm quyền của Kiểm sát viên
tại phiên tòa sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại.................................................... 22
1.2. Quy định về thẩm quyền của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm xét
xử vụ án kinh doanh, thương mại............................................................................... 27
1.2.1. Các trường hợp Kiểm sát viên tham gia phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án
kinh doanh, thương mại ................................................................................................... 27
1.2.2. Thẩm quyền của Kiểm sát viên trong việc tham gia phiên tòa sơ thẩm
xét xử vụ án kinh doanh, thương mại ....................................................................... 29
Chương 2: THỰC TIỄN THI HÀNH QUY ĐỊNH VỀ THẨM QUYỀN
CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN KINH
DOANH, THƯƠNG MẠI TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ........................ 43
2.1. Khái quát về đặc điểm, tình hình về Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ
Chí Minh ............................................................................................................................ 43
2.1.1. Điều kiện kinh tế, xã hội và địa lý của Thành phố Hồ Chí Minh ........................ 43
2.1.2. Đặc điểm vể bộ máy, tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ
Chí Minh ............................................................................................................................ 45
2.2. Những kết quả đạt được trong thực hiện quy định về thẩm quyền của
Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm giải quyết các tranh chấp kinh doanh,
thương mại ....................................................................................................................... 47
2.2.1. Số liệu ............................................................................................................. 47
2.2.2. Đánh giá ................................................................................................................. 49
2.3. Một số khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân ............................................. 56
2.3.1. Khó khăn, vướng mắc..................................................................................... 56
2.3.2. Nguyên nhân................................................................................................... 60
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG THỰC THI THẨM QUYỀN CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN
TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN KINH DOANH, THƯƠNG MẠI ................................. 68
3.1. Một số giải pháp .............................................................................................. 68
3.1.1. Tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành ....................................................... 68
3.1.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác kiểm sát án kinh doanh, thương
mại ............................................................................................................................ 69
3.1.3. Phát huy tinh thần trách nhiệm, nâng cao năng lực, trình độ nghiệp vụ và
kinh nghiệm của đội ngũ Kiểm sát viên ................................................................... 71
3.1.4. Tăng cường quan hệ phối hợp ........................................................................ 72
3.1.5. Chú trọng đầu tư cơ sở vật chất và chế độ, chính sách cho đội ngũ Kiểm sát
viên ........................................................................................................................... 72
3.2. Một số kiến nghị ............................................................................................. 73
3.2.1. Hoàn thiện quy định pháp luật dân sự, tố tụng dân sự .................................. 73
3.2.2. Xây dựng và hoàn thiện các quy định trong ngành Kiểm sát nhân dân và
quy định liên ngành giữa Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân .................. 76
KẾT LUẬN......................................................................................................................... 78
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Giải nghĩa
BLTTDS
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
HĐXX
Hội đồng xét xử
KDTM
Kinh doanh, thương mại
KSV
Kiểm sát viên
TAND
Tòa án nhân dân
VKS
Viện kiểm sát
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
1
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Thành phố Hồ Chí Minh được biết đến là một trong những thành phố phát
triển nhất trong cả nước. Trong những năm qua, cùng với sự lớn mạnh của nền kinh
tế thị trường, các quan hệ KDTM tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày càng trở nên sôi
động và đa dạng hơn. Tuy nhiên, các tranh chấp KDTM, vì vậy, cũng diễn ra ngày
càng phổ biến và phức tạp hơn. Khi các bên không đạt được sự đồng thuận trong
việc giải quyết tranh chấp, một trong các bên có quyền sử dụng các thiết chế khác
nhau để giải quyết tranh chấp như thương lượng, hòa giải hay yêu cầu các cơ quan
tài phán như Trọng tài thương mại và Tòa án.
BLTTDS đã mở rộng quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND cũng
như KSV khi tham gia phiên tòa sơ thẩm giải quyết tranh chấp dân sự nói chung,
phiên tịa giải quyết tranh chấp KDTM nói riêng. Theo đó, VKSND tham gia phiên
tịa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối
tượng tranh chấp là tài sản cơng, lợi ích cơng cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc
có đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành
vi và trường hợp Tịa án khơng được từ chối giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa
có điều luật để áp dụng. Đáng chú ý, Điều 262 BLTTDS kế thừa quy định: tại phiên
tòa sơ thẩm giải quyết vụ án dân sự, KSV phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp
luật tố tụng của Thẩm phán, HĐXX, Thư ký Tòa án và người tham gia tố tụng dân
sự trong quá trình giải quyết vụ án, đồng thời, bổ sung nội dung KSV phát biểu ý
kiến về việc giải quyết vụ án. Quy định mới của BLTTDS một mặt khẳng định vai
trò quan trọng của VKSND và KSV trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ,
việc dân sự nói chung, kiểm sát việc giải quyết các vụ án KDTM nói riêng. Mặt
khác, quy định này cũng tạo ra những áp lực nhất định đối với các cơ quan VKSND
và KSV được phân công công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án KDTM.
Thực tiễn công tác kiểm sát xét xử các vụ án KDTM theo thủ tục sơ thẩm tại
VKSND hai cấp trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh (bao gồm VKSND Thành
2
phố và VKSND 24 quận huyện) trong những năm vừa qua đã đạt được những kết
quả khả quan. Thể hiện ở chỗ VKSND hai cấp trên địa bàn Thành phố đã phát hiện
ra những vi phạm của TAND hai cấp về tố tụng, qua đó kịp thời thực hiện quyền
kiến nghị Tòa án khắc phục vi phạm; Tại các phiên tòa, hầu hết quan điểm của VKS
về việc giải quyết nội dung vụ án phù hợp, có căn cứ được Tịa án chấp nhận…
Chất lượng cơng tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án KDTM theo thủ tục
sơ thẩm của VKSND hai cấp trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh được nâng cao
xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau như sự hoàn thiện của pháp luật về
KDTM và pháp luật tố tụng dân sự, công tác chỉ đạo, điều hành, bố trí cán bộ của
các đơn vị VKSND và năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của các KSV được phân
công làm công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án KDTM. Trong đó, đặc biệt
quan trọng là yếu tố chất lượng nguồn nhân lực mà sự thể hiện rõ ràng nhất là vai
trò của KSV tại các phiên tòa giải quyết vụ án KDTM. Tuy nhiên, ở một khía cạnh
khác, nếu nhìn nhận khách quan thì công tác kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án
KDTM vẫn ít nhiều tồn tại những hạn chế nhất định. Trên thực tế, một số vi phạm
của Tòa án về mặt tố tụng chưa được KSV phát hiện để phát biểu ý kiến tại phiên
tòa; tại phiên tòa phát sinh một số tình huống địi hỏi KSV phải có ý kiến như
đương sự vắng mặt, đương sự xin hoãn, tạm ngừng phiên tòa, đương sự bổ sung tài
liệu, chứng cứ hoặc có lời khai khác so với lời khai có trong hồ sơ vụ án nhưng vai
trị của KSV còn chưa được thể hiện rõ; một số quan điểm về việc giải quyết nội
dung vụ án của KSV chưa phù hợp nên khơng được Tịa án chấp nhận.
Trong bối cảnh, số lượng các vụ án tranh chấp về KDTM trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh có xu hướng gia tăng, áp lực công việc của các KSV được phân
cơng tham gia phiên tịa giải quyết tranh chấp KDTM ngày càng nhiều, việc nghiên
cứu các quy định pháp luật về thẩm quyền của KSV tại phiên tòa sơ thẩm vụ án
KDTM, nhận diện thực trạng chất lượng tham gia phiên tịa sơ thẩm vụ án KDTM
của KSV, từ đó, đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng hoạt
động tham gia phiên tòa sơ thẩm vụ án KDTM của Kiểm sát viên VKSND hai cấp
trên địa bàn Thành phố là yêu cầu mang tính tất yếu và khách quan.
3
Chính vì các lí do nêu trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Thẩm quyền của
Kiểm sát viên trong phiên tòa sơ thẩm giải quyết tranh chấp kinh, doanh thương
mại từ thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn cuối khóa.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã tham khảo nhiều bài viết trên các
tạp chí chuyên ngành, sách chuyên khảo, luận văn thạc sĩ, chuyên đề tổng kết rút
kinh nghiệm của các ngành Kiểm sát, Tòa án… có liên quan đến nội dung đề tài. Có
thể phân loại tài liệu thành hai nhóm sau:
- Nhóm thứ nhất, các bài viết liên quan đến vị trí, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của VKSND trong tố tụng dân sự, trong hoạt động kiểm sát các vụ án
dân sự, KDTM theo thủ tục sơ thẩm như: “Vị trí, vai trị của Viện kiểm sát trong tố
tụng dân sự” của tác giả Khuất Văn Nga – Hà Nội năm 2008; “Quy định về tham
gia phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự của Viện kiểm sát nhân dân và
hướng sửa đổi, bổ sung theo Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật
Tố tụng dân sự” của tác giả Hồng Thị Quỳnh Chi – Thơng tin Khoa học kiểm sát,
năm 2010; Luận văn thạc sĩ luật học “Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân
dân trong tố tụng dân sự” của tác giả Phùng Thanh Hà năm 2014; Luận văn thạc sĩ
luật học“Thẩm quyền dân sự theo loại việc của Tòa án về giải quyết tranh chấp
kinh doanh thương mại” của Nguyễn Thị Hiên năm 2014; Luận văn thạc sĩ luật
học “Kiểm sát giải quyết các tranh chấp kinh doanh - thương mại trên địa bàn tỉnh
Lai Châu” của tác giả Nguyễn Viết Tuấn năm 2018;…
- Nhóm thứ hai, các bài viết liên quan đến vai trò của KSV tại phiên tòa sơ
thẩm giải quyết các vụ án dân sự, KDTM như Luận văn thạc sĩ luật học “Vai trò
của Viện kiểm sát nhân dân trong phiên tòa dân sự sơ thẩm” của Nguyễn Vĩnh Tá
năm 2012; các bài viết, chuyên đề khoa học của VKSND các địa phương có liên
quan đến nội dung “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng bài phát biểu của
Kiểm sát viên tại phiên tòa dân sự sơ thẩm” như VKSND thành phố Hà Nội, Quảng
Ngãi, Sóc Trăng… các thông báo rút kinh nghiệm trong công tác kiểm sát việc giải
quyết các vụ án KDTM của VKSND tối cao, VKSND Thành phố Hồ Chí Minh…
4
Qua nghiên cứu những cơng trình, bài viết nêu trên, tác giả nhận thấy có
nhiều quan điểm, lý luận tác giả có thể kế thừa và phát triển được khi nghiên cứu và
hồn thành đề tài. Tuy vậy, các cơng trình, bài viết trên chủ yếu đi sâu vào nghiên
cứu các lĩnh vực chung nhất về nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước; các vấn đề
về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụng dân sự hay kiểm sát
việc giải quyết các tranh chấp KDTM mà chưa đưa nhận thức toàn diện về nhiệm
vụ, quyền hạn của KSV tại phiên tòa sơ thẩm giải quyết tranh chấp KDTM, đặc biệt
là tại một địa phương có nhiều án KDTM như Thành phố Hồ Chí Minh.
3. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lí luận chung, phân tích các quy định
của pháp luật hiện hành về thẩm quyền của KSV tại phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự
nói chung, vụ án KDTM nói riêng; khảo sát, đánh giá những ưu, nhược điểm cũng
như những hạn chế, vướng mắc trong các quy định về thẩm quyền của KSV tại
phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án KDTM;
Luận văn đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thực
hiện thẩm quyền của KSV của VKSND hai cấp trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh tại phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án KDTM.
3.2. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Để đạt được mục tiêu trên, Luận văn có nhiệm vụ:
+ Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về lý luận về thẩm quyền của KSV tại
phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án KDTM; phân tích những quy định của pháp luật
hiện hành và của Ngành Kiểm sát nhân dân về thẩm quyền của KSV tại phiên tòa sơ
thẩm xét xử vụ án KDTM.
+ Khảo sát, đánh giá thực trạng thực thi các quy định hiện hành về thẩm
quyền của KSV của VKSND hai cấp trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh tại các
phiên tòa sơ thẩm xét xử các vụ án KDTM của trong thời gian từ ngày 01/01/2017
đến ngày 31/12/2019, qua đó chỉ ra những kết quả đã đạt được, những tồn tại, hạn
chế cần phải khắc phục và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó.
5
+ Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị có tính khả thi nhằm nâng cao chất
lượng thực thi thẩm quyền của KSV tại các phiên tòa sơ thẩm giải quyết tranh chấp
KDTM trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
4. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung, các quy định
pháp luật, quy định của Ngành Kiểm sát nhân dân, thực trạng thi hành các quy định
về thẩm quyền của KSV tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án dân sự nói chung và các
vụ án KDTM nói riêng.
4.2. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề về thẩm quyền
của KSV tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án KDTM.
- Về không gian: Luận văn tập trung khảo sát, đánh giá thực tiễn thực thi quy
định hiện hành về thẩm quyền của KSV tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án KDTM
tại VKSND Thành phố Hồ Chí Minh và VKSND 24 quận huyện trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh.
- Về thời gian: Luận văn giới hạn thời gian khảo sát thực tiễn thi hành trong
thời gian từ 01/01/2017 đến ngày 31/12/2019.
5. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Về phương pháp luận: Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu, luận văn vận
dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước ta.
- Về phương pháp nghiên cứu cụ thể: Luận văn sử dụng kết hợp chủ yếu các
phương pháp nghiên cứu như phương pháp phân tích, tiếp cận lịch sử, phương pháp
nghiên cứu lý luận, phương pháp phân tích luật, tổng hợp, thống kê.
+ Phương pháp phân tích, tiếp cận lịch sử và nghiên cứu lý luận: làm rõ khái
niệm và những vấn đề lý luận về kiểm sát việc giải quyết các vụ án KDTM và thẩm
quyền của KSV tại phiên tòa sơ thẩm sơ thẩm vụ án KDTM.
6
+ Phương pháp phân tích luật và thống kê thực tiễn: để luận giải cho những
nhận định, đánh giá thực trạng thi hành các quy định về thẩm quyền của Kiểm sát
viên VKSND hai cấp trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tịa xét xử sơ
thẩm các vụ án KDTM.
+ Phương pháp tổng hợp: được sử dụng để rút ra những kết luận và giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả trong việc thực thi quy định về thẩm quyền của
KSV tại phiên tòa sơ thẩm xét xử các tranh chấp KDTM.
6. KẾT CẤU LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn được kết cấu 03 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về thẩm quyền của Kiểm sát viên tại phiên
tòa sơ thẩm vụ án kinh doanh, thương mại
Chương 2: Thực tiễn thi hành quy định về thẩm quyền của Kiểm sát viên tại
phiên tòa sơ thẩm vụ án kinh doanh, thương mại tại Thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Một số giải pháp, kiến nghị nâng cao chất lượng thực thi thẩm
quyền của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm giải quyết các tranh chấp kinh doanh,
thương mại
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẨM QUYỀN CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI
PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
1.1. Cơ sở lý luận về thẩm quyền của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ
thẩm xét xử vụ án kinh doanh thương mại
1.1.1. Khái niệm về thẩm quyền của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm xét
xử vụ án kinh doanh thương mại
- Thẩm quyền
Mỗi một cơ quan nhà nước có một vai trị, vị trí riêng trong bộ máy nhà
nước. Cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước là người thực thi công vụ được
nhà nước trao quyền. Công vụ là một loại hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước,
nói đến cơng vụ là nói đến trách nhiệm của cán bộ, cơng chức trong việc thực hiện
quyền và nghĩa vụ nhằm mục tiêu phục vụ người dân và xã hội. Trách nhiệm công
vụ là việc cán bộ, công chức tự ý thức về quyền và nhiệm vụ được phân công cũng
như bổn phận phải thực hiện các quyền và nhiệm vụ đó. Gắn với trách nhiệm cơng
vụ, cán bộ cơng chức có những thẩm quyền nhất định để thực thi công vụ của mình.
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về thẩm quyền như: thẩm quyền bao gồm
nhiệm vụ và quyền hạn hay thẩm quyền là phương tiện để các cơ quan nhà nước,
cán bộ công chức nhà nước thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình; hoặc cho
rằng thẩm quyền bao gồm tổng thể những quyền và nghĩa vụ mang tính quyền lực
do pháp luật quy định [6, tr22-26].
Theo Từ điển Tiếng Việt, “Thẩm quyền” là tổng hợp các quyền mà pháp luật
quy định cho một cơ quan nhà nước một công chức được xem xét giải quyết những
công việc cụ thể trong lĩnh vực và phạm vi nhất định nhằm thực hiện chức năng
của bộ máy nhà nước [20, tr.523]. Thẩm quyền gắn liền với quyền hạn và nhiệm vụ
mà pháp luật quy định cho các cơ quan nhà nước, cán bộ, cơng chức trong các cơ
quan đó để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của họ. Thẩm quyền của mỗi cơ quan
nhà nước và cá nhân được phân định theo lĩnh vực, ngành, khu vực hành chính, cấp
8
hành chính. Trong mỗi ngành, thẩm quyền được phân định theo chức năng, nhiệm
vụ của ngành đó. Thẩm quyền khơng chỉ thể hiện được sự khác biệt giữa các cơ
quan nhà nước, các cán bộ, công chức với nhau mà cịn là thuộc tính tất yếu của các
cơ quan nhà nước, của cán bộ, công chức nhà nước.
Trong khoa học pháp lý, thẩm quyền được xem là một khái niệm quan
trọng. “Thẩm quyền” được hiểu là “quyền chính thức được xem xét để kết luận và
định đoạt, quyết định một vấn đề” [30, tr.701]. Thẩm quyền gắn liền với quyền và
nhiệm vụ mà pháp luật quy định cho cơ quan nhà nước, người nắm những chức vụ
lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan đó để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của họ.
Trong pháp luật hiện hành của Việt Nam, thuật ngữ “thẩm quyền” thường được sử
dụng trong các cụm từ như: “thẩm quyền xét xử”, “cơ quan có thẩm quyền”, “người
có thẩm quyền”, “cấp có thẩm quyền”, “thẩm quyền của Toà án nhân dân”, “thẩm
quyền của Viện kiểm sát nhân dân”, thẩm quyền của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân”... Như vậy, có thể thấy rằng, “thẩm quyền là thuật ngữ dùng để chỉ phạm
vi, giới hạn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cá nhân hoặc cơ quan nhà nước
trong việc thực thi quyền lực nhà nước được pháp luật quy định”.
- Kiểm sát viên
Tại nước ta, chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung, kiểm sát việc
giải quyết các vụ việc dân sự, hơn nhân gia đình, kinh doanh thương mại nói riêng
ln được xác định là chức năng hiến định của VKSND. VKSND thực hành quyền
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất [13, Điều 107; 14, Điều 2]. Không đề
cập đến chức năng thực hành quyền công tố vốn chỉ có trong các vụ án hình sự,
kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của VKSND để kiểm sát tính hợp pháp của
các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được
thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án
9
hành chính, vụ việc dân sự, hơn nhân và gia đình, KDTM, lao động; việc thi hành
án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp
khác theo quy định của pháp luật [14, khoản 1 Điều 4].
VKSND kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện
các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo
đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật; Tham gia các phiên
họp sơ thẩm đối với các việc dân sự, phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa
án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản cơng, lợi ích
cơng cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có đương sự là người chưa thành niên,
người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người
có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc trường hợp Tòa án giải quyết vụ
việc khi chưa có điều luật để áp dụng; Tham gia phiên tịa, phiên họp phúc thẩm,
giám đốc thẩm, tái thẩm [16, Điều 21].
VKSND thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình thơng qua
các KSV. KSV là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để thực hiện
chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp [14, Điều 74].
Nhiệm vụ, quyền hạn của KSV khi kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự nói
chung, kiểm sát tại phiên tịa giải quyết các vụ án KDTM nói riêng được cụ thể hóa
trong các quy định của BLTTDS, Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTCTANDTC ngày 31 tháng 8 năm 2016 quy định việc phối hợp giữa VKSND và
TAND trong việc thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và các văn
bản hướng dẫn nghiệp vụ của ngành kiểm sát nhân dân như Quy chế công tác kiểm
sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, Quy định về hướng dẫn hoạt động của Kiểm
sát viên tham gia phiên tòa dân sự sơ thẩm của VKSND tối cao.
Theo các quy định nêu trên, tại phiên tòa sơ thẩm giải quyết vụ án KDTM,
KSV thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy định để kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của HĐXX, Thư ký Tòa án và những người tham gia tố tụng tại
phiên tòa, tham gia hỏi để làm rõ nội dung vụ án, thực hiện các quyền yêu cầu, đề
nghị, kiến nghị, đồng thời, đại diện VKS phát biểu quan điểm đối với việc giải
10
quyết nội dung vụ án. Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tiến
hành tố tụng và sự chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng tại phiên
tòa sơ thẩm vụ án dân sự nói chung, vụ án KDTM nói riêng là quyền năng pháp lý
riêng có mà pháp luật quy định cho KSV. Đây đồng thời cũng là nghĩa vụ pháp lý
của KSV. Chỉ có KSV mới có quyền tiến hành các hoạt động kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong phiên tòa sơ thẩm vụ án KDTM một cách trực tiếp. Cũng do
địa vị pháp lý đặc biệt này, chỉ có KSV mới có quyền và nghĩa vụ áp dụng các biện
pháp cần thiết như thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị để tác động trực tiếp vào
các chủ thể tham gia phiên tòa.
- Vụ án kinh doanh thương mại
Trong khoa học pháp lý, “vụ án” được hiểu là một vụ việc có dấu hiệu trái
pháp luật mang tính chất hình sự hoặc tranh chấp giữa các chủ thể pháp luật được
đưa ra Tòa án hoặc cơ quan trọng tài giải quyết. Theo Luật Tổ chức Tòa án nhân
dân, tòa án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hơn nhân và gia đình, lao động,
KDTM, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật [30,
tr.860]. Hiểu theo nghĩa này, vụ án KDTM là các tranh chấp về KDTM được Tòa
án xét xử theo quy định của pháp luật. Tranh chấp KDTM là một dạng của tranh
chấp dân sự (theo nghĩa rộng bao gồm dân sự, hơn nhân và gia đình, lao động,
KDTM), do vậy, để có căn cứ kiểm sát việc giải quyết các vụ án KDTM chính xác,
khách quan, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp, cần nhận diện
và phân biệt vụ án KDTM với các vụ án dân sự thông thường. Sự khác nhau giữa
vụ án KDTM và vụ án dân sự (hiểu theo nghĩa hẹp) thể hiện ở một số điểm sau:
Một là, sự khác nhau của vụ án KDTM và vụ án dân sự là sự khác nhau về
nội dung tranh chấp. Vụ án KDTM hay vụ án dân sự đều bắt nguồn từ các mâu
thuẫn, bất đồng hay xung đột về quyền và nghĩa vụ của các bên trong các quan hệ
pháp luật này. Các tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án bao
gồm: Tranh chấp về quốc tịch Việt Nam giữa cá nhân với cá nhân; Tranh chấp về
quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản; Tranh chấp về giao dịch dân sự,
hợp đồng dân sự; Tranh chấp về thừa kế tài sản; Tranh chấp về bồi thường thiệt hại
11
ngoài hợp đồng; Tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật về đất đai; tranh
chấp về quyền sở hữu, quyền sử dụng rừng theo quy định của Luật bảo vệ và phát
triển rừng; Tranh chấp liên quan đến hoạt động nghiệp vụ báo chí theo quy định của
pháp luật về báo chí; Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công
chứng vô hiệu; Tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo
quy định của pháp luật về thi hành án dân sự... [16, Điều 26].
Trong khi đó, những tranh chấp về KDTM thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án bao gồm: Tranh chấp phát sinh trong hoạt động KDTM giữa cá nhân, tổ
chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận; Tranh chấp về
quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao cơng nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều
có mục đích lợi nhuận; Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên cơng ty
nhưng có giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với cơng ty, thành viên cơng
ty; Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa công ty
với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng
quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên của
công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp
nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của cơng
ty; Các tranh chấp khác về KDTM, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của
cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật [16, Điều 30].
Nội dung của những tranh chấp KDTM liên quan đến những mâu thuẫn bất
đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh từ hoạt động KDTM. Nói cách
khác, đó là các tranh chấp, bất đồng phát sinh từ các quan hệ mua bán hàng hoá,
cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi khác hay các tranh chấp phát sinh từ hoạt động quản lý nội bộ của các
doanh nghiệp như tranh chấp giữa thành viên của công ty với công ty, tranh chấp
giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động,
giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi
hình thức tổ chức của cơng ty… Ngồi các tranh chấp kể trên, các tranh chấp khác
đương nhiên không được xác định là tranh chấp KDTM.
12
Hai là sự khác nhau về mặt chủ thể tham gia tố tụng trong vụ án KDTM và
vụ án dân sự. Vì chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự và quan hệ pháp luật
KDTM là không giống nhau, do đó, chủ thể tham gia tố tụng (nguyên đơn, bị đơn,
người có quyền, nghĩa vụ liên quan) trong vụ án giải quyết tranh chấp phát sinh từ
các quan hệ dân sự hay KDTM cũng không giống nhau.
Tranh chấp dân sự phát sinh từ các quan hệ pháp luật dân sự thơng thường
thì chủ thể tham gia tranh chấp có thể là các cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp
tác và các chủ thể khác có địa vị pháp lý ngang bằng, bình đẳng với nhau. Tranh
chấp giữa các chủ thể này có thể liên quan đến các giá trị nhân thân (quan hệ nhân
thân) hoặc các giá trị vật chất (quan hệ tài sản) nhất định. Bên cạnh các tranh chấp
về quan hệ nhân thân không liên quan đến tài sản, các tranh chấp khác giữa các chủ
thể quan hệ pháp luật dân sự là tranh chấp liên quan đến tài sản, trong đó, các chủ
thể tham gia vào quan hệ tài sản chủ yếu vì mục đích sinh hoạt hay tiêu dùng. Trong
một số trường hợp, chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự vì mục đích lợi
nhuận, nhưng họ khơng đăng kí kinh doanh thì tranh chấp phát sinh giữa họ cũng
khơng phải là tranh chấp KDTM. Ví dụ, chị A trong một lần đi du lịch ở nước ngoài
đã mua một số hàng mỹ phẩm về Việt Nam để bán lấy tiền lời. Việc mua bán mỹ
phẩm của chị A là vì mục đích lợi nhuận nhưng tranh chấp (nếu có) phát sinh từ
việc chị A bán mỹ phẩm cho người khác sẽ không được coi là tranh chấp KDTM
bởi chị A không phải là thương nhân, không tiến hành hoạt động mua bán hàng hóa
vì mục đích sinh lợi một cách thường xuyên, liên tục, mang tính nghề nghiệp.
Trong khi đó, tranh chấp KDTM phát sinh từ quan hệ KDTM giữa các
thương nhân trong hoạt động KDTM vì mục đích lợi nhuận. Sẽ được coi là quan hệ
pháp luật KDTM nếu chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật này đều là các thương
nhân hay ít nhất một trong các bên là thương nhân. Tức là, chủ thể tham gia quan hệ
pháp luật KDTM phải có ít nhất một bên là tổ chức kinh tế được thành lập hợp
pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký
kinh doanh [12, khoản 1 Điều 6]. Khi quan hệ pháp luật KDTM giữa các bên phát
sinh tranh chấp và một trong các bên có u cầu Tịa án giải quyết tranh chấp thì
13
các chủ thể tham gia vụ án KDTM đương nhiên phải là chủ thể đã tham gia vào
quan hệ pháp luật KDTM trước đó. Như vậy, chủ thể tham gia tố tụng trong vụ án
KDTM phải là các thương nhân hoặc phải có ít nhất một bên tham gia tố tụng là
thương nhân, trước đó, xác lập quan hệ pháp luật KDTM vì mục đích lợi nhuận.
Ba là sự khác nhau về thẩm quyền giải quyết vụ án KDTM và vụ án dân sự.
Sự khác biệt này khó có thể được nhận diện nếu như các vụ án dân sự và vụ án
KDTM thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp huyện, bởi lẽ, hầu hết tại các
TAND cấp huyện khơng có Tịa chun trách hay Thẩm phán chun trách giải
quyết vụ án dân sự hay vụ án KDTM, mà thông thường một Thẩm phán đảm nhiệm
việc giải quyết cả án dân sự và án KDTM. Tại các cơ quan TAND cấp huyện nếu có
các phân Tịa chun trách thì thẩm quyến giải quyết các tranh chấp KDTM và
tranh chấp dân sự đều thuộc về Tòa dân sự TAND cấp huyện [16, khoản 1 Điều 36].
Tuy nhiên, thẩm quyền giải quyết các vụ án dân sự và vụ án KDTM của
TAND cấp tỉnh có sự khác biệt khá rõ ràng. Theo quy định tại Điều 38 BLTTDS,
việc giải quyết các vụ án dân sự hay vụ án KDTM thuộc thẩm quyền của TAND
cấp tỉnh sẽ do hai Tòa chuyên trách hồn tồn khác nhau thực hiện. Tịa dân sự
TAND cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp
dân sự thuộc thẩm quyền của TAND cấp tỉnh và giải quyết theo thủ tục phúc thẩm
những vụ án dân sự mà bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của TAND
cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của BLTTDS. Tòa kinh tế
TAND cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp
KDTM thuộc thẩm quyền của TAND cấp tỉnh và giải quyết theo thủ tục phúc thẩm
những vụ án KDTM mà bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của TAND
cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của BLTTDS.
Bốn là sự khác nhau về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự và vụ án KDTM.
Theo quy định của BLTTDS, thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được thực hiện theo
quy định của BLDS. Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng
thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra
trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc. Người được
14
hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường
hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ [16, Điều 184].
Như vậy, trong trường hợp các bên khơng có u cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện,
khi giải quyết vụ án, không đặt ra yêu cầu xác định còn hay hết thời hiệu khởi kiện.
Trường hợp một trong các bên có yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện, việc xác
định thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự và vụ án KDTM cũng có sự khác biệt.
BLDS có các quy định chung về thời hiệu [15, Điều 150 đến Điều 157], quy
định thời hiệu khởi kiện về hợp đồng [15, Điều 429], quy định thời hiệu khởi kiện
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng [15, Điều 588], quy định về thời hiệu khởi kiện
về thừa kế [15, Điều 623]. Tuy nhiên, việc áp dụng quy định về thời hiệu khởi kiện
đối với các vụ án KDTM không chỉ dựa trên các quy định của BLDS mà còn phải
dựa vào các quy định pháp luật chuyên ngành. Ví như:
- Thời hiệu khởi kiện áp dụng đối với các tranh chấp thương mại là 02 năm,
kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm [12, Điều 319]. Thời hiệu
để khách hàng khởi kiện thương nhân kinh doanh dịch vụ logistic là 09 tháng kể từ
ngày giao hàng [12, điểm e khoản 1 Điều 237].
- Thời hiệu khởi kiện về hợp đồng bảo hiểm là ba năm, kể từ thời điểm phát
sinh tranh chấp [10, Điều 30].
- Thời hiệu khởi kiện về tổn thất chung trong hàng hải là 02 năm kể từ ngày
xảy ra tổn thất chung [17, Điều 297]. Thời hiệu khởi kiện liên quan đến hợp đồng
bảo hiểm hàng hải là 02 năm kể từ ngày phát sinh tranh chấp [17, Điều 366].
Năm là sự khác nhau về thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự và vụ
án KDTM. Thời hạn chuẩn bị xét xử đối với vụ án dân sự và vụ án KDTM theo thủ
tục sơ thẩm là không giống nhau (trừ trường hợp các vụ án được xét xử theo thủ tục
rút gọn hoặc vụ án có yếu tố nước ngồi). Cụ thể như sau:
- Đối với các vụ án dân sự thì thời hạn chuẩn bị xét xử là 04 tháng, kể từ
ngày thụ lý vụ án. Trường hợp vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả
kháng, trở ngại khách quan thì Chánh án Tịa án có thể quyết định gia hạn thời hạn
chuẩn bị xét xử nhưng không quá 02 tháng [16, đểm a khoản 1 Điều 203].
15
- Đối với các vụ án KDTM thì thời hạn là 02 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.
Trường hợp vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại
khách quan thì Chánh án Tịa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử
nhưng không quá 01 tháng [16, điểm b khoản 1 Điều 203].
Sự khác biệt trong quy định của BLTTDS về thời hạn chuẩn bị xét xử đối
với vụ án KDTM và vụ án dân sự như trên, xuất phát từ sự khác nhau trong bản
chất của quan hệ pháp luật KDTM và quan hệ pháp luật dân sự. “Sở dĩ phải làm
như vậy vì đối với doanh nghiệp thời gian là tiền bạc, là cơ hội kinh doanh, là sự
phát triển của nền kinh tế của đất nước, của xã hội, không thể để doanh nghiệp phải
mất quá nhiều thời gian cho một vụ kiện” [7]. Trong khi các quan hệ dân sự mang
tính ổn định, lâu dài (như quan hệ pháp luật về thừa kế, quan hệ về quyền sở hữu tài
sản), thì các quan hệ KDTM thường mang tính “vụ việc”, được xác lập từ các hoạt
động KDTM hàng ngày của các chủ thể kinh doanh như quan hệ hợp đồng mua
bán, hợp đồng vận chuyển… Hơn thế nữa, trong xu thế toàn cầu hóa về kinh tế, các
quan hệ KDTM có yếu tố nước ngoài ngày càng trở lên phổ biến, việc giải quyết
các tranh chấp KDTM nhanh chóng, hiệu quả theo thơng lệ chung của các quốc gia
trên thế giới cũng góp phần thu hút và làm tăng sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư
trong và ngoài nước.
Sáu là sự khác biệt trong việc áp dụng pháp luật để giải quyết nội dung vụ
án. BLDS được xem là luật chung điều chỉnh tất cả các quan hệ dân sự, luật khác có
liên quan đến điều chỉnh quan hệ dân sự trong các lĩnh vực cụ thể không được trái
với các nguyên tắc cơ bản của BLDS [15, Điều 4]. Các quy định trong BLDS là các
quy định mang tính nền tảng, điều chỉnh các quan hệ pháp luật dân sự hiểu theo
nghĩa rộng. Tuy nhiên, BLDS không thể bao quát hết các đặc trưng riêng của từng
loại quan hệ pháp luật dân sự cụ thể, do đó, để điều chỉnh các quan hệ pháp luật
KDTM, bên cạnh BLDS được coi là “luật chung”, cịn có các quy định pháp luật
“chun ngành” khác điều chỉnh đối với từng hoạt động KDTM cụ thể như: Luật
Doanh nghiệp, Luật Thương mại, Luật Đầu tư, Luật Cạnh tranh, Luật Kinh doanh
bất động sản, Luật Chứng khốn, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Kinh doanh bảo hiểm,
16
Luật Xây dựng, Luật Quản lý ngoại thương, Luật các tổ chức tín dụng…và các văn
bản hướng dẫn thi hành các luật này. Khi giải quyết các tranh chấp KDTM, Tịa án
khơng chỉ căn cứ vào các quy định trong BLDS mà còn phải căn cứ vào các quy
định pháp luật chuyên ngành trong từng lĩnh vực KDTM cụ thể.
Trong trường hợp các bên khơng có thoả thuận và pháp luật khơng quy định
thì áp dụng tập qn [15, Điều 5]. Tuy nhiên, việc áp dụng tập quán khi giải quyết
các vụ án KDTM và vụ án dân sự cũng có sự khác biệt nhất định. Tập quán hiểu
theo nghĩa chung là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng để xác định quyền, nghĩa vụ
của cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự cụ thể, được hình thành và lặp đi lặp
lại nhiều lần trong một thời gian dài, được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong một
vùng, miền, dân tộc, cộng đồng dân cư hoặc trong một lĩnh vực dân sự [15, khoản 1
Điều 5]. Trong khi các tập quán trong lĩnh vực dân sự (hiểu theo nghĩa hẹp) được
hình thành trong cộng đồng dân cư, phát sinh từ các quan hệ trao đổi, mua bán…
của những người dân thơng thường thì tập qn thương mại là thói quen được thừa
nhận rộng rãi trong hoạt động thương mại trên một vùng, miền hoặc một lĩnh vực
thương mại, có nội dung rõ ràng được các bên thừa nhận để xác định quyền và
nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại [12, khoản 4 Điều 3].
Trường hợp các tranh chấp phát sinh từ quan hệ dân sự mà các bên khơng
có thoả thuận, pháp luật khơng có quy định và khơng có tập qn được áp dụng thì
áp dụng quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự. Trường hợp
không thể áp dụng tương tự pháp luật thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp
luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng [15, Điều 6].
Đối với việc áp dụng án lệ, cho tới thời điểm hiện nay, Hội đồng Thẩm
phán TAND tối cao đã ban hành 37 án lệ có hiệu lực để phục vụ cho cơng tác xét xử
các vụ án hình sự, vụ án hành chính và vụ án dân sự nói chung. Trong tổng số 37 án
lệ đã có hiệu lực, có 20 án lệ dân sự (án lệ số 02, 04, 05, 06, 07, 14, 15, 16, 22, 23,
24, 25, 26, 27, 31, 32, 33, 34, 35, 36) chủ yếu về các tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, tranh chấp về thừa kế tài sản, tranh chấp về quyền sở
hữu nhà, yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tranh chấp hợp
17
đồng đặt cọc… Các án lệ KDTM gồm có 07 án lệ (án lệ số 08, 09, 11, 12, 13, 21,
37) về hợp đồng tín dụng, hợp đồng mua bán hàng hóa và hợp đồng bảo hiểm.
Cuối cùng là sự khác biệt về mức thu án phí Tịa án khi giải quyết vụ án
dân sự và vụ án KDTM. Theo quy định tại Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, mức thu án phí Tịa án đối với
tranh chấp KDTM cao hơn so với mức thu án phí Tịa án đối với tranh chấp dân sự.
Án phí dân sự sơ thẩm đối với tranh chấp về dân sự khơng có giá ngạch là 300.000
đồng, trong khi đó, án phí sơ thẩm đối với tranh chấp về kinh doanh, thương mại
khơng có giá ngạch 3.000.0000 đồng. Đối với tranh chấp dân sự có giá ngạch, từ
6.000.000 đồng trở xuống là 300.000 đồng, trong khi đó, đối với tranh chấp KDTM
có giá ngạch, từ 60.000.000 đồng trở xuống là 3.000.000 đồng. Các mức phí tiếp
theo của án dân sự có giá ngạch với án KDTM có giá ngạch là giống nhau [28].
Như đã trình bày, nhiệm vụ, quyền hạn của KSV khi kiểm sát việc giải quyết
các vụ án dân sự cũng chính là các nhiệm vụ, quyền hạn của KSV khi kiểm sát việc
giải quyết các vụ án KDTM.
Từ những phân tích nêu trên, có thể rút ra kết luận: Thẩm quyền của Kiểm sát
viên tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án KDTM là tổng hợp các quyền năng pháp lý
theo quy định của pháp luật mà KSV được thực hiện để kiểm sát tính hợp pháp của
các quyết định, hành vi pháp lý của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và sự tuân
theo pháp luật của các tổ chức, cá nhân có liên quan trong quá trình xét xử sơ thẩm
vụ án KDTM, nhằm đảm bảo cho việc xét xử vụ án KDTM của Tòa án được kịp
thời, đúng pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân. Nhận thức đúng đắn về thẩm quyền của KSV (KSV chỉ được thực
hiện đúng quyền hạn được trao, mọi hành vi không thực hiện hoặc thực hiện khơng
đúng nhiệm vụ, quyền hạn của mình đều bị xem là hành vi trái pháp luật) - có mối
quan hệ chặt chẽ với kết quả thực hiện nhiệm vụ trong phạm vi thẩm quyền được
giao. Khi KSV nhận thức đúng đắn về nhiệm vụ, quyền hạn của mình sẽ là điều
kiện cần để thực hiện đúng thẩm quyền được trao. Ngược lại, khi KSV không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng quyền hạn như sử dụng quyền hạn trái pháp luật
18
hay lẩn tránh thực hiện nghĩa vụ đều là hậu quả của một nhận thức khiếm khuyết về
nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
1.1.2. Vai trị của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm giải quyết các vụ án
kinh doanh thương mại
Trên thực tế, việc giải quyết một số vụ án dân sự cịn chưa thực sự bảo đảm
tính khách quan, gây khiếu kiện bức xúc, kéo dài, khiếu kiện đông người làm mất
ổn định trật tự xã hội. Thực tiễn xét xử các vụ án dân sự nói chung, xét xử các vụ án
KDTM nói riêng thời gian qua cho thấy, có một số bản án, quyết định của Tòa án
đã bị hủy, sửa, phải xét xử nhiều lần, địi hỏi phải có cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt
động xét xử của Tòa án, kiểm tra, giám sát các bản án, quyết định của Tịa án một
cách có hiệu quả. “Tiến độ giải quyết các vụ việc dân sự còn chậm, chất tương xét
xử các vụ án dân sự cịn thấp... trong đó có ngun nhân là chưa có cơ chế giám sát
kiểm sát có hiệu quả việc giải quyết các vụ án dân sự” [1]. Vì vậy, việc xác định
đúng đắn vị trí, vai trị kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự của VKSND
trong tố tụng dân sự là điều cần thiết.
Xuất phát từ bản chất, đặc điểm của hoạt động tư pháp là hoạt động thực hiện
quyền lực Nhà nước, hoạt động này cần thiết và phải chịu sự kiểm tra, giám sát,
kiểm soát chặt chẽ của nhiều cơ chế khác nhau, đặc biệt là phải thiết lập cho được
cơ chế giám sát trực tiếp, thường xun, có tính chun nghiệp cao. Hiến pháp đã
giao cho VKSND thẩm quyền kiểm sát các hoạt động tư pháp để chế ước, giám sát
quyền lực, tăng thêm tính minh bạch trong các hoạt động tư pháp, bảo vệ pháp chế
cũng như quyền lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức [3, tr.10].
Phiên tòa sơ thẩm được xem là giai đoạn tố tụng quan trọng nhất của giai
đoạn xét xử sơ thẩm và q trình tố tụng dân sự [5, tr.37]. Lí do là bởi, tại phiên tòa
sơ thẩm, Tòa án nhân dân xem xét và giải quyết tất cả các yêu cầu hợp pháp của
đương sự. Tại phiên tòa sơ thẩm, HĐXX phải xem xét, đánh giá toàn bộ nội dung
vụ án, trực tiếp nghe các đương sự và những người tham gia tố tụng khác trình bày
ý kiến, đánh giá tính hợp pháp của các tài liệu, chứng cứ. Chất lượng giải quyết
tranh chấp KDTM tại Tòa án phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động xét xử tại phiên tòa
19
sơ thẩm. Chính vì vậy, để kịp thời phát hiện và khắc phục sai sót, vi phạm của Tịa
án, cần phải có sự có mặt của KSV trong phiên tịa sơ thẩm xét xử vụ án KDTM nói
riêng và phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án dân sự (hiểu theo nghĩa rộng) nói chung.
Hoạt động kiểm sát xét xử vụ án KDTM của VKSND là hoạt động giám sát,
kiểm sát sự tuân theo pháp luật của chủ thể tiến hành tố tụng và sự chấp hành pháp
luật các chủ thể tham gia tố tụng theo quy định của BLTTDS. Đây là hình thức thực
hiện quyền lực nhà nước đã được Hiến pháp và BLTTDS quy định cho VKSND.
Trên cơ sở đó, vai trị của KSV khi tham gia phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án
KDTM được thể hiện ở những điểm dưới đây:
- Kiểm sát sự tuân thủ pháp luật của HĐXX, Thư ký phiên tòa và việc chấp
hành pháp luật của những người tham gia tố tụng, gớp phần bảo vệ pháp chế xã hội
chủ nghĩa. VKS kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện
các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo
đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật [16, Điều 21]. Sự
tham gia của KSV tại phiên tịa sơ thẩm xét xử vụ án KDTM đóng vai trò quan
trọng trong việc bảo đảm thực thi đúng pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Hoạt động kiểm sát của KSV tại phiên tòa được diễn ra liên tục từ khi khai
mạc phiên tòa cho đến khi tuyên án, thể hiện bằng phương thức kiểm sát trực tiếp
[19, tr.12]. KSV kiểm sát thành phần HĐXX, Thư ký phiên tòa và tư cách tố tụng
của những người tham gia tố tụng, kiểm sát quá trình xét xử của HĐXX,… kịp thời
đưa ra các kiến nghị những người tiến hành tố tụng những vi phạm về nguyên tắc,
trình tự tiến hành tố tụng, qua đó, loại trừ các vi phạm pháp luật của những người
tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng tại phiên tịa.
Bên cạnh đó, căn cứ vào kết quả nghiên cứu hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên
tòa và căn cứ vào các quy định pháp luật, KSV kiểm sát kết quả giải quyết vụ án
của Tòa án. Trong trường hợp phán quyết của Tòa án là chưa đúng với bản chất
thực sự của tranh chấp, việc đối chiếu kết quả nghiên cứu hồ sơ, theo dõi, ghi chép
diễn biến phiên tòa và bản án giúp cho KSV đưa ra quyết định báo cáo Lãnh đạo