Tải bản đầy đủ (.docx) (81 trang)

Giám sát của mặt trận tổ quốc việt nam từ thực tiễn thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.6 KB, 81 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
------------

TRẦN THỊ PHƯƠNG HUYÊN

GIÁM SÁT CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
------------

TRẦN THỊ PHƯƠNG HUYÊN

GIÁM SÁT CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chun Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8.38.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học
PGS.TS. NGUYỄN THỊ VIỆT HƯƠNG


HÀ NỘI, 2020


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của tôi. Kết quả nghiên
cứu luận văn chưa được cơng bố dưới bất cứ hình thức nào. Luận văn đã kết thừa
các kết quả nghiên cứu của một số nghiên cứu khác dưới hình thức trích dẫn.
Các trích dẫn đã được liệt kê trong danh mục tìa liệu tham khảo của luận văn.
Người viết

Trần Thị Phương Huyên


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ HOẠT
ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM.................7
1.1. Đặc điểm, bản chất và vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam .. 7

1.2. Chủ thể, đối tượng, nội dung, hình thức giám sát của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam.........................................................................................................10
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam.................................................................................................................18
Chương 2: THỰC TRẠNG GIÁM SÁT CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC
VIỆT NAM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.................24
2.1. Các yếu tố đặc thù ảnh hưởng đến giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh......................................................24
2.2. Thực tiễn giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trên địa bàn thành

phố Hồ Chí Minh............................................................................................ 32
2.3. Đánh giá chung về giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh.................................................................................. 49
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIÁM SÁT CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.................................................................... 58
3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh...............................................58
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ
thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh................................................................... 62
KẾT LUẬN....................................................................................................70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vai trị giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các đồn thể chính trị - xã hội tại Việt Nam đã được Hiến pháp năm 2013 quy
định rõ ràng và minh bạch, đặc biệt đã được Đảng cụ thể hóa bằng trong
đường lối, chủ trương: “Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các đồn thể chính trị - xã hội” (Ban hành kèm theo
Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12-12-2013, của Bộ Chính trị) [9] và “Quy
định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và
nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền” (Ban hành
kèm theo Quyết định số 218-QĐ/TW, ngày 12-12-2013, của Bộ Chính trị)
[10], cùng với việc Quốc hội ban hành Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm
2015,... là những quy định rất quan trọng, mở ra một bước ngoặt lớn trong
nhận thức về giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong
hệ thống chính trị cũng như trong xã hội.
Hệ thống giám sát của nhân dân ở nước ta có nhiều chủ thể trong đó

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trị đặc biệt quan trọng. Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định vai trò rất quan
trọng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức
liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị
- xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp
xã hội, các dân tộc,tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài…”[16].
Nhiệm vụ giám sát của Mặt trận đã được Đảng nêu ra tại Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và được cụ thể ở
nhiều Nghị quyết của Đảng từ khoá VII, VIII, IX, X, XI, XII; được thể chế
trong Hiến pháp năm 2013 và hơn 50 văn bản quy phạm pháp luật. Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam với việc thực hiện tốt vai trò và trách nhiệm
1


này chính là góp phần củng cố chính quyền nhân dân, bảo vệ Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa do nhân dân bầu ra. Như vậy, chức năng giám sát xã
hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được khẳng định nhất quán trong văn kiện
cao nhất của Đảng và trở thành mục tiêu, phong trào hành động thực tế của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam trong nhiều năm qua cho thấy hiệu quả của việc giám sát chưa cao;
Mặt trận Tổ quốc chưa phát huy triệt để vai trò trong việc nâng cao quyền làm
chủ của nhân dân. Trong tình hình dân chủ hoá xã hội, xuất phát từ nguyên tắc
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, giám sát của Mặt trận Tổ quốc là đòi
hỏi cấp bách và tất yếu. Trên cơ sở đó xây dựng nền hành chính trong sạch,
vững mạnh, tinh gọn và thuận tiện tránh thực trạng mất dân chủ, cửa quyền,
lạm quyền, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu nhân dân của một số
cơ quan, cán bộ, cơng chức nhà nước. Trong q trình hội nhập ở nước ta hiện
nay, hơn bao giờ hết cần phải chú trọng nâng cao chức năng giám sát của Mặt
trận tổ quốc ở các cơ sở đặc biệt là một đơ thị lớn như thành phố Hồ Chí

Minh. Mặt khác, trong tình hình thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung,
dân chủ hiện nay, xuất phát từ nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân, giám sát và phản biện của Mặt trận Tổ quốc tại Thành phố Hồ Chí Minh
là địi hỏi cấp bách và tất yếu. Trên cơ sở đó, các cấp chính quyền trên địa bàn
thành phố triển khai xây dựng nền hành chính của Thành phố trong sạch,
vững mạnh, tinh gọn, hiệu quả và thuận tiện tránh thực trạng mất dân chủ, cửa
quyền, lạm quyền, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu nhân dân của
một số cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước.
Những cơng trình khoa học về hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh đã được nhiều nhà nghiên cứu thực
hiện nhưng đến nay vẫn chưa có một nghiên cứu nào cụ thể về giám sát và
2


phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh. Từ
những căn cứ và lý do trên, tác giả chọn đề tài “Giám sát của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” làm luận văn Thạc sỹ
Luật, chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các cơng trình nghiên cứu về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam bắt đầu được
chú trọng kể từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991). Đáng chú ý
trong các đề tài nghiên cứu về Mặt trận Tổ quốc gần đây là đề tài KX.10.03:
“Mơ hình đổi mới,hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị giai đoạn 2010
-

2015” do Tiến sĩ Thang Văn Phúc (Bộ Nội Vụ) làm chủ nhiệm nghiệm thu

vào tháng 8/2009.
Những nghiên cứu sớm nhất là các tham luận tại Hội thảo về giám sát

của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 1997.
Luận án Tiến sĩ và luận văn Thạc sĩ: Luận án Tiến sĩ Chính trị học:
“Thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam hiện nay”, của Nguyễn Thọ Ánh (2010); Luận văn Thạc sĩ Luật:
“Giám sát xã hội đối với quyền lực Nhà nước ở Việt Nam” của Nguyễn Long
Hải (2016), Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Luận văn Thạc sĩ
Chính trị học:“Thực hiện chức năng giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước ở nước ta hiện nay” của Nguyễn
Văn Thanh (2013); Luận văn Thạc sĩ về “Hoạt động giám sát, phản biện xã
hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện Châu Thành, Tỉnh Tiền Giang” của
Trần Văn Thi (năm 2018), Học viện khoa học xã hội….
Nhìn chung các cơng trình, đề tài, bài viết nêu trên đều đề cập đến vấn
đề giám sát xã hội, giám sát của nhân dân, hoạt động giám sát của Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đối với Đảng và Bộ máy Nhà nước. Nhưng
3


chưa có cơng trình nghiên cứu khoa học nào đề cập chuyên sâu, có hệ thống
về giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí
Minh cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát đó. Tiếp thu những kết
quả nghiên cứu của các tác giả nêu trên, đề tài luận văn này cũng phát triển
trên cơ sở kế thừa các cơng trình đi trước ở một số vấn đề tập trung nghiên
cứu giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay theo
quy định của pháp luật hiện hành.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận, đánh giá thực tiễn, qua đó
đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam tại thành phố Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ
sau:
+

Nghiên cứu làm rõ khái niệm, nội dung, vai trò giám sát của Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam
+

Phân tích, đánh giá cụ thể thực trạng hoạt động giám sát của Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh thời gian qua; làm rõ
những hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra cần phải giải quyết.
+ Đề xuất quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám
sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nói
riêng, trên địa bàn các tỉnh, thành khác ở Việt Nam nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4


-

Phạm vi nội dung: Luận văn tìm hiểu các văn bản liên quan đến chủ

trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật Nhà nước về hoạt động
giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh.
Thực tiễn và yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động giám sát của Ủy ban

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh.
-

Phạm vi thời gian: Các dữ liệu được phân tích trong luận văn được

lấy từ năm 2016 đến tháng 6/2020.
-

Phạm vi khơng gian: Trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn vận dụng quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nước và pháp luật, về dân chủ, về kiểm soát quyền lực; quan
điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, về vai trò của nhân dân, của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các đồn thể chính trị - xã hội trong việc giám sát hoạt động bộ máy
Đảng và nhà nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài tác giả sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể: phân tích, tổng hợp, hệ thống, so sánh, lơgíc,
lịch sử và phương pháp luật học so sánh để hệ thống hóa các vấn đề lý luận,
phan tích và làm sáng tỏ các nội dung nghiên cứu. Bên cạnh đó, các phương
pháp cịn được vận dụng để so sánh các trường hợp điểm hình để làm cơ sở
đánh giá thực tiễn và đề xuất giải pháp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần xây dựng hệ thống lý
luận về việc đổi mới nhận thức về vai trò và phương thức hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam đặc biệt là hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc
5



Việt Nam; tăng cường hiệu lực, hiệu quả giám sát của nhân dân; khắc
phụcnhững hạn chế, bất cập trong hoạt động thực tiễn thời gian qua.
Đồng thời luận văn có thể dùng làm nguồn tài liệu tham khảo phục vụ
nghiên cứu, công tác giảng dạy, làm tài liệu cho cán bộ dân vận, cán bộ Mặt
trận và các đoàn thể trong việc thực hiện hoạt động giám sát xã hội; tổng kết
thực tiễn liên quan đến giám sát của nhân dân đối với hoạt động quản lý hành
chính nhà nước.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được
kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về giám sát của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam;
Chương 2: Thực trạng giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh;
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả giám sát của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG
GIÁM SÁT CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
1.1. Đặc điểm, bản chất và vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam
1.1.1. Đặc điểm giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Trong hệ thống chính trị của nước ta có hai loại giám sát: giám sát
mang tính quyền lực – giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước, đảng và

giám sát xã hội – giám sát nhân dân. Trong các nội dung của văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã đưa ra nhiệm vụ “kết hợp giám sát
trong Đảng với giám sát Nhà nước và giám sát của nhân dân”. Đảng Cộng sản
Việt Nam mặc dù là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tuy nhiên là
một Đảng cầm quyền là chủ thể xây dựng nên cơ cấu, tổ chức bộ máy, lãnh
đạo toàn diện Nhà nước do đó khơng được coi là giám sát xã hội. Với hoạt
động giám sát của mình, Đảng ngăn ngừa, hạn chế đảng viên vi phạm Điều lệ
đảng, các nguyên tắc tổ chức của Đảng, do đó việc giám sát xã hội, Đảng giao
Mặt trận tổ quốc Việt Nam để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
Ngồi giám sát của Đảng, giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các
cấp là giám sát quyền lực. Ở nhà nước ta tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc
về nhân dân, nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và
Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của
nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là giám sát mang
tính nhân dân, hỗ trợ cho công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra của Nhà nước;
góp phần trong cơng tác xây dựng đảng, xây dựng chính quyền trong sạch,
vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; bảo vệ quyền và lợi ích chính
7


đáng của nhân dân. Hình thức giám sát có sự tham gia rộng rãi của tồn bộ xã
hội mà nịng cốt là một số tổ chức của nhân dân, do nhân dân lập nên và ủy
nhiệm. Phương thức giám sát xã hội được thực hiện trước tiên, thông qua các
tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của nhân dân (Mặt trận tổ quốc Việt Nam,
các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội, …) bằng hình thức giám sát gián tiếp
hoặc trực tiếp của mỗi công dân.
1.1.2. Bản chất giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam Có nhiều quan điểm khác nhau về giám sát của
MTTQ:

Theo khoản 1, điều 2 của Luật Giám sát của Quốc Hội và Hội đồng
nhân dân: “Giám sát là việc chủ thể giám sát theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt
động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân theo
Hiến pháp và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xử
lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý”.
Theo khoản 1, Điều 25, Luật Mặt trận Tổ quốc 2015 thì “Giám sát của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là việc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các
cấp trực tiếp hoặc đề nghị các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam theo dõi, xem xét, đánh giá, kiến nghị đối với hoạt động của cơ quan, tổ
chức, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện
chính sách, pháp luật” [38].
1.1.3. Vai trị giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc, nhân dân vừa có quyền giám sát
trực tiếp vừa giám sát thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cụ thể là các cơ
quan do Mặt trận Tổ quốc lập ra từ Trung ương đến địa phương, các tổ chức
chính tri, tổ chức chính trị - xã hôi, các cá nhân tiêu biểu là thành viên của
Mặt trận Tổ quốc các cấp. Qua thực tiễn hoạt động, giám sát của Mặt trận Tổ
quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân được hiểu là việc xem xét,
phát hiện, kiến nghị với cơ quan tổ chức Đảng, Nhà nước có thẩm quyền xem
8


xét, xử lý đảm bảo quyền lợi của người dân được đảm bảo theo đúng chính
sách, pháp luật nhà nước.
Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội
là một trong những hình thức của cơ chế kiểm soát quản lý nhà nước. Đó là
hoạt động theo dõi, quan sát, xem xét của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội nhằm tác động, định hướng các đối tượng bị giám sát thực
hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật. Khác với cơ chế
kiểm soát quyền lực bên trong bộ máy nhà nước, hậu quả pháp lý trong cơ chế

pháp lý kiểm soát quyền từ bên ngồi khơng có tính cưỡng chế nhà nước mà
kết quả kiểm soát được thể hiện dưới dạng kiến nghị hoặc thông qua dư luận
xã hội, gửi “thông điệp” đến cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền để xử lý
đối với cán bộ, công chức, viên chức, các cơ quan nhà nước có hành vi vi
phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ.
Trong xu hướng ngày càng phát triển để hội nhập quốc tế, hướng tới
nhà nước ta xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, công tác giám
sát xã hội càng thể hiện tầm quan trọng để Nhà nước kịp thời điều chỉnh trong
qua trình xây dựng và thực thi pháp luật. Mặt khác, qua hoạt động giám sát
cũng nâng cao vai trò trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc tham gia
quản lý nhà nước và xã hội, ngăn ngừa, phòng chống các biểu hiện lạm dụng
quyền lực nhà nước dẫn tới xâm phạm đến lợi ích của nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân.
Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tuy khơng mang tính quyền
lực, nhưng có tác dụng giáo dục, phịng ngừa, góp phần ngăn chặn có hiệu
quả vi phạm pháp luật và kỷ luật nhà nước. Trong quá trình giám sát các nhận
xét, kiến nghị xác đáng của nhân dân do Mặt trận Tổ quốc tổng hợp được các
cơ quan nhà nước tiếp thu sẽ là cơ sở quan trọng để hoàn thiện pháp luật về
giám sát của nhân dân. Mặc khác, khi nghiên cứu các quy định 124-QĐ/TW
9


ngày 02/02/2018 của Ban chấp hành Trung ương về hoạt động này cho thấy
“giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và
nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng
đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên” qua đó giám sát của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam góp phần xây dựng cán bộ chủ chốt, đội ngũ cán bộ, cơng
chức có đạo đức lối sống tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng.
Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được đánh giá là góp phần
bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, nhân dân

lao động. Thông qua giám sát của Mặt trận Tổ quốc giúp cho trật tự, kỷ cương
của cơ quan nhà nước được thiết lập và tuân thủ chặt chẽ theo pháp luật đồng
thời càng nâng cao vai trò của các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội...
1.2. Chủ thể, đối tượng, nội dung, hình thức giám sát của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam
1.2.1. Chủ thể giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
* Về cơ cấu của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận
được Hiến pháp năm 2013 quy định như sau:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ thức liên minh chính trị, liên hiệp tự
nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và
các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo,
người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở
chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện
xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp
phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [37].
10


Cơng đồn Việt Nam, Hội nơng dân Việt Nam, Đồn Thanh niên cộng
sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt
Nam là các tổ thức chính trị - xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại
diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ
chức mình; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống
nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam [37].
* Về tổ chức của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Theo quy định tại Điều 6, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thì Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam được tổ chức ở Trung ương và các đơn vị hành chính, Ủy

ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ quan chấp hành giữa hai kỳ đại hội của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, có trách nhiệm tổ chức thực hiện nhiệm vụ của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam [38].Cụ thể:
-

Ở trung ương có Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,

Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Ban
Thường trực Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
- Ở địa phương có Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh); Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và đơn vị hành chính
tương đương (sau đây gọi chung là cấp huyện); Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã).
* Về mối quan hệ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với các tổ chức
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không giống với các tổ chức khác là trực
tiếp tập hợp hội viên, đoàn viên để hình thành tổ chức của mình, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam mang tính chất một tổ chức liên minh, liên hiệp bao gồm các
tổ chức và các cá nhân tiêu biểu của các giai cấp, các dân tộc, các tơn giáo và
người Việt Nam ở nước ngồi. Đặc điểm này của giám sát của Mặt trận Tổ
11


quốc Việt Nam quy định nguyên tắc hoạt động cơ bản của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam là hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động [20].
-

Mối quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Đảng Cộng sản

Việt Nam: Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo

Mặt trận.
Là thành viên, Đảng tham gia Mặt trận như mọi thành viên khác. Đảng
thực hiện tốt vai trò, nhiệm vụ và các hoạt động của tổ chức mình trong
chương trình thống nhất hành động của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
cùng cấp. Đại diện cấp uỷ đảng trong Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc có trách
nhiệm tham gia sinh hoạt đầy đủ, thực hiện hiệp thương dân chủ và phối hợp
thống nhất hành động. Cấp uỷ đảng phải giáo dục, yêu cầu đảng viên của
mình gương mẫu thực hiện chương trình hành động chung đã được các tổ
chức thành viên thoả thuận và tích cực tham gia cơng tác Mặt trận.
-

Cơ quan nhà nước có trách nhiệm xem xét, giải quyết và trả lời những

kiến nghị của Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam theo quy định pháp luật. [45].
-

Quan hệ giữa Ủy ban Mặt trận Tổ quốc với Nhân dân: Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng cho
các tầng lớp Nhân dân, mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp đoàn
kết Nhân dân, động viên, hỗ trợ Nhân dân thực hiện dân chủ, quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Nhân dân tham gia vào tổ
chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc thông qua các tổ chức thành viên của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cá nhân tiêu biểu là Ủy viên Mặt trận Tổ quốc
các cấp…; tham gia ý kiến, phản ánh, kiến nghị với Mặt trận Tổ quốc những
vấn đề nhân dân quan tâm để phản ánh, kiến nghị với Đảng, Nhà nước; giám
sát hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện đầy đủ quyền và trách
nhiệm theo quy định của pháp luật. (điều 8 – Luật Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam) [45]
12



-

Quan hệ giữa Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc với các tổ chức thành viên

cùng cấp: Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc mỗi cấp chủ trì việc hiệp thương dân chủ
giữa các thành viên để bàn bạc thực hiện những vấn đề quan trọng của đất
nước, của địa phương, của cuộc sống nhân dân, phối hợp xây dựng chương
trình hành động chung và cùng nhau thực hiện chương trình thống nhất hành
động đó.
Tóm lại, chủ thể giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam gồm có các
tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, các tổ chức xã hội, và các cá nhân
tiêu biểu là thành viên của Mặt trận. Các chủ thể trên đều có đặc điểm chung
là bên ngồi nhà nước, khơng mang tính quyền lực nhà nước và do tính chất là
những cơ cấu, tổ chức thiết chế thuộc về xã hội mang tính nhân dân nên giám
sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng chính là giám sát của nhân dân.
1.2.2. Đối tượng giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Theo quy định tại khoản 1, Điều 26, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
năm 2015 thì “Đối tượng giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ quan
nhà nước, tổ chức, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức, viên chức” [38].
Theo Quyết định 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Ban chấp hành
Trung ương “về việc ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đồn thể chính trị - xã hội” quy định rõ hơn về
đối tượng giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam gồm các cơ quan, tổ chức
từ Trung ương đến cơ sở; cán bộ, đảng viên đại biểu dân cử, công chức, viên
chức nhà nước. Trong đó “cơ quan, tổ chức” ở đây là cấp ủy, tổ chức đảng, cơ
quan đảng, cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp. [10]
Đối tượng giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam rất rộng không hạn
chế như giám sát của Đảng đối tượng chỉ giám sát đảng viên, hay giám sát của

Hội đồng nhân dân tập trung giám sát cơ quan dân cử, cơ quan nhà nước,
13


cá nhân …Do đặc điểm tính chất của Mặt trận Tổ quốc là đại diện bảo vệ
quyền lợi hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, kịp thời phát hiện và kiến nghị
xử lý sai phạm, khuyết điểm; phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, góp
phần xây dựng đảng, xây dựng chính quyền nên đối tượng giám sát của Mặt
trận Tổ quốc đa dạng từ tổ chức chính trị đến các cơ quan lập pháp, hành
pháp, tư pháp, đại biểu dân cử, cán bộ công chức, viên chức, các doanh
nghiệp…nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, nâng cao năng lực, sức
chiến đấu của đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền.
1.2.3. Nội dung giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Theo khoản 2, điều 5, Quyết định 217-QĐ/TW, nội dung giám sát là
việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
nhà nước (trừ những vấn đề thuộc bí mật quốc gia) của cơ quan, tổ chức và cá
nhân.[9]
Trong hệ thống chính trị nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm
quyền, Đảng đưa ra những chủ trương, đường lối chung để định hướng đất
nước phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; giám sát người đứng đầu,
cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo
đức, lối sống góp phần xây dựng đảng, xây dựng chính quyền, những người
được nhân dân tin tưởng, giao phó việc thực hiện quyền lợi của mình. Trên cơ
sở định hướng của Đảng, Nhà nước cụ thể hóa việc quản lý xã hội bằng pháp
luật, giao quyền cho các cơ quan nhà nước tổ chức thực thi pháp luật. Do đó
nội dung giám sát của Mặt trận Tổ quốc được bao trùm hơn từ việc hoạch
định đường lối, chính sách, việc thực thi pháp luật …. để đảm bảo quyền và
lợi ích chính đáng của Nhân dân được thực hiện đúng.
Khác với nội dung giám sát của Đảng, hay giám sát của cơ quan quyền
lực nhà nước (Quốc hội và hội đồng nhân dân). Giám sát của tổ chức đảng chỉ

giám sát đảng viên về chấp hành Điều lệ đảng, công tác tổ chức, sinh hoạt
14


đảng, tính chấp hành, đạo đức lối sống của người đảng viên. Đối với giám sát
của Quốc hội, Hội đồng nhân dân được quy định bằng Luật giám sát của
Quốc hội và Hội đồng nhân dân, nội dung việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật
của các cơ quan nhà nước; do đặc điểm giám sát của Quốc hội và Hội đồng
nhân dân là giám sát quyền lực nhà nước nên thông qua nội dung giám sát,
kiến nghị, yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền sửa đổi, bổ
sung, đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm
pháp luật; kiến nghị cơ quan tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết những
vấn đề liên quan đến chủ trương, chính sách, pháp luật, lợi ích hợp pháp của
cơng dân; đề nghị bãi nhiệm, miễn nhiệm các chức danh do Quốc hội và Hội
đồng nhân dân bầu. Đối với Mặt trận Tổ quốc, tuy không phải là giám sát
quyền lực như Quốc hội và Hội đồng nhân dân, tuy nhiên thông qua nội dung
giám sát Mặt trận Tổ quốc có quyền kiến nghị với Thường trực Hội đồng
nhân dân cùng cấp bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do
Hội đồng nhân dân bầu.
1.2.4. Hình thức giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Căn cứ điều 27 – Luật Mặt Trận tổ quốc Việt Nam có bốn hình thức
giám sát: nghiên cứu, xem xét văn bản của cơ quan có thẩm quyền liên quan
đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tổ chức đồn giám
sát; thơng qua hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân được thành lập ở cấp xã,
Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng; tham gia giám sát với cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền.
(1) Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát bằng hình thức nghiên cứu,
xem xét văn bản của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền liên quan đến quyền và
lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân
Các loại văn bản được giám sát gồm: văn bản quy phạm pháp luật;

Nghị định của Chính phủ; Quyết định hành chính; Các chương trình mục tiêu
15


quốc gia, chương trình kinh tế - xã hội, dự án, đề án của cơ quan nhà nước…
liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân. Tùy quy
mơ, tính chất của hoạt động giám sát, Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam hoặc lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã hội có thể xây dựng kế
hoạch thực hiện.
Để bảo đảm hiệu quả giám sát văn bản, Ban thường trực Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam hoặc lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã hội phân cơng
các ban, đơn vị và cá nhân thuộc cơ quan, tổ chức mình thường xuyên theo
dõi, nghiên cứu, xem xét các văn bản do các cơ quan có thẩm quyền cùng cấp
ban hành có nội dung liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng
của Nhân dân. Qua nghiên cứu, xem xét, nếu phát hiện có dấu hiệu vi phạm
pháp luật, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân
dân, thì ban, đơn vị, cá nhân được phân cơng có trách nhiệm báo cáo, đề xuất
Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam kiến nghị cơ quan chức
năng xem xét lại và có báo cáo trả lời cụ thể.
Trường hợp cơ quan, tổ chức ban hành văn bản được giám sát không trả
lời hoặc không đồng ý với nội dung văn bản kiến nghị, thì Ban thường trực
Ủy ban Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam, lãnh đạo tổ chức chính trị - xã hội chủ trì
giám sát gửi văn bản kiến nghị lên cấp trên trực tiếp của cơ quan ban hành
văn bản được giám sát đề nghị chỉ đạo việc xem xét, giải quyết. Trường hợp ý
kiến giữa cơ quan, tổ chức ban hành văn bản được giám sát và cơ quan chủ trì
giám sát khơng thống nhất, thì hai bên có thể tổ chức đối thoại để làm rõ.
(2) Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát bằng hình thức tổ chức đồn
giám sát
Thơng qua dư luận xã hội, các ý kiến của Nhân dân, cử tri, thơng tin
báo chí và giám sát thường xuyên của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức

thành viên; Mặt trận Tổ quốc rà sốt xây dựng chương trình giám sát hằng
16


năm và giám sát theo chuyên đề. Mặt trận Tổ quốc ban hành kế hoạch tổ chức
đoàn giám sát của cấp mình: các tổ chức chính trị - xã hội chủ trì xây dựng kế
hoạch tổ chức đồn giám sát theo đề nghị của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam cùng cấp; ban hành quyết định thành lập đoàn giám sát là những thành
viên, tổ chức có am hiểu về nội dung giám sát. Thông qua kết quả giám sát,
Mặt trận Tổ quốc gửi văn bản yêu cầu cá nhân, tổ chức được giám sát phải
đảm bảo thực hiện đúng quyền lợi cho nhân dân hoặc đề đạt ý kiến cơ quan có
thẩm quyền điều chỉnh nội dung văn bản quy phạm pháp luật có liên quan
nhằm khơng vi phạm quyền lợi chính đáng của nhân dân.
(3)

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát thông qua hoạt động của Ban

Thanh tra nhân dân được thành lập ở cấp xã, Ban Giám sát đầu tư của cộng
đồng
Ban Thanh tra nhân dân được thành lập, tổ chức và hoạt động theo
Nghị định 159/2016/NĐ-CP. Trình tự, thủ tục giám sát thơng qua hoạt động
của Ban Thanh tra nhân dân được thành lập ở cấp xã, Ban Giám sát đầu tư của
cộng đồng được thực hiện theo Điều 10, Điều 11 của Nghị quyết liên tịch
số

403/2017/NQLT-UBTVQH14-CP-ĐCTUBTWWMTTQVN,

ngày

15/6/2017 của UBTVQH, Chính phủ, Đồn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt

trận Tổ quốc Việt Nam quy định chi tiết các hình thức giám sát, phản biện xã
hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tại Thông tri hướng dẫn về tổ chức và
hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng
của Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam [66].
Vai trò Ban Thanh tra nhân dân giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật,
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh, việc thực hiện pháp luật
về dân chủ ở cơ sở của cơ quan, tổ chức, cá nhân, góp phần phát huy dân chủ,
đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, cơ quan, tổ chức, đơn vị. Ban Thanh tra nhân dân được
17


thành lập cấp xã, trong cơ quan, tổ chức; đây là đơn vị gần Nhân dân nhất nên
việc giám sát của Ban Thanh tra nhân dân sẽ góp phần phát huy dân chủ tại cơ
sở, tuy nhiên trong thực tế hoạt động giám sát Ban Thanh tra nhân dân rất hạn
chế do thanh viên Ban Thanh tra nhân dân số lượng có hạn là những cá nhân
ưu tú được giới thiệu nhưng chủ yếu là cán bộ hưu trí hoặc kiêm nhiệm, kinh
nghiệm và chuyên môn lĩnh vực giám sát còn hạn chế.
Ban giám sát đầu tư của cộng đồng do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam cấp xã thành lập và hoạt động trên cơ sở Nghị định 84/2015/NĐ-CP chủ
yếu giám sát phát hiện những thiếu sót, sai phạm trong q trình đầu tư, thi
cơng cơng trình; vi phạm về tiến độ, kế hoạch đầu tư; vi phạm quy trình, kỹ
thuật, chủng loại vật liệu xây dựng … để kịp thời phản ánh với đơn vị chịu
trách nhiệm thi công để khắc phục
(4)

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia giám sát với cơ quan, tổ chức

có thẩm quyền Đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị
-


xã hội được cử tham gia giám sát với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, có

trách nhiệm thực hiện theo quy định tại Điều 12, Điều 13 của Nghị quyết liên
tịch số 403/2017/NQLT-UBTVQH14-CP-ĐCTUBTWWMTTQVN. Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc thành phố đã xây dựng và chỉ đạo hệ thống Mặt trận cơ sở
xây dựng quy chế phối hơp giữa Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân, Ủy
ban mặt trận Tổ quốc trong công tác giám sát. Trên cơ sở quy chế, Mặt trận
Tổ quốc cử thành viên tham gia các đồn giám sát khi có yêu cầu của cơ quan
tổ chức, kể cả việc giám sát của Nhà nước.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam
1.3.1. Yếu tố nhận thức
Yếu tố này được thể hiện thông qua nhận thức của chủ thể giám sát và
đối tượng giám sát về vai trò và sự cần thiết của hoạt động giám sát của Mặt
18


trận Tổ quốc Việt Nam. Sự nhận thức của chủ thể và đối tượng giám sát được
thể hiện thông qua sự hiểu biết và thực hiện nghiêm túc quy định về giám sát
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Nếu sự nhận thức của chủ thể giám sát đúng
đắn và phù hợp với thực tiễn thì quá trình triển khai hoạt động giám sát của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với các hoạt động theo quy định nói chung và
hoạt động quản lý hành chính nhà nước nói riêng được triển khai đúng quy
định và mang lại những hiệu quả tốt theo mục đích giám sát ban đầu đề ra.
Ngược lại, nếu nhận thức của các đối tượng liên quan về hoạt động giám sát
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cịn hạn chế thì cơng tác triển khai sẽ gặp
nhiều khó khăn.
1.3.2. Yếu tố pháp lý
Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thực hiện

theo quy định của pháp luật, việc điều chỉnh công tác này được luật hóa trong
các văn bản luật cũng như các văn bản dưới luật nhằm hướng dẫn các chủ thể
thực hiện giám sát triển khai theo đúng quy định nhằm đạt đến mục đích của
hoạt động giám sát này. Thông qua hệ thống văn bản quản lý, hoạt động giám
sát của Mặt trận tổ quốc phải thực hiện đúng quy trình giám sát theo hướng
dẫn và gắn với điều kiện cụ thể của địa phương. Mặt trận tổ quốc các cấp xây
dựng chương trình giám sát với yêu cầu nhiệm vụ chính trị và thực tiễn địa
phương, báo cáo cấp ủy để lãnh đạo, chỉ đạo, thống nhất với chính quyền
cùng cấp và thực hiện hàng năm… Ngược lại, hệ thống cơ chế, chính sách và
văn bản pháp lý về hoạt động giám sát mà chưa hoàn thiện hoặc còn chồng
chéo sẽ tạo ra những rào cản mang tính pháp lý trong q trình triển khai các
nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam liên quan đến cơng tác giám sát nói
chung và giám sát hoạt động quản lý hành chính nhà nước nói riêng.
Kế thừa Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định
trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là đại diện, bảo vệ quyền và lợi
19


ích chính đáng của Nhân dân, giám sát và phản biện xã hội. Trong những năm
qua, các cấp Mặt trận từ trung ương đến cơ sở đã và đang thực hiện giám sát
hoạt động của các cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức, viên
chức trên cơ sở quy định của Hiến pháp và Luật Mặt trân Tổ quốc Việt Nam.
Triển khai cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp và pháp luật, Chính
phủ đã kịp thời ban hành nhiều văn bản hướng dẫn hình thành các cơ chế,
chính sách để Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ
chức xã hội khác hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ đã được Hiến pháp,
Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các luật có liên quan đã quy định. Trong 5
năm qua, Chính phủ đã ban hành 2 Nghị quyết liên tịch, 2 Quyết định, 6
Thông tư hướng dẫn... liên quan trực tiếp đến việc tổ chức và thực hiện các
nội dung, nhiệm vụ công tác của Mặt trận trong giai đoạn mới.

Hiện nay, Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành của Chính phủ đang
duy trì thực hiện 5 Quy chế phối hợp cơng tác, 26 chương trình phối hợp với
Đoàn Chủ tịch, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam; tham gia triển khai 12 chương trình giám sát về các lĩnh vực của đời
sống xã hội, góp phần tạo cơ chế, chính sách thuận lợi hơn để Mặt trận Tổ
quốc thực hiện đa dạng các phương thức vận động, tập hợp các tầng lớp nhân
dân góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước,
củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.
Nhằm phát huy hơn nữa sức mạnh đại đồn kết, nâng cao vai trị, trách
nhiệm, hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và để phù hợp với những yêu
cầu đặt ra trong tình hình mới đối với tổ chức Mặt trận, ngày 9/6/2015, Quốc
hội khóa XIII đã thơng qua Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (sửa đổi). Luật
này tiếp tục khẳng định và cụ thể hóa đầy đủ hơn vai trị, nhiệm vụ của Mặt
trận Tổ quốc, nhất là những quy định mới về các nhiệm vụ: đại diện, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; giám sát và phản biện
20


xã hội, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền… của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam. Với vai trò là luật khung, việc sửa đổi kịp thời Luật Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam có ý nghĩa quan trọng, tạo điều kiện cho tổ chức Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức thành viên thực hiện các nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
Đặc biệt, việc Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Đoàn Chủ tịch
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ký kết và ban hành Nghị
quyết liên tịch 403/2017/NQLT-UBTVQH14-CP-ĐCTUBTWMTTQVN quy
định chi tiết các hình thức giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng, góp phần tiếp tục cụ thể hóa về cơ
chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam [66].
1.3.3. Yếu tố nguồn lực
Chính vì vậy, đội ngũ cán bộ làm công tác giám sát được đào tạo bài

bản, có thái độ và nhận thức tốt về vai trị của công tác giám sát của Mặt trận
Tổ quốc đối với hoạt động quản lý hành chính nhà nước thì sẽ tạo ra những
tác động tích cực đến cơng tác giám sát. Trong quá trình giám sát Mặt trận Tổ
quốc đã phối hợp tốt với các tổ chức thành viên, các nhân sĩ trí thức, các cá
nhân tiêu biểu, các Hội đồng tư vấn để thực hiện công tác giám sát đạt hiệu
quả, công tác phối hợp tốt sẽ tạo động lực để hoạt động giám sát được triển
khai hiệu quả và nhanh chóng.
1.3.4. Yếu tố quản lý
Để hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được triển khai
hiệu quả theo đúng quy định của pháp luật thì cần một bộ máy quản lý tinh
gọn, hiệu quả với đội ngũ cán bộ đầy đủ năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo
đức. Hiện nay, quy định về cơ cấu tổ chức của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
được quy định tại Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015, Điều lệ tổ chức
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam … Công tác tổ chức cán bộ của
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên đã và đang được Đảng và nhà
21


×