Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Nâng cao vai trò giám sát và phản biện của mặt trận tổ quốc việt nam tại thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (465.29 KB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ HỒNG LOAN

NÂNG CAO VAI TRÒ GIÁM SÁT
VÀ PHẢN BIỆN CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ HỒNG LOAN

NÂNG CAO VAI TRÒ GIÁM SÁT
VÀ PHẢN BIỆN CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA
HỌC


TS. VŨ THỊ MAI OANH


HÀ NỘI - 2017


LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của Khoa Triết học, Học viện Khoa học xã hội và sự
đồng ý của Cô giáo hướng dẫn TS Vũ Thị Mai Oanh, tôi đã thực hiện đề tài
“Nâng cao vai trò giám sát và phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại
Thành phố Hồ Chí Minh”
Để hoàn thành luận văn này tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo
đã tận tình hướng dẫn, giảng dạy trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và rèn
luyện ở Học viện Khoa học xã hội
Xin chân thành cảm ơn Cô giáo hướng dẫn TS Vũ Thị Mai Oanhđã tận
tình, chu đáo hướng dẫn tôi thực hiện luận văn này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh nhất.
Song do buổi đầu mới làm quen với công tác nghiên cứu khoa học cũng như hạn
chế về kiến thức và kinh nghiệm nên không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất
định mà bản thân chưa thấy được. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của quý
Thầy, Cô giáo và các bạn đồng nghiệp để luận văn được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2017
Học viên

Trần Thị Hồng Loan


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,

kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả

Trần Thị Hồng Loan


MỤC LỤC
MỤC LỤC...............................................................................................................6
MỞ ĐẦU.................................................................................................................1

1. Tính cấp thiết của đề tài........................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài..................................................................2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.......................................................4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................................5
5. Phương pháp lý luận và phương pháp nghiên cứu...............................6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn............................................7
7. Cơ cấu của luận văn..............................................................................7
Chương 1.................................................................................................................8
GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI..................................................................8
CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN.....8

1.1. Vị trí, vai trò của Mặt trận tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính
trị...............................................................................................................8
1.1.1. Vị trí của Mặt trận tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị. .8
1.1.2. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam...................................12
1.2. Giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam...........15
1.2.1. Khái niệm giám sát xã hội và hoạt động giám sát xã hội của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam................................................................15
1.2.2. Khái niệm, chức năng, điều kiện nền tảng để hình thành phản

biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.......................................26
1.2.3. Mối quan hệ giữa giám sát xã hội và phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam.......................................................................33
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1.........................................................................34
Chương 2...............................................................................................................37
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ GIÁM SÁT, PHẢN
BIỆN XÃ HỘI CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM ...............................37
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY..................................................37

2.1. Thực trạng việc thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh.......................37
2.1.1. Quá trình triển khai thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã
hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh......37
2.1.2. Những thành công bước đầu khi thực hiện vai trò giám sát và
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại Thành phố Hồ
Chí Minh.............................................................................................43


2.1.3. Những hạn chế khi thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã
hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh......48
2.1.4. Nguyên nhân của những hạn chế khi thực hiện vai trò giám sát
và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại Thành phố Hồ
Chí Minh.............................................................................................53
2.2. Những vấn đề đặt ra trong quá trình hoạt động giám sát và phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh
................................................................................................................55
2.2.1. Công tác giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
còn mang tính hình thức.....................................................................55
2.2.2. Còn thiếu môi trường pháp lý rõ ràng cho công tác giám sát và
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc..............................................57

2.2.3. Phạm vi giám sát và phản biện còn bị giới hạn........................58
2.2.4. Hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận tổ quốc
Việt Nam chưa hướng vào những vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc....59
2.3. Các giải pháp nhầm nâng cao vai trò giám sát, phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh.......................61
2.3.1. Đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận tổ quốc
và các đoàn thể đi vào chiều sâu, tránh hình thức nhằm tập hợp, phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân xây dựng Thành phố Hồ Chí
Minh có chất lượng sống tốt...............................................................63
2.3.2. Phối hợp tổ chức triển khai thực hiện tốt công tác dân vận của
hệ thống chính trị................................................................................65
2.3.3. Tiếp tục củng cố, kiện toàn hệ thống Mặt trận và các đoàn thể
theo hướng thiết thực, hiệu quả; đổi mới công tác thi đua hướng về cơ
sở.........................................................................................................66
2.3.4. Tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam.............................................................................................66
2.4. Những đề xuất để nâng cao vai trò giám sát, phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh.......................72
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2.........................................................................73
KẾT LUẬN...........................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................78


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng đã nêu rõ: “Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức thành viên… thực hiện chức năng giám sát và phản biện của
nhân dân đối với công tác và đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, công chức,
đại biểu dân cử và các cơ quan Nhà nước; giải quyết những mâu thuẫn trong nội
bộ nhân dân” [26, tr.77]. Bộ Chính trị (khóa XI) đã có Quyết định số 217-QĐ/TW

ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và
các đoàn thể chính trị - xã hội; Quyết định số 218-QĐ/TW ban hành Quy định về
Mặt trận tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp
ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.
Nhiệm vụ giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các
tổ chức thành viên cũng đã được hiến định trong Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội
Chủ Nghĩa Việt Nam năm 2013. Luật Mặt trận tổ quốc Việt Nam thông qua tại Kỳ
họp thứ 9 Quốc hội khóa XIII, năm 2015 có quy định cụ thể về hoạt động giám sát
của Mặt trận tổ quốc Việt Nam (tại Chương V); hoạt động phản biện xã hội của Mặt
trận tổ quốc Việt Nam (tại Chương VI). Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng để
Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên thực hiện nhiệm vụ giám sát
và phản biện xã hội.
Hiện nay, chất lượng và hiệu quả hoạt động giám sát và phản biện của Mặt
trận còn thấp, chưa đáp ứng mong đợi và những đòi hỏi của nhân dân. Hoạt động
giám sát của Mặt trận trong thực tế còn hình thức, hiệu quả pháp lý chưa cao, chủ
yếu mới thể hiện qua các phát hiện, nêu ý kiến nhẹ nhàng tại các kỳ họp, phiên họp
của các cơ quan, tổ chức thuộc đối tượng giám sát, chưa có phương thức giám sát
đúng nghĩa, chưa được quan tâm thực hiện thường xuyên, liên tục. Đặc biệt chức
năng giám sát và phản biện của Mặt trận tổ quốc cấp quận, Thành phố còn nhiều
thiếu sót, dẫn tới nhiều sai lầm. Trong quá trình hội nhập ở nước ta hiện nay, hơn
bao giờ hết cần phải chú trọng nâng cao chức năng giám sát của Mặt trận tổ quốc ở
các cơ sở đặc biệt là một đô thị lớn như thành phố Hồ Chí Minh.

1


Mặt khác, trong tình hình dân chủ hoá xã hội, xuất phát từ nguyên tắc quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân, giám sát và phản biện của Mặt trận Tổ quốc tại
Thành phố Hồ Chí Minh là đòi hỏi cấp bách và tất yếu. Trên cơ sở đó xây dựng nền
hành chính của Thành phố trong sạch, vững mạnh, tinh gọn và thuận tiện tránh thực

trạng mất dân chủ, cửa quyền, lạm quyền, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách
nhiễu nhân dân của một số cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước. Những công trình
khoa học về hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố Hồ Chí
Minh đã được nhiều nhà nghiên cứu thực hiện nhưng đến nay vẫn chưa có một
nghiên cứu nào cụ thể về giám sát và phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại
Thành phố Hồ Chí Minh. Từ những căn cứ và lý do trên, tác giả chọn đề tài “Nâng
cao vai trò giám sát và phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại Thành phố
Hồ Chí Minh” làm luận văn Thạc sỹ Triết học, với mong muốn góp một phần của
mình vào vào việc nâng cao chất lượng hoạt động giám sát và phản biện xã hội của
Mặt trận tổ quốc các cấp tại Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và của Mặt trận tổ
quốc Việt Nam nói chung, để Mặt trận thực sự là tổ chức đại diện cho quyền lợi của
nhân dân lao động.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, đã có nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu về các
đề tài liên quan đến việc thực hiện chức năng giám sát xã hội mặt trận tổ quốc thuộc
các chuyên nghành như chính trị học, luật học, triết học và dưới nhiều góc độ khác
nhau giúp các nhà chính trị, nhà quản lý có cách tiếp cận cụ thể để nâng cao chức
năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận tổ quốc Việt Nam trong hoạt động
thực tiễn. Trong thời gian vừa qua, có các công trình nghiên cứu tiêu biểu sau:
Nguyễn Hải Long (2006), với luận văn “Giám sát xã hội đối với quyền lực
nhà nước ở Việt Nam”, luận văn thạc sỹ Luật, Học viện chính trị - Hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh. Luận văn đã tập trung làm rõ các yêu cầu về giám sát
Nguyễn Thọ Ánh (2010), với tác phẩm “Thực hiện chức năng giám sát và
phản biện xã hội của mặt trận tổ quốc Việt Nam”. Tác giả khẳng định giám sát và
phản biện xã hội của Mặt trận tổ quốc Việt Nam là nhiệm vụ cấp bách trong quá

2


trình xây dựng Nhà Nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta; tác giả trình bày

về vị trí, vai trò của Mặt trận tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị, hoạt động
giám sát và phản biện xã hội Mặt trận tổ quốc Việt Nam; thực trạng, những vấn đề
đặt ra và giải pháp nâng cao chất lượng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận tổ
quốc Việt Nam
Nguyễn Thị Phương (2013), với bài viết “nhận thức về chức năng, nhiệm vụ
của mặt trận tổ quốc Việt Nam trong tình hình mới”, Tạp chí Mặt trận số 121,122,
tr.57-61. Nội dung tác giả hướng tới việc nghiên cứu xác định rõ hơn chức năng,
nhiệm vụ Mặt trận tổ quốc Việt Nam, tìm ra những giải pháp khắc phục tình trạng
trùng lặp, chồng chéo chức năng, nhiệm vụ của tổ chức trong hệ thống chính trị và
hành chính hóa các tổ chức quần chúng, góp phần đổi mới hệ thống chính trị của
đất nước trong giai đoạn mới
Nguyễn Thị Thủy (2013), với bài viết “Các điều kiện bảo đảm cho hoạt
động giám sát và phản biện xã hội của mặt trận đạt hiệu quả”, Tạp chí mặt trận số
121, 122, tr.62-65. Bài viết đề cập việc hướng việc triển khai giám sát và phản biện
xã hội cần đảm bảo các điều kiện như: nâng cao nhận thức vị trí, vai trò của Mặt
trận tổ quốc trong giám sát và phản biện, xây dựng và hoàn thiện cơ chế pháp lý,
nâng cao chất lượng và đổi mới tổ chức của Mặt trận tổ quốc các cấp
Nguyễn Thanh Bình (2014), với bài viết “Mặt trận tổ quốc Việt Nam với
công tác giám sát và tham gia giải quyết khiếu nại tố cáo trong thời kỳ đổi mới”,
Tạp chí Mặt trận số 123, tr.41-45. Bài viết nêu lên vai trò giám sát của Mặt trận đối
việc giải quyết khiếu nại tố cáo, tuy nhiên bài viết còn chung chung, tác giả chỉ
phân tích một vài nguyên nhân làm hạn chế vài trò giám sát xã hội của Mặt trận đối
lĩnh vực khiếu nại tố cáo mà chưa đâu sâu vào những lĩnh vực khác có liên quan.
Hà Ngọc Thảnh (2014), với bài viết “Phát huy trách nhiệm của mặt trận tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể nhận dân trong giám sát hoạt động của các đại biểu
dân cử”, Tạp chí mặt trận số 129, 130, tr.62-66. Bài viết nêu trách nhiệm Mặt trận
tổ quốc Việt Nam và đoàn thanh tra nhân dân trong giám sát hoạt động các đại biểu
dân cử thể hiện một số vấn đề chủ yếu như giám sát đại biểu dân cử theo nhiệm vụ

3



chính trị, chức danh, lời hứa trước cử trị, bảo đảm và quyền lợi chính đáng của nhân
dân.. từ vấn đề nêu trên bài viết đưa ra yêu cầu đối Mặt trận tổ quốc Việt Nam và
các đoàn thanh tra nhân dân
Đỗ Phương (2014), “Lại bàn về giám sát và phản biện” Tạp chí số 133, tr.47 bài viết đề cập vị trí và vai trò giám sát trong xã hội hiện nay còn nhiều hạn chế,
để phát huy vai trò giám sát và phản biện cần những thay đổi cơ chế và tổ chức
quản lý nêu không giám sát và phản biện xã hội chỉ là cụm từ sử dung trong tổ chức
Mặt trận tổ quốc Việt Nam mà thôi
Trần Ngọc Nhẫn (2014), “Vai trò mặt trận tổ quốc Việt Nam trong xây dựng
chính sách, pháp luật và giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật” Tạp chí mặt
trận số 129, 130, tr.21-24. Bài viết nêu tầm quan trọng vai trò giám sát Mặt trận
trong hệ thống chính trị, nhưng đối việc xây dựng chính sách, phát luật thì quy định
văn bản hạn chế, nếu có chỉ mang tính hình thức. Hiện nay, có một số quy định mới
triển khai chậm, chưa hướng dẫn cụ thể nên khó khăn thực hiện vì vậy Quốc hội cần
sớm có quy định và chính sách pháp luật phù hợp trong việc thực hiện chức năng
giám sát và phản biện của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam.
Qua các công trình nghiên cứu, các bài đăng trên các tạp chí nêu trên đã cung
cấp cho chúng ta một cái nhìn tương đối về việc thực hiên hoạt động giám sát xã hội
của Mặt trận tổ quốc Việt Nam, đồng thời đóng góp quan trọng về mặt lý luận và
thực tiễn đối với hoạt đông giám sát và phản biện của mặt trận, các bài viết, tác
phẩm trên là nguồn tư liệu quan trọng giúp tác giả đi sâu nghiên cứu về vai trò giám
sát và phản biện của Mặt trận tổ quốc tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về giám sát và phản biện của Mặt trận Tổ
quốc, tác giả luận văn đánh giá đúng thực trạng hoạt động giám sát và phản biện xã
hội của mặt trận tổ quốc các cấp tại Thành phố Hồ Chí Minh. Từ thực trạng đó đề
xuất các phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động


4


giám sát và phản biện của Mặt trận tổ quốc ở Thành phố Hồ Chí Minh trong thời
gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đánh giá thực trạng và những vấn đề thực tiễn đặt ra trong quá trình thực
hiện hoạt động giám sát và phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở Thành phố
Hồ Chí Minh. Phân tích nguyên nhân những tồn tại của hoạt động giám sát và phản
biện của Mặt trận tổ quốc Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó đề xuất
phương hướng và các giải pháp thích hợp để nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát
và phản biện của Mặt trận tổ quốc Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh trong thời
gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Luận văn nghiên cứu vai trò giám sát và phản biện của Mặt trận tổ quốc Việt
Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động giám sát và phản biện của Mặt trận
tổ quốc Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian từ năm 2010 – 2016, bao
gồm những vấn đề: Tác giả nghiên cứu lý luận về giám sát, phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Vị trí, vai trò của Mặt trận tổ quốc Việt Nam trong hệ
thống chính trị; Khái niệm giám sát xã hội và hoạt động giám sát xã hội của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam; Khái niệm, chức năng, điều kiện nền tảng để hình thành
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Mối quan hệ giữa giám sát xã hội
và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Nghiên cứu đánh giá thực trạng việc thực hiện vai trò giám sát và phản biện
xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh, bao gồm: Quá
trình triển khai thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh; Những thành công bước đầu khi thực hiện

vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại Thành phố
Hồ Chí Minh; Những hạn chế khi thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội của

5


Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Min; Nguyên nhân của những
hạn chế khi thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh; Những vấn đề đang đặt ra trong quá trình
hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại Thành
phố Hồ Chí Minh.
Từ đó đưa ra quan điểm và các giải pháp thích hợp để phát huy, nâng cao
hiệu quả hoạt động giám sát và phản biện của Mặt trận tổ quốc Việt Nam tại Thành
phố Hồ Chí Minh trong thực tiễn hiện nay, bao gồm: Đổi mới, nâng cao chất lượng
hoạt động của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhằm tập hợp, phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh có chất lượng sống tốt;
Phối hợp tiếp tục tổ chức triển khai thực hiện tốt công tác dân vận của hệ thống
chính trị; Tiếp tục củng cố, kiện toàn hệ thống Mặt trận và các đoàn thể theo hướng
thiết thực, hiệu quả; đổi mới công tác thi đua tập trung hướng về cơ sở.
5. Phương pháp lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp lý luận
Luận văn vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân chủ, về kiểm soát quyền lực, quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về thực
thi quyền lực của nhân dân, về vai trò của nhân dân, của Mặt trận tổ quốc và các
đoàn thể chính trị xã hội trong vệc giám sát và phản biện hoạt động của bộ máy
Đảng và Nhà nước tại Thành phố Hồ Chí Minh
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Ngoài ra, để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu, luận văn sử dụng tổng hợp

các phương pháp như: phương pháp logic – lịch sử, phương pháp so sánh, phương
pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp tra cứu tài liệu, phương pháp thu thập và
xử lý thông tin…

6


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn cung cấp cơ sở lý luận về hoạt động giám sát và phản biện xã hội
của Mặt trận tổ quốc, góp phần nghiên cứu, đổi mới sự lãnh đạo của đảng đối với
công tác Mặt trận nói chung và hoạt động giám sát và phản biện xã hội của mặt trận
nói riêng, từ đó, luận văn góp phần nâng cao chất lượng hoạt động giám sát và phản
biện xã hội của mặt trận trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Qua kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp thêm cho công tác tuyên truyền,
nâng cao nhận thức về vai trò của Mặt trận tổ quốc đối với việc thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay, nhất là vai trò giám sát và phản biện xã hội
của Mặt trận tổ quốc
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng
dạy, học tập lý luận cho cán bộ của Mặt trận tổ quốc và các cấp đoàn thể, các giải
pháp có thể áp dụng trong thực tiễn hoạt động giám sát và phản biện Mặt trận tổ
quốc nói chung và ở các cấp cơ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
2 chương 6 tiết.
Chương 1: Giám sát và phản biện xã hội của mặt trận tổ quốc Việt Nam Một số vấn đề lý luận
Chương 2: Thực trạng và giải pháp nâng cao vai trò giám sát, phản biện xã
hội của mặt trận tổ quốc Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay

7



Chương 1
GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI
CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Vị trí, vai trò của Mặt trận tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính
trị
1.1.1. Vị trí của Mặt trận tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị
Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ
tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo, được thành lập ngày 18 tháng 11 năm 1930.
Trải qua các thời kỳ cách mạng với những tên gọi khác nhau, Mặt trận tổ quốc Việt
Nam đã không ngừng trưởng thành và lớn mạnh, đóng góp to lớn vào thắng lợi vĩ
đại của dân tộc và cùng với Đảng, nhà nước hợp thành những nhân tố cơ bản trong
hệ thống chính trị nước ta.
Ngay từ khi đảng Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3/2/1930) trong nội dung
chính cương vắn tắt và sách lược vắn tắt được thông qua tại hội nghị thành lập
Đảng đã chỉ ra sự cần thiết xây dựng một Mặt trận Dân tộc thống nhất nhằm đoàn
kết các giai tầng trong xã hội, các tổ chức chính trị, các cá nhân…phát huy truyền
thống yêu nước, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phấn đấu vì mục tiêu
chung: giải phóng dân tộc, xây dựng một xã hội mới hòa bình, ấm no, tự do, hạnh
phúc.
Vì vậy, ngày 18 tháng 11 năm 1930, Ban thường vụ Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam đã chỉ thị thành lập Hội phản đế Đồng Minh. Đây là hình thức đầu
tiên của Mặt trân dân tộc thống nhất, một hình thức liên minh chính trị của giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và các lực lực lượng yêu nước khác, nhằm “Đoàn
kết lực lượng cách mạng phản đế lại, để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa, mưu việc hoàn
toàn độc lập cho xứ Đông Dương và bênh vực cho phong trào giải phóng ở các
thuộc địa và bán thuộc địa” [3, tr.76]
Và từ thời gian đó đến nay trong lịch sử cách mạng Việt Nam chưa bao giờ
vắng bóng tổ chức Mặt trận. Khi cách mạng chưa giành được chính quyền thì Mặt
trận là liên minh chính trị của công nông với các lực lượng tiến bộ trực tiếp tổ chức


8


thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, Mặt trận đã vận động đoàn kết toàn dân
chống thực dân Pháp và phong kiến giành chính quyền về tay nhân dân, trong
những giai đoạn lịch sử Mặt trận còn thực hiện chức năng và nhiệm vụ của chính
quyền ở vùng giải phóng. Sau khi Đảng giành được chính quyền, Mặt trận tổ quốc
trở thành thành viên của hệ thống chính trị, Mặt trận cùng với Đảng, Nhà nước là
công cụ thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Hiện nay trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa, nhận thức về vị trí Mặt trận tổ quốc Việt Nam ngày càng được
hoàn thiện thông qua chủ trương, đường lối của Đảng, thể hiện trong hiến pháp,
trong các văn bản luật đặc biệt là luật Mặt trận tổ quốc Việt Nam và sự thừa nhận
của các tầng lớp nhân dân.
Trong các văn kiện quan trọng của Đảng ngày càng tiếp tục khẳng định vị trí
quan trọng của Mặt trận trong hệ thống chính trị. Cụ thể:
Chỉ thị 17 của Ban bí thư Trung ương Đảng khóa V, ngày 18/4/1983 về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác Mặt trận tổ quốc Việt Nam trong giai
đoạn mới ghi rõ:
“Mặt trận Tổ quốc Việt nam là tổ chức chính trị xã hội rộng lớn vừa có liên
hiệp rộng rãi, vừa có tính quần chúng sâu sắc. Mặt trận đại diện chung cho quyền
làm chủ của nhân dân lao động, là sợi dây nối liền các tầng lớp xã hội rộng rãi với
Đảng, là chỗ dựa vững chắc cho Nhà nước” [4, tr.98]
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng cũng chỉ rõ:
“Mặt trận tổ quốc Việt Nam, một tổ chức liên minh chính trị, liên minh tự
nguyện của các đoàn thể chính trị - xã hội và các cá nhân tiểu biểu trong các giai
cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo. Mặt trận và các tổ chức thành
viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi phối hợp thống nhất hành
động của các tầng lớp nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước; tham gia với Đảng và Nhà nước thực hiện và giám sát việc thực

hiện dân chủ, chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân, bảo vệ
Đảng và chính quyền thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng,

9


an ninh, đối ngoại, góp phần tăng cường mối liện hệ mật thiết giữa nhân dân với
Đảng và Nhà nước..” [25, tr.54]
Đại hội lần thứ XI của Đảng đã nhận định: “Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân tiếp tục tăng cường tổ chức, đổi mới nội dung và phương thức hoạt
động, khắc phục tình trạng hành chính hóa, phát huy vai trò nòng cốt tập hợp, đoàn
kết nhân dân xây dựng cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; tham gia xây
dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; tổ chức các phong trào thi đua yêu
nước, vận động các tầng lớp nhân dân, thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế
,văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, xã hội.” [28, tr.97]
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung phát triển năm 2011): “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có
vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân,
chăm lo lợi ích của các đoàn viên, hội viên; thực hiện dân chủ và xây dựng xã hội
lành mạnh; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước; giáo dục lý tưởng và đạo đức cách
mạng, quyền và nghĩa vụ công dân, tăng cường mối liên hệ giữa nhân dân với
Đảng, Nhà nước”.”Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên
hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và
các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo và
người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận
của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Đảng Cộng
sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận. Mặt trận hoạt
động theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành
động giữa các thành viên.” [8, tr.42-46]

Quyết định số 217-QĐ/TW về việc ban hành Quy chế giám sát và phản biện
xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội, về đại
đoàn kết dân tộc và tăng cường vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã chỉ rõ:
“Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị, là tổ chức liên hiệp tự
nguyện của các đòan thể nhân dân và cá nhân tiểu biểu trong giai cấp và tầng lớp

10


xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân,
Đảng cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận” [10,
tr.19]
Tại điều 9 Hiến pháp 1992 đã quy định “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ
chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức
chính trị-xã hội, các tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các
tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước
ngoài” [53, tr.88]
Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên
minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân
tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là
cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội;
tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc”[54, tr.35]. Điều đó khẳng định Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam là một bộ phận không thể thiếu của hệ thống chính trị nước ta.
Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 5 đã thông qua ngày 12 tháng 6 năm 1999,
trong đó đã khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận của hệ thống

chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí
nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của dân,
nơi hiệp thương phối hợp và thống nhất hành động của các thành viên, góp phần
giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng
lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh”, (Khoản 2, Điều 1). [50, tr.37]

11


Như vậy, vị trí của Mặt trận tổ quốc Việt Nam do chính nhân dân, chính lịch
sử xác định và thừa nhận. Pháp luật khẳng định Mặt trận tổ quốc Việt Nam “là một
bộ phận của hệ thống chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” có
nghĩa là pháp luật đã xác định địa vị pháp lý và chính trị của Mặt trận là một thành
tố cấu thành thể chế chính trị nước ta. Mặt trận tổ quốc Việt Nam với tư cách là
thành viên của hệ thống chính trị có chức năng, nhiệm vụ riêng và tồn tại, hoạt động
trong mối liên hệ với các thành viên khác của hệ thống chính trị. Địa vị này còn do
yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng đòi hỏi phải xây dựng khối đại đoàn
kết tất cả lực lượng tiến bộ của dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam để xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Địa vị pháp lý của Mặt trận tổ quốc còn do đặc điểm, cấu trúc của hệ thống
chính trị Việt Nam quy định, hệ thống đó không tổ chức vận hành theo hình thức đa
nguyên, đa đảng mà Đảng cộng sản Việt Nam là người duy nhất lãnh đạo và cầm
quyền. Vì vậy trong hệ thống chính trị nước ta không có sự kiềm chế, đối trọng giữa
các lực lượng chính trị đối lập. Do đó để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng luôn đúng
đắn, bộ máy cơ quan nhà nước luôn trong sạch, thể hiện ý chí và nguyện vọng nhân
dân, thể hiện bản chất nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Để thực hiện bản chất đó cần thiết phải có sự giám sát và phản biện từ phía
nhân dân, và tổ chức đại diện cho ý chí và nguyện vọng của tầng lớp nhân dân là

Mặt trận Tổ quốc. Hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận sẽ tạo ra
yếu tố kiềm chế, nhằm giới hạn quyền lực, tránh xu hướng lạm dụng quyền lực, vi
phạm dân chủ trong hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước ta.
Vì vậy, nhìn từ các góc độ khác nhau cả về pháp lý, cả về lịch sử và hoạt
động thực tiễn đều khẳng định Mặt trận tổ quốc Việt Nam là một thiết chế quan
trọng, một chủ thể không thể thiếu trong hệ thống chính trị nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
1.1.2. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
1.1.2.1. Vai trò củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

12


Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận cấu thành hệ thống chính trị của
nước ta hiện nay. Sự qui định này là do yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách
mạng, là xuất phát từ thể chế chính trị: nước ta là nước dân chủ, mọi quyền lực
thuộc về nhân dân. Đây là vấn đề lịch sử, vấn đề truyền thống. Vai trò của Mặt trận
không phải tự Mặt trận đặt ra mà là do chính nhân dân, chính lịch sử thừa nhận.
Thắng lợi huy hoàng của Cách mạng Tháng Tám 1945 gắn liền với sự nghiệp của
Mặt trận Việt Minh. Thành tích của Mặt trận Việt Minh chính là sự kế tục sự nghiệp
cách mạng đã được chuẩn bị từ trước của Hội Phản đế đồng minh (1930-1936) và
Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1936-1939). Tiếp theo Mặt trận Việt Minh là Mặt
trận Liên Việt đã góp phần đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng
lợi. Kế tục Mặt trận Liên Việt, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra đời đã đoàn kết, tập
hợp các tầng lớp nhân dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, làm
hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà ở miền Nam. Trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã cùng với Mặt trận Dân
tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và
hòa bình Việt Nam đoàn kết nhân dân cả nước làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang:

giải phóng miền Nam bảo vệ miền Bắc, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân trong cả nước. Từ khi đất nước thống nhất, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam giữ vai trò quan trọng trong việc củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn
dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.1.2.2. Vai trò tổ chức tập hợp, đoàn kết rộng rãi các lực lượng chính trị,
các tổ chức chính trị - xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Với vai trò là tổ chức tập hợp, đoàn kết rộng rãi các lực lượng chính trị, các
tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp,
tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam được khẳng định vị trí ngay từ trong Hiến pháp đầu tiên của
nước ta. Sau mỗi lần bổ sung, sửa đổi Hiếp pháp, vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam tiếp tục được khẳng định và xác định rõ hơn.

13


Hiến pháp năm 2013 đã xác định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở
chính trị của chính quyền nhân dân...”[54, tr.88] điều đó khẳng định Mặt trận Tổ
quốcViệt nam là một bộ phận không thể thiếu được của hệ thống chính trị nước ta.
“Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể thành viên có vai trò rất quan
trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc...” [54,
tr.89]. Đó là củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, tạo nên sự nhất trí về
chính trị và tinh thần trong nhân dân, giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước để thực
hiện thắng lợi công cuộc đổi mới.
“Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự
nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các
cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo và người
Việt Nam định cư ở nước ngoài” [54, tr.66]
1.1.2.3. Mặt trận giữ vai trò là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại

diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã
hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối
ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hiến pháp sửa đổi 2013 đã hoàn thiện một bước cơ bản quy định về Mặt trận
tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, làm nổi bật và phù hợp vị trí, vai
trò của các tổ chức này trong xã hội nước ta, tạo cơ sở pháp lý phát huy mạnh mẽ
hơn nữa vai trò của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong đời sống chính
trị của đất nước trong thời kỳ mới. Đặc biệt Luật Mặt trận tổ quốc Việt Nam quy
định rõ vai trò của Mặt trận: “… là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi
thể hiện ý chí nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền
làm chủ của dân,nơi hiệp thương phối hợp và thống nhất hành động của các thành
viên, góp phần dữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ,
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu
“Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh” [50, tr.67]

14


Mặt trận là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, vai trò cơ sở chính trị
của Mặt trận thể hiện ở chỗ:
Mặt trận là nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng tập hợp xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc tham gia xây dựng và
bảo vệ chính quyền.
Mặt trận là nền tảng chính trị, là sức mạnh có tổ chức của toàn dân. Nhà
nước phải dựa vào Mặt trận để phát huy sức mạnh của mình thông việc phát huy
sức mạnh có tổ chức của nhân dân
Mặt trận cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính
đáng của nhân dân, động viên nhân dân tham gia xây dựng và phản biện các chủ
trương, chính sách pháp luật, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, đại biểu

dân cử và cán bộ công chức nhà nước, các cuộc vận động xã hội, thực hiện tốt các
chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước.
Ngoài ra, với đặc điểm của hệ thống chính trị của nước ta, để tránh nguy cơ
độc đoán, quan liêu xa dân… đòi hỏi phải phát huy vai trò của Mặt trận tổ quốc
trong hệ thống chính trị và đời sống xã hội thông qua việc tham chính và tham nghị,
giám sát và phản biện xã hội đối với hoạt động cơ quan Nhà nước và mỗi cán bộ
đảng viên trong hệ thống đó.
1.2. Giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
1.2.1. Khái niệm giám sát xã hội và hoạt động giám sát xã hội của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam
1.2.1.1. Khái niệm giám sát xã hội
Khái niệm “giám sát” hiện nay được dùng rất phổ biến trong các khoa học
như chính trị học, luật học, hành chính học… và trong nhiều văn bản nghị quyết của
Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước cũng như trong hành xử của đời sống
chính trị thực tiễn. Tuy nhiên khái niệm giám sát và nội hàm của nó được diễn đạt
bằng nhiều cách khác nhau.
Trong Từ điển Hán – Việt của Đào Duy Anh chủ biên thì “giám sát là xem
xét và đàn hạch” [2; tr.132].

15


Theo Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên thì “Giám sát là theo dõi và
kiểm tra có thực hiện đúng những điều quy định không” [44, tr.374].
Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên hiểu “giám sát là theo
dõi, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ” [57, tr.728].
Từ điển Quản lý xã hội ghi giám sát là kiểm tra; theo dõi nhằm mục đích
kiểm tra việc chấp hành luật, nghị quyết, quyết định quản lý.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ hành chính giám sát là sự theo dõi, quan
sát hoạt động mang tính chủ động thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng

các biện pháp tích cực để buộc các đối tượng chịu sự giám sát đi theo đúng quỹ đạo,
quy chế, nhằm đạt được mục đích, hiệu quả đã đạt được xác định từ trước, đảm bảo
luật pháp được tuân thủ nghiêm chỉnh.
Trong cuốn “Tìm hiểu một số thuật ngữ trong văn kiện Đại hội X của Đảng”
đã nêu rõ giám sát là theo dõi, kiểm tra, phát hiện, đánh giá của cá nhân, tổ chức,
cộng đồng người đối với cá nhân, tổ chức, cộng đồng người khác trong các lĩnh vực
hoạt động kinh tế - xã hội, trong việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật, đường lối
quan điểm của đảng, chính sách của Nhà nước, các quyền lợi và nghĩa vụ của công
dân, của các tổ chức chính trị - xã hội và kiến nghị phát huy, ưu điểm, thành tựu, xử
lý đối với cá nhân, tổ chức có những hành vi sai trái.
Tuy cách diễn đạt và biểu hiện ý nghĩa của từ giám sát có khác nhau nhưng
chúng đều có một số đặc điểm sau:
Giám sát luôn gắn với một chủ thể nhất định, tức là phải trả lời câu hỏi; ai
(người hoặc tổ chức nào) có quyền thực hiện việc theo dõi, xem xét, kiểm tra và đưa
ra nhận định về một việc làm nào đó đã được thực hiện đúng hoặc sai những điều đã
quy định. Đồng thời giám sát luôn gắn với một đối tượng cụ thể, tức là phải trả lời
được câu hỏi: Giám sát ai? Giám sát việc gì? Để có những tác động nhằm điều
chỉnh đối tượng thực hiện đúng yêu cầu, quy định của chủ thể quyền lực.
Theo luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 quy định thì “Giám sát của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là việc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp trực
tiếp hoặc đề nghị các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo dõi,

16


xem xét, đánh giá, kiến nghị đối với hoạt động của cơ quan, tổ chức, đại biểu dân
cử, cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện chính sách, pháp luật. Giám
sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mang tính xã hội; đại diện, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, kịp thời phát hiện và kiến nghị xử lý sai
phạm, khuyết điểm; kiến nghị sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật; phát hiện, phổ

biến những nhân tố mới, các điển hình tiên tiến và những mặt tích cực; phát huy
quyền làm chủ của Nhân dân, góp phần xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh.
Hoạt động giám sát được thực hiện theo nguyên tắc bảo đảm phát huy dân chủ, sự
tham gia của nhân dân, thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; xuất phát từ yêu
cầu, nguyện vọng của Nhân dân; thực hiện công khai, minh bạch, không chồng
chéo; không làm cản trở hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân được giám sát.”
[50]
Như vậy có thể quan niệm giám sát là quá trình theo dõi, quan sát, phân tích
nhận định về hành vi của đối tượng bị giám sát xem có vi phạm những chuẩn mực
của chủ thể quyền lực hay không để có những tác động điều chỉnh tương đối thực
hiện đúng các yêu cầu chuẩn mực mà chủ thể quyền lực đặt ra
Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được hiểu là “Giám sát xã hội”,
giám sát mang tính nhân dân, không phải là giám sát của Nhà nước (giám sát của
Quốc hội) hoặc giám sát trong Đảng (Quy chế giám sát trong Đảng). Giám sát xã
hội chỉ dừng lại ở mức “đánh giá, kiến nghị”, tức là áp dụng các biện pháp tác động
mang tính xã hội vào hoạt động của đối tượng bị giám sát (sự nhận xét, đánh giá,
kiến nghị từ phía xã hội, từ đó đối tượng bị giám sát tự chấn chỉnh, rút kinh nghiệm
trong quá trình hoạt động của mình), không có quyền yêu cầu hoặc bắt buộc cơ
quan, tổ chức phải tiến hành xử lý một vụ việc cụ thể nào đó. Việc có xử lý hay
không xử lý, xác định kết quả, kiến nghị giám sát đó đúng hay sai phụ thuộc vào
quyền và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân được giám sát theo pháp luật và
các quy định hiện hành.
Trong đời sống chính trị cần phân biệt khái niệm giám sát và khái niệm
thanh tra. Khái niệm thanh tra được diễn đạt trong Nghị quyết số 164-CP ngày

17


31/8/1970 của hội đồng chính phủ về tăng cường công tác thanh tra và chấn chỉnh
hệ thống thanh tra Nhà nước như sau:

Thanh tra là một trong những công tác quan trọng của người quản lý, nó có
mục đích giúp cơ quan lãnh đạo vừa kiểm tra bản thân sự lãnh đạo của mình vừa
kiểm tra sự chấp hành của cơ quan quyền lực thuộc thẩm quyền nhằm tìm ra những
biện pháp chỉ đạo, cách quản lý tốt nhất, đảm bảo cho những chủ trương của Đảng,
chính sách và pháp luật của nhà nước được thực thi đầy đủ có hiệu lực.
Như vậy, để phân biệt thanh tra và giám sát trước hết ta nhận diện một số vấn
đề sau:
Thứ nhất, thanh tra là công cụ hỗ trợ hoạt động quản lý nhà nước của hệ
thống cơ quan quản lý hành chính, là công cụ kiểm tra của hệ thống hành pháp, còn
giám sát là hoạt động của hệ thống quyền lực lập pháp, còn chủ thể thanh tra có
quyền đưa ra các chế tài cần thiết đối với đối tượng vi phạm như đình chỉ hoạt
động, chuyển vụ việc sang cơ quan điều tra.
Thứ hai, đối tượng của thanh tra là cơ quan, tổ chức chấp hành, thực hiện
quyền lực hành pháp (thuộc quyền quản lý của cơ quan hành chính) và chủ thể
giám sát không có quyền áp dụng chế tài cụ thể, trực tiếp để xử lý sai phạm.
Hoạt động giám sát được thực hiện bằng hai loại chủ thể. Đó là hoạt động
giám sát của cơ quan Nhà nước và hoạt động giám sát của các chủ thể xã hội
(ngoài nhà nước). Hoạt động giám sát của các chủ thể ngoài nhà nước gọi là giám
sát xã hội. Giám sát xã hội khác với giám sát Nhà nước như sau: chủ thể giám sát
xã hội gồm các đảng chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, báo chí, công dân.
Đảng cầm quyền không được coi là chủ thể giám sát xã hội và đảng cầm quyền là
chủ thể xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy và trực tiếp lãnh đạo nhà nước. Đối tượng
giám sát xã hội là cơ quan quyền lực, giám sát xã hội không mang tính quyền lực
Nhà nước (không thực hiện quyền miễn nhiệm, bãi nhiệm trực tiếp đối với các đối
tượng vi phạm nhưng lại có thể gây áp lực lên chủ thể quyền lực để điểu chỉnh
quyết định chính sách). Bản chất giám sát xã hội là hình thức giám sát có sự tham
gia rộng rãi của toàn bộ xã hội mà nòng cốt là một số tổ chức của nhân dân, do nhân

18



×