Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.29 KB, 48 trang )

4

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
VÀ CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Sự cần thiết khách quan của NHTM trong nền kinh tế thị trường:
1.1.1- Khái niệm về NHTM .
Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ
hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan.
Nếu xét về bản chất kinh tế – xã hội của NHTM theo gốc độ phạm trù kinh
tế, thì thực chất: NHTM là hệ thống quan hệ tiền tệ hoạt động dưới hình thái tín
dụng( vay, cho vay, trả lãi tiền vay) nhằm huy động và cung ứng vốn tiền tệ từ nơi
có vốn cung cấp đến nơi có nhu cầu về vốn với mục đích đầu tư phát triển và các
nhu cầu xã hội khác.
Ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính trung gian có vị trí trọng yếu trong
hệ thống Ngân hàng. Tổng tài sản có của Ngân hàng thương mại luôn luôn có khối
lượng lớn nhất trong toàn bộ hệ thống Ngân hàng. Mặc khác, khối lượng séc hay tài
khoản tiền gửi không kỳ hạn mà nó có thể tạo ra chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cung
tiền tệ của cả nền kinh tế.
Theo Pháp lệnh Ngân hàng ngày 23/05/1990 của Hội đồng Nhà nước xác
định: “Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và
thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số
tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.
Theo Luật các TCTD ngày 12/12/1997:
Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo qui định của luật này
và các qui định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ


5

ngân hàng với nội dung chủ yếu nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cung cấp tín


dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Để làm rõ khái niệm trên cần phân tích sâu hơn về nội dung quan hệ tiền tệ
và tính chất tín dụng của NHTM:
Về nội dung quan hệ tiền tệ của NHTM : Được thể hiện trên bốn phương
diện chủ yếu:
Thứ nhất, quan hệ giữa NHTM với Nhà nước: Thông qua việc vay vốn và tiền
dự trữ bắt buộc ở Ngân hàng Nhà nước (NHNN), vay vốn Kho bạc Nhà nước; phối
hợp với Ngân sách Nhà nước và NHNN điều hoà tiền mặt trong lưu thông, ổn định
tiền tệ, ổn định sức mua, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, quan hệ giữa NHTM với các doanh nghiệp (tổ chức kinh tế ) bằng
việc huy động vốn và cho vay vốn phục vụ hoạt động kinh doanh; hoặc phát hành
chứng khoán (chứng khoán nợ, chứng khoán vốn) để huy động vốn; các quan hệ tín
dụng liên Ngân hàng và các quan hệ thanh toán để làm khai thông các nguồn vốn tín
dụng trong quá trình kinh doanh.
Thứ ba, quan hệ giữa NHTM với các tầng lớp dân cư: Quan hệ này thể hiện
ở việc NHTM huy động tiền nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư để tăng vốn tín dụng
hoặc cho vay thế chấp và tín chấp cho nhu cầu sản xuất kinh doanh của thể nhân và
cá nhân trong các trường hợp cần thiết.
Thứ tư, quan hệ giữa NHTM và thị trường tài chính (TTTC): Cấu thành của
TTTC gồm thị trường tiền tệ (ngắn hạn) và thị trường vốn (trung dài hạn). Các thành
phần tham gia trên TTTC gồm: công ty cổ phần, thị trường chứng khoán, NHTM,
các TCTD phi Ngân hàng, các Công ty tài chính, Quỹ đầu tư, Bảo hiểm… Trong đó,
NHTM giữ vai trò quan trọng, chiếm tỷ phần khá lớn và tác động mạnh mẽ đến cả
thị trường tiền tệ và thị trường vốn thông qua tín dụng ngắn hạn, trung hạn và dài
hạn.


6

Về tính chất của tín dụng NHTM:Tín dụng của NHTM có các đặc tính sau:

Thứ nhất, tín dụng là nghiệp vụ chủ yếu trong hoạt động kinh doanh tiền tệ,
dưới hình thức phân phối lại thu nhập quốc dân và vì mục đích sinh lời.
Thứ hai, tín dụng là nghiệp vụ của NHTM có chức năng chủ yếu là chuyển
tải hay là cầu nối giữa nơi cung vốn và nơi cầu vốn, góp phần quan trọng bảo đảm
thông suốt qui trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng xã hội.
Thứ ba, hoạt động tín dụng NHTM mang tính chất hoàn trả và có lợi tức. Điều
này đòi hỏi hoạt động tín dụng phải tính toán hiệu quả và luôn thích ứng với đặc
điểm hoạt động của thị trường tài chính trong và ngoài nước.
Từ phân tích trên, có thể thấy, quan hệ tín dụng NHTM có phạm vi hoạt động
rộng, có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến tất cả các khâu và các cấp độ hoạt
động của nền kinh tế quốc dân.
1.1.2. Sự cần thiết khách quan của NHTM trong nền kinh tế thị trường:
Nền sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển thì quy luật cung cầu ngày càng
thể hiện rõ nét, nhất là trong nền kinh tế thị trường nảy sinh ra nhiều mối quan hệ về
cung cầu trong đó cung cầu về vốn đóng vai trò quan trọng nhằm thúc đẩy các mối
quan hệ khác phát triển.
Cầu về vốn trong nền kinh tế nảy sinh do: các doanh nghiệp, cá nhân có nhu
cầu vốn để sản xuất kinh doanh; cá nhân có nhu cầu tiêu dùng và Nhà nước có nhu
cầu vốn do thiếu hụt ngân sách.
Cung về vốn trong nền kinh tế nảy sinh do: Cung về vốn của các tổ chức cho
vay; các khoản tiết kiệm trong dân dư và tiền cung ứng của NHNN.
Do yêu cầu điều tiết các mối quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế đòi
hỏi phải có một tổ chức trung gian để nhận khoản cung về vốn và phân phối khoản
cầu về vốn. Chính vì thế trong nền kinh tế thị trường xuất hiện một ngành kinh


7

doanh đặc biệt đó là ngành kinh doanh tiền tệ do những doanh nghiệp chuyên hoạt
động lónh vực này là các ngân hàng thương mại.

Ngân hàng thương mại có hoạt động gần gũi nhất với nhân dân và nền kinh
tế. Các nước phát triển, hầu như không có công dân nào không có quan hệ giao dịch
với một ngân hàng. Nền kinh tế càng phát triển, hoạt động và dịch vụ của ngân hàng
thương mại càng đi vào tận cùng ngõ ngách của nền kinh tế và đời sống của con
người. Mọi công dân đều chịu tác động của ngân hàng, dù họ là khách hàng gửi, một
người vay, hay đơn giản là người đang làm việc cho một doanh nghiệp có vay vốn và
sử dụng các dịch vụ ngân hàng.
Từ lâu, ngân hàng thương mại là một định chế tài chính quen thuộc trong đời
sống kinh tế. Chính vì thế Ngân hàng thương mại ra đời, tồn tại và phát triển cùng
với nền kinh tế thị trường là một thực tế khách quan.
1.2. Các chức năng của NHTM:
1.2.1 – Chức năng trung gian tín dụng:
Đây là chức năng đặc trưng và cơ bản nhất của Ngân hàng thương mại và có
ý nghóa đặc biệt trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Quan hệ tín dụng trực tiếp giữa chủ thể có tiền chưa sử dụng và chủ thể có
nhu cầu tiền tệ cần bổ sung gặp phải nhiều hạn chế. Hoạt động tín dụng của Ngân
hàng thương mại đã góp phần khắc phục hạn chế đó.
Thực hiện chức năng này, một mặt NHTM huy động tập trung các nguồn vốn
tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các chủ thể trong nền kinh tế hình thành nguồn vốn cho
vay; mặc khác, trên cơ sở số vốn đã huy động được, Ngân hàng cho vay để đáp ứng
nhu cầu vốn sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng ….. của các chủ thể kinh tế, góp phần
đảm bảo sự vận động liên tục của guồng máy kinh tế- xã hội, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế. Như vậy, Ngân hàng thương mại vừa là người đi vay vừa là người cho vay,


8

hay nói cách khác, nghiệp vụ tín dụng của Ngân hàng thương mại là đi vay để cho
vay.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn của các chủ thể trong nền kinh tế

vận động liên tục và biểu hiện các hình thái khác nhau qua mỗi giai đoạn của quá
trình sản xuất, từ đó xảy ra hiện tượng thừa và thiếu vốn tạm thời: tại một thời điểm
nhất định, có những đơn vị kinh tế có vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi (thừa vốn) và có
những đơn vị khác tạm thời thiếu vốn. Đây là hiện tượng mang tính chất tạm thời
nhưng xảy ra thường xuyên và phổ biến trong bất kỳ nền kinh tế nào, làm nẩy sinh
yêu cầu ngày càng bức thiết phải giải quyết cho được vấn đề điều hoà vốn. Ngân
hàng thương mại với vai trò là trung gian tín dụng đứng ra tập trung và phân phối lại
vốn tiền tệ, điều hoà cung và cầu vốn trong các doanh nghiệp, đã góp phần điều tiết
các nguồn vốn, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp không bị gián đoạn.
Để mở rộng sản xuất, đối với từng doanh nghiệp yêu cầu về vốn là một trong
những mối quan tâm hàng đầu được đặt ra. Các doanh nghiệp không thể trông chờ
vào vốn tự có, mà còn phải biết dựa vào vốn của nhiều nguồn khác nhau trong xã
hội. Ngân hàng thương mại với tư cách là nơi tập trung đại bộ phận vốn nhàn rỗi, sẽ
là trung tâm đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung cho đầu tư phát triển. Như vậy, tín dụng
ngân hàng vừa giúp cho doanh nghiệp rút ngắn được thời gian tích luỹ vốn nhanh
chóng cho đầu tư mở rộng sản xuất, góp phần thúc đẩy nhanh tốc độ tập trung và
tích luỹ vốn cho nền kinh tế.
Ngân hàng thương mại tập hợp nguồn vốn của khách hàng này đem chuyển
cho người khác sử dụng theo phương thức kinh doanh “vay để cho vay”. Đó chính là
vai trò trung gian của Ngân hàng. Như vậy xuất hiện một nét đặc thù chính của
Ngân hàng khi đóng vai trò trung gian: thu thập những đồng tiền đã có sẳn (như
nhận tiền gửi; tiền tiết kiệm) và đem cho vay đối với người cần tiền để sử dụng cho


9

nhu cầu sản xuất kinh doanh, sinh hoạt và đời sống. Vai trò trung gian này trở nên
phong phú hơn khi việc phát hành thêm cổâ phiếu, trái phiếu, phát hành chứng chỉ
tiền gửi và hiện nay phổ biến là tiền gửi tiết kiệm có xổ số,….. cũng được coi là

những hình thức thu thập nguồn vốn.
Ngày nay, sự phát triển của thị trường tài chính làm xuất hiện những khía
cạnh khác của chức năng trung gian tín dụng Ngân hàng. Ngân hàng có thể đứng ra
làm trung gian giữa công ty (khi phát hành cổ phiếu) với những nhà đầu tư: chuyển
giao các mệnh lệnh trên thị trường chứng khoán; đảm nhận việc mua bán trái phiếu
công ty theo cách này Ngân hàng làm trung gian giữa người đầu tư và người cần vay
vốn trên thị trường.
Do đó, Ngân hàng không chỉ làm trung gian giữa người gửi tiền và người vay
tiền, mà còn làm trung gian giữa người đầu tư và người vay vốn trên thị trường.
Những trung gian tài chính làm việc này để kiếm lời bằng việc đặt một lãi suất cao
hơn cho các món vay so với món lãi họ thanh toán cho người cho vay (người tiết
kiệm). Như vậy, do hoạt động trong quá trình tài chính gián tiếp, những trung gian
tài chính có thể đem lại cho họ thu nhập tiền lãi cao và có thể giúp những người vay
các món tiền nhỏ, nay có thể vay được tiền vốn mà họ không có cách nào để có
được. Ngoài ra, đối với người vay món tiền lớn cũng hưởng lợi, bởi vì quá trình trung
gian tài chính tập trung được nhiều vốn hơn cho người vay trong thị trường tài chính.
Tác dụng của trung gian tài chính là giảm thiểu những chi phí thông tin và chi
phí giao dịch trong nền kinh tế. Hơn nữa, tín dụng Ngân hàng còn là một trong
những nguồn hình thành vốn lưu động và vốn cố định của doanh nghiệp. Vì vậy, tín
dụng Ngân hàng đã góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế, đảm bảo cho quá trình
sản xuất kinh doanh được liên tục, là cầu nối giữa tiết kiệm, tích luỹ, đầu tư, động
viên vật tư hàng hoá đưa vào sản xuất lưu thông, mở rộng nguồn vốn thúc đẩy tiến
bộ kỹ thuật, đẩy nhanh quá trình tái sản xuất.


10

Ngày nay, thông qua chức năng trung gian tín dụng, Ngân hàng thương mại đã
và đang thực hiện chức năng xã hội của mình, làm cho sản phẩm xã hội được tăng
lên, vốn đầu tư được mở rộng và từ đó góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và cải

thiện đời sống nhân dân.
1.2.2- Chức năng trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh
toán:
Chức năng này là sự kế thừa và phát triển chức năng Ngân hàng là thủ quỹ
của các doanh nghiệp, tức là Ngân hàng tiến hành nhập tiền vào tài khoản hay chi
trả theo lệnh của chủ tài khoản. Công việc của người thủ quỹ chính là ở chổ làm
trung gian thanh toán. Hoạt động thanh toán của Ngân hàng là cơ sở hoạt động tín
dụng ngày nay. Khi một khách hàng thiếu tiền để thanh toán, Ngân hàng sẽ trả hộ
và khoản trả hộ đó sẽ trở thành khoản vay của khách hàng. Trong Ngân hàng thương
mại, chức năng trung gian thanh toán gắn bó chặt chẽ và hữu cơ với chức năng trung
gian tín dụng: Ngân hàng dùng số tiền gửi thanh toán của người này để cho người
khác vay. Xuất phát từ chức năng là người thủ quỹ của các doanh nghiệp, Ngân
hàng có đủ điều kiện để thực hiện các dịch vụ thanh toán theo sự uỷ nhiệm của
khách hàng. Khi các khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng, họ sẽ được đảm bảo an
toàn trong việc cất giữ tiền và thực hiện thu chi một cách nhanh chóng, tiện lợi, nhất
là đối với các khoản thanh toán có giá trị lớn, ở mọi địa phương, nếu khách hàng tự
làm sẽ rất tốn kém, khó khăn và không an toàn. Khi Ngân hàng thương mại ra đời
và phát triển, hầu hết các khoản thanh toán chi trả về hàng hoá, dịch vụ giữa các
chủ thể kinh tế (doanh nghiệp và cá nhân) đều được chuyển giao cho Ngân hàng
thực hiện, việc thanh toán trở nên tiện lợi, tiết kiệm được nhiều chi phí, mọi quan hệ
thanh toán được thực hiện bằng cách các chủ thể mở tài khoản tại Ngân hàng và yêu
cầu Ngân hàng thực hiện các khoản chi trả hoặc uỷ nhiệm cho Ngân hàng thực hiện
việc thu nhận các khoản tiền vào tài khoản của mình.


11

Trong khi làm trung gian thanh toán, Ngân hàng tạo ra những công cụ lưu
thông tín dụng và độc quyền quản lý các công cụ đó (séc, giấy chuyển ngân, thẻ
thanh toán) đã tiết kiệm cho xã hội rất nhiều chi phí lưu thông, đẩy nhanh tốc độ lưu

chuyển vốn, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá. Ban đầu Ngân hàng đã sử dụng
tiền Ngân hàng thay cho tiền vàng trong lưu thông tiết kiệm được chi phí đúc tiền,
vận chuyển, bảo quản và hao mòn tiền vàng trong lưu thông. Kế tiếp, Ngân hàng sử
dụng các công cụ lưu thông tín dụng như: séc, thẻ thanh toán để thay thế cho tiền
mặt, đã tiết kiệm được chi phí trong việc in, đếm và vận chuyển tiền. Từ các phương
tiện thanh toán, khách hàng của Ngân hàng không phải chi trả với nhau bằng tiền
mặt, mà chỉ cần ra lệnh Ngân hàng thương mại thông qua các phương tiện, Ngân
hàng sẽ ghi nợ cho tài khoản người này và ghi có tài khoản người kia một cách kịp
thời.
Việc làm trung gian thanh toán của Ngân hàng ngày nay đã phát triển đến
tầm mức rất đa dạng, không chỉ là trung gian thanh toán truyền thống như trước mà
còn quản lý các phương tiện thanh toán. Đây là vai trò ngày càng chiếm vị trí rất
quan trọng, phù hợp với sự phát triển và tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Ở các nước
phát triển, phần lớn công tác thanh toán được thực hiện thông qua séc và phần lớn
séc thanh toán trong nước được thực hiện bằng thanh toán bù trừ thông qua hệ thống
Ngân hàng thương mại. Nếu việc phát hành séc để rút tiền từ tài khoản tiền gửi và
thanh toán trong cùng một Ngân hàng, thì chỉ là một động tác chuyển dịch vốn từ tài
khoản này sang tài khoản khác và nếu séc thanh toán trong cùng địa bàn thì phải
thông qua thanh toán bù trừ.
Khoa học công nghệ ngày càng hiện đại, các Ngân hàng thương mại từng
bước trang bị đầy đủ máy vi tính và các phương tiện kỹ thuật khác, tạo điều kiện
thanh toán bù trừ được nhanh chóng, độ chính xác cao và giảm bớt chi phí Hiện nay,
việc sử dụng hình thức chuyển tiền bằng điện tử đưa đến việc hạn chế sử dụng séc


12

Ngân hàng mà dùng thẻ như thẻ tín dụng. Họ thanh toán bằng cách nối mạng máy vi
tính của các Ngân hàng thương mại trong nước, nhằm thực hiện chuyển vốn từ tài
khoản người mua sang tài khoản người bán một cách nhanh chóng.

Quá trình lưu thông chuyển vốn từ tài khoản người mua sang tài khoản người
bán có một đặc điểm phi vật chất, vì không giống như đồng tiền giấy được chuyển
trao tay thực sự từ người này sang người khác, mà nó chính là đồng tiền ghi sổ, rất
thích ứng với từng nhu cầu của giao dịch.
Cùng với sự phát triển của đồng tiền ghi sổ, tiền tệ nói chung đã trở thành
một công cụ hết sức mềm dẽo, nó không tồn tại dưới dạng vật chất. Séc và chuyển
khoản chỉ là cách thực hiện, nó cho phép lưu thông đồng tiền ghi sổ. Cơ sở của việc
phát hành séc hay thanh toán qua chuyển khoản đó chính là tài khoản tại Ngân
hàng.
1.2.3 – Chức năng tạo “ bút tệ” theo cấp số nhân:
Từ khi Ngân hàng ra đời, hoạt động kinh doanh tiền tệ có được bước phát
triển mới. Trong quá trình kinh doanh tiền tệ, các Ngân hàng nhận thấy khách hàng
đã sử dụng giấy chứng nhận tiền gửi mà Ngân hàng đã cấp cho họ để chi trả các
khoản nợ. Vì thế, các Ngân hàng đưa vào lưu thông các loại tiền giấy Ngân hàng
được chuyển đổi ra vàng qua nghiệp vụ tín dụng thay thế cho tiền vàng. Đây chính
là một phát minh có giá trị trong lịch sử hoạt động của tiền tệ.
Vào cuối thế kỷ 19, hệ thống Ngân hàng hai cấp được hình thành, các Ngân
hàng không còn hoạt động riêng lẽ mà đã tạo ra một hệ thống, trong đó Ngân hàng
Nhà nước là cơ quan quản lý về tiền tệ- tín dụng, là ngân hàng của các ngân hàng.
Các Ngân hàng còn lại chuyên kinh doanh tiền tệ, nhờ hoạt động trong hệ thống các
Ngân hàng thương mại đã tạo ra “ bút tệ” thay thế cho tiền mặt. Đây là sáng kiến
quan trọng thứ hai trong lịch sử hoạt động ngân hàng. Chính nhờ phương thức tạo


13

tiền này mà Ngân hàng chẳng những bảo đảm cho sự phát triển của mình, mà còn
trở thành trung tâm tiền tệ của đời sống kinh tế hiện đại.
Quá trình tạo tiền của Ngân hàng thương mại được thực hiện thông qua hoạt
động tín dụng và thanh toán trong hệ thống Ngân hàng trong mối liên hệ chặt chẽ

với hệ thống Ngân hàng Nhà nước. Chúng ta giả định rằng tất cả các Ngân hàng
thương mại đều không giữ lại tiền dự trữ quá mức qui định, các tờ séc không chuyển
thành tiền mặt và các yếu tố phức tạp khác được bỏ qua thì tiền “ bút tệ” do các
Ngân hàng thương mại tạo ra bằng cách biến mức tiền gửi ban đầu tại một Ngân
hàng đầu tiên nhận tiền gửi thành một khoản tiền lớn hơn gấp nhiều lần khi thực
hiện các nghiệp vụ tín dụng thanh toán qua nhiều Ngân hàng. Một Ngân hàng cho
vay xong thì số vốn đó lại chuyển sang Ngân hàng khác và sẽ trở thành vốn tiền gửi
của các Ngân hàng khác.
Ngày nay, tiền của hệ thống NHTM chiếm bộ phận lớn trong tổng khối tiền tệ
ở các nước có nền kinh tế phát triển. Một nền kinh tế càng đi dần vào hiện đại,
càng phát triển bao nhiêu, nền kinh tế ấy càng sử dụng nhiều hơn tiền do các Ngân
hàng thương mại tạo ra. Các công cụ tạo ra tiền của Ngân hàng thương mại thật sự
thúc đẩy việc tăng trưởng nền kinh tế. Vì vậy, sự tạo tiền của các Ngân hàng thương
mại có ý nghóa to lớn và toàn diện: một hệ thống tín dụng năng động có vai trò cực
kỳ quan trọng như là người mở đầu, người tham gia và là người quyết định đối với
mọi quá trình sản xuất. Nhờ tín dụng tạo tiền mà quá trình sản xuất trôi chảy, trên cơ
sở đó tạo nguồn tích luỹ cho bản thân Ngân hàng thương mại và nền kinh tế. Đồng
thời có vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, vì tín
dụng Ngân hàng thực hiện vai trò của nó như là một kênh để thông qua đó, tiền
cung ứng được tăng lên hoặc giảm xuống phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế.
Ngân hàng thương mại tạo ra bút tệ xuất phát từ tiền của Ngân hàng Nhà
nước. Nếu không có sự ràng buộc nào, thì khả năng tạo ra bút tệ là vô hạn. Tuy


14

nhiên dưới sự kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng thương mại chỉ tạo
tiền “bút tệ” trong một giới hạn nhất định. Chức năng tạo tiền của Ngân hàng
thương mại chỉ thực hiện được khi Ngân hàng thương mại huy động đã cho vay và số
tiền vay đó phải luân chuyển trong hệ thống Ngân hàng thương mại. Do vậy, nếu

Ngân hàng thương mại không tạo được tiền có nghóa là Ngân hàng thương mại đã
không không tạo ra điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất.
Trong thời kỳ kinh tế kế hoạch tập trung , Ngân hàng Việt Nam không mở
rộng việc thu nhận tiền gửi vào tài khoản séc, việc thanh toán bằng séc trong dân cư
không được phổ biến. Ngân hàng ít cung cấp tín dụng qua tài khoản tiền gửi và tài
khoản vãng lai , nên khả năng sáng tạo bút tệ của Ngân hàng rất hạn hẹp, không
tạo ra được bội số của tiền gửi ban đầu, mà chỉ có một tỷ lệ phần trăm nhỏ của số
tiền gửi ấy trở lại Ngân hàng dưới dạng gia tăng ký thác ứng lập.
Muốn tạo ra bút tệ phải sử dụng cả hệ thống Ngân hàng. Một Ngân hàng
đơn độc khó có khả năng tạo tiền, hoặc việc tạo tiền diễn ra ở một Ngân hàng
thương mại chỉ là tạm thời trong một lúc nào đó. Một Ngân hàng thương mại duy
nhất không thể tạo dựng bức tranh toàn cảnh về quá trình tạo tiền. Hay nói cách
khác, quá trình tạo tiền là hệ quả tổng hợp của hoạt động nhận tiền gửi, thanh toán
hộ và cho vay của các Ngân hàng thương mại và luôn có sự trợ giúp của Ngân hàng
Nhà nước. (Ngân hàng Nhà nước sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ để gia tăng
hay khống chế khả năng tạo tiền của Ngân hàng thương mại theo ý đồ của mình).
Việc tạo tiền của Ngân hàng thương mại đến lúc nào đó, giới hạn nào đó sẽ lôi cuốn
việc phát hành thêm tiền của Ngân hàng Nhà nước, bởi vì việc tạo tiền có khả năng
là cho các Ngân hàng thương mại mất khả năng chi trả tiền mặt và lúc đó Ngân
hàng Nhà nước phải cho các Ngân hàng thương mại vay để bù đắp thiếu hụt thanh
khoản; trong khi đó, Ngân hàng Nhà nước không cho vay các tổ chức tài chính phi
ngân hàng vì chúng không tạo ra tiền.


15

1.3. Hoạt động kinh doanh Ngân hàng thương mại:
1.3.1. Huy động vốn.
Huy động vốn là hoạt động chủ yếu và thường xuyên của Ngân hàng thương
mại, là mối quan tâm hàng đầu của các Ngân hàng. Nguồn vốn huy động chiếm tỷ

trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn hoạt động của Ngân hàng.
Về phương diện pháp lý, người gửi tiền có quyền lựa chọn các loại tiền gửi
theo yêu cầu và được hưởng các dịch vụ ngân quỹ do Ngân hàng Nhà nước cung ứng
hoặc được hưởng lãi suất, đồng thời Ngân hàng tùy nghi sử dụng tiền gửi đó vào
hoạt động kinh doanh của Ngân hàng với cam kết thực hiện việc hoàn trả vào thời
điểm mà người gửi yêu cầu đối với từng loại tiền gửi. Luật pháp cũng qui định rỏ
trách nhiệm và quyền lợi của Ngân hàng khi nhận tiền gửi của khách hàng, và
chính nghiệp vụ gửi tiền là một tiêu chuẩn để phân biệt giữa Ngân hàng thương
mại và các tổ chức tài chính trung gian khác. Ngân hàng thương mại trở thành người
bảo quản các số tiền đó, được phép sử dụng vào hoạt động chuyên môn của mình,
nhưng đồng thời cũng có trách nhiệm hoàn lại vốn trong các điều kiện đã được qui
định.
Ngân hàng thương mại huy động vốn dưới các hình thức sau:
-Tiền gửi thanh toán : Là loại tiền gửi được các tổ chức kinh tế, cá nhân gửi
vào Ngân hàng để thực hiện các khoản chi trả trong hoạt động sản xuất kinh doanh
và tiêu dùng. Đây là một bộ phận tiền đang chờ thanh toán, khách hàng gửi tiền
không mất quyền sử dụng số tiền ấy. Họ có thể rút ra, chuyển nhượng hoặc chi trả
trong thanh toán bất kỳ lúc nào theo yêu cầu.
Tiền gửi thanh toán được thể hiện ở Ngân hàng thương mại trên hai loại tài
khoản:


16

* Tài khoản tiền gửi thanh toán ( tài khoản giao dịch hay tài khoản séc), tài
khoản này có số dư có, khách hàng chỉ được sử dụng trong phạm vi tiền gửi của
mình.
*Tài khoản vãng lai : tài khoản này có thể dư có hoặc dư nợ, nghóa là khách
hàng ngoài việc sử dụng vốn tiền gửi của mình còn được dùng khoản tiền do Ngân
hàng cho vay theo sự thỏa thuận trước giữa Ngân hàng và khách hàng.

Tiền gửi của các tổ chức kinh tế : Là loại tiền gửi mà các tổ chức, doanh
nghiệp thường xuyên gửi tại NHTM.
Tiền gửi các tổ chức kinh tế có thể chia ra : tiền gửi có kỳ hạn và không kỳ
hạn:
*Tiền gửi không kỳ hạn: Đây là loại tiền gửi thể hiện khoản tiền tạm thời
nhàn rổi, họ gửi tiền vào Ngân hàng không chú trọng mục đích sinh lời , mà vì mục
đích an toàn tài sản, khi cần có thể rút ra một cách dể dàng.
*Tiền gửi có kỳ hạn: Là loại tiền gửi được ủy thác vào Ngân hàng , có sự
thỏa thuận về thời gian rút tiền giữa Ngân hàng với khách hàng. Tiền gửi có kỳ hạn
được hưởng lãi suất cố định. Tuy nhiên, giữa các loại tiền gửi có kỳ hạn khác nhau
thì lãi suất sẽ khác nhau, thời hạn gửi càng dài thì lãi suất càng cao bởi vì Ngân
hàng có thể dùng tiền gửi này để đầu tư vào những dịch vụ hoặc sản xuất lâu dài,
lợi tức cao và ổn định hơn.
-Tiền gửi tiết kiệm: chủ yếu là tiết kiệm của dân cư, gồm các loại sau:
+Tiết kiệm không kỳ hạn:
Là khoản tiền gửi mà chủ tài khoản có thể rút tiền ra bất kỳ lúc nào mà
không phải báo trước. Số dư tài khoản này thường không lớn , nhưng có ưu điểm
hơn so với tiền gửi thanh toán vì số dư của loại tiền gửi này ít biến động.
+ Tiết kiệm có kỳ hạn:


17

Ngân hàng thương mại thường huy động tiết kiệm với kỳ hạn từ ba tháng
đến một năm. Về nguyên tắc, một khi khách hàng đã gửi tiền vào tài khoản này, sẽ
không được rút ra trước hạn. Để tăng sức cạnh tranh trong thu hút tiền gửi , một số
Ngân hàng thương mại vẫn cho khách hàng rút tiền trước hạn, nhưng trong trường
hợp này tiền gửi của khách hàng chỉ được tính theo lãi suất không kỳ hạn.
+Tiết kiệm dài hạn: đối với tài khoản này, bất kỳ lúc nào chủ tài khoản cũng
có thể gửi tiền vào tài khoản với số lượng không hạn chế, nhưng chỉ được rút ra khi

đến hạn. Đây là loại hình tiết kiệm mà Ngân hàng cần tận dụng nhằm tạo các
nguồn vốn có tính ổn định cao phục vụ cho hoạt động cấp tín dụng dài hạn .
Ngoài các hình thức tiền gửi, các Ngân hàng thương mại còn huy động vốn
dưới các hình thức khác để thu hút các khoản tiền nhàn rổi của các chủ thể trong
nền kinh tế bằng cách phát hành chứng chỉ tiền gửi và trái phiếu. Cả hai hình thức
huy động này đều phát hành từng đợt và mổi lần phát hành phải được phép của
Ngân hàng Nhà nước hoặc của y ban chứng khoán quốc gia.
-Phát hành chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá lớn: Việc huy động các chứng chỉ
tiền gửi thuộc loại này có ý nghóa quan trọng trong việc quản lý tài sản nợ hơn là
biện pháp để các Ngân hàng thương mại huy động vốn vì nó chỉ được sử dụng khi
cần thiết.
Mức lãi được trả cho các chứng chỉ tiền gửi do sự thỏa thuận trực tiếp giữa
Ngân hàng và người gửi tiền hoặc ở mức mà người gửi tiền có thể chấp nhận được.
Xuất phát từ thực tế khách quan : những người mua chứng chỉ tiền gửi này rất
nhạy cảm với sự thay đổi của lãi suất. Để huy động được vốn nhằm đáp ứng các nhu
cầu thanh toán hay nhu cầu tín dụng, các Ngân hàng thương mại có thể đưa ra các
mức lãi suất cao hơn so với các chứng chỉ tiền gửi khác.
- Phát hành trái phiếu: Trái phiếu Ngân hàng là một công cụ vay nợ dài hạn
trên thị trường vốn dưới hình thức giấy nhận nợ do các tổ chức tín dụng phát haønh


18

để huy động vốn, trong đó cam kết trả lãi và gốc cho người mua (hoặc người sở
hữu) sau một thời gian nhất định. Về phía người mua, trái phiếu Ngân hàng là giấy
chứng nhận việc đầu tư vốn và quyền được hưởng thu nhập của người mua trên số
tiền mua trái phiếu Ngân hàng.
Thực chất, hình thức tạo vốn này đã giúp cho các Ngân hàng thương mại chủ
động trong việc huy động vốn để thực hiện các dự án đầu tư dài hạn vì nguồn vốn
này có tính ổn định cao về thời gian sử dụng và lãi suất.

1.3.2. Hoạt động tín dụng.
Chúng ta biết rằng: Tín dụng là một phạm trù kinh tế, nó đã tồn tại và phát
triển qua nhiều hình thái kinh tế-xã hội. Nếu hiểu theo nghóa hẹp thì tín dụng là sự
vay mượn trong đó hai chủ thể người đi vay và người cho vay , sẽ thỏa thuận một
thời hạn nợ và mức lãi suất cụ thể. Nếu hiểu theo nghóa rộng thì tín dụng là sự vận
động của các nguồn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu.
Từ tín dụng được sử dụng ngày nay (tiếng Anh: Credit, Pháp: Crédit) xuất
phát từ gốc Latin Creditum là lòng tin và sự tín nhiệm. Ở đây muốn nói về niềm tin
mà người cho vay hướng về người đi vay khi đem tiền bạc, tài sản ra cho vay, họ
phải có cơ sở tin rằng người đi vay sẽ hoàn trả nợ đúng hạn và ngược lại người đi
vay cũng tin tưởng vào Ngân hàng khi đem tài sản của mình thế chấp, cầm cố vào
Ngân hàng. Nói cách khác để quan hệ tín dụng tồn tại đòi hỏi phải tạo lập được
niềm tin và đây là cơ sở quan trọng cho quan hệ tín dụng hình thành. Như vậy khái
niệm tổng quát về tín dụng có thể đưa ra là: tín dụng là một quan hệ vay mượn dựa
trên nguyên tắc có hoàn trả (cảø vốn và lãi) sau một thời gian nhất định.
Từ khái niệm trên cho thấy trong quan hệ tín dụng người cho vay chỉ nhượng
lại quyền sử dụng vốn cho người đi vay trong một thời gian nhất định. Tuy nhiên,
người đi vay không có quyền sở hữu trên số vốn ấy nên phải hoàn trả lại cho người
đi vay khi đến thời hạn đã thoả thuận. Sự hoàn trả này không chỉ là sự bảo tồn về


19

mặt giá trị mà vốn tín dụng còn được tăng thêm dưới hình thức lợi tức. Ở đây, quá
trình vận động mang tính chất hoàn trả của tín dụng là biểu hiện đặc trưng nhất về
sự khác biệt giữa quan hệ tín dụng và các mối quan hệ khác.
Quan hệ tín dụng dù vận động ở phương thức sản xuất nào, đối tượng vay
mượn là hàng hoá hay tiền tệ thì tín dụng cũng mang ba đặc điểm cơ bản:
- Người cho vay chuyển giao một lượng tài sản do mình sở hữu cho người đi
vay được quyền sử dụng trong một thời gian nhất định.

- Thời hạn tín dụng được xác định do thoả thuận giữa người cho vay và người
đi vay.
- Người sở hữu tín dụng được nhận một phần thu nhập dưới hình thức lợi tức.
1.3.2.1- Chức năng của tín dụng: trong nền kinh tế hàng hoá, tín dụng thể hiện
2 chức năng cơ bản sau:
a/ Tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ là 2 quá trình thống nhất trong sự vận
hành của hệ thống tín dụng. Ở đây sự có mặt của tín dụng được xem như chiếc cầu
nối giữa các nguồn cung – cầu về vốn tiền tệ trong nền kinh tế.
Thông qua chức năng này, tín dụng đã trực tiếp tham gia điều tiết các nguồn
vốn tạm thời thừa từ các cá nhân, các tổ chức kinh tế để bổ sung kịp thời cho những
doanh nghiệp, nhà nước hay cá nhân đang gặp thiếu hụt về vốn. Nói cách khác:
- Khâu tập trung, tín dụng là nơi tập hợp những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi
trong xã hội.
- Khâu phân phối lại vốn tiền tệ, tín dụng là nơi đáp ứng nhu cầu vốn cho
doanh nghiệp, các cá nhân và cho cả ngân sách.
Khác với phương pháp ngân sách, việc phân phối mang tính chất cấp phát
không hoàn trả phục vụ chủ yếu cho lónh vực phi sản xuất; phân phối vốn qua hệ
thống tín dụng trên cơ sở hoàn trả, phục vụ chủ yếu cho nhu cầu sản xuất lưu thông


20

và dịch vụ. Qua đó, góp phần đáng kể vào nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế trong
từng thời kỳ nhất định.
Trên thực tế, vận dụng chức năng của tín dụng được thể hiện thông qua hoạt
động của hệ thống các tổ chức tín dụng. Đây là loại hình tín dụng gián tiếp của xã
hội, nghóa là quá trình tập trung và phân phối phải qua các tổ chức trung gian. Ngoài
ra, trong điều kiện kinh tế thị trường tín dụng còn thể hiện bằng loại hình tín dụng
trực tiếp như: mua bán chịu hàng hoá giữa các doanh nghiệp, các doanh nghiệp hay
nhà nước sẽ tự huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu trên thị trường chứng

khoán.
Như vậy, nếu trong điều kiện cơ chế quản lý kinh tế theo kế hoạch chức năng
tập trung và phân phối lại vốn của tín dụng chỉ được thực hiện hầu hết qua các tổ
chức trung gian, thì trong điều kiện cơ chế thị trường cùng với sự đa dạng các hình
thức tín dụng, việc tổ chức phân phối vốn tín dụng cũng được phong phú hơn, tạo
điều kiện điều phối vốn linh hoạt và hiệu quả hơn.
Thực hiện chức năng này, tín dụng còn góp phần tiết kiệm tiền mặt và các chi
phí lưu thông cho xã hội, biểu hiện cụ thể qua những điểm sau:
Qua quá trình huy động kịp thời những nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội,
những khoản vốn này đang tạm thời đứng yên sẽ được đưa vào chu chuyển, nghóa là
tín dụng đã tăng nhịp độ vòng quay của đồng tiền, giảm đồng tiền dư thừa nhằm ổn
định lưu thông tiền tệ. Hơn nữa, trong điều kiện hệ thống Ngân hàng phát triển thì
song song với quá trình tổ chức nghiệp vụ tín dụng sẽ là việc mở rộng nghiệp vụ
thanh toán không dùng tiền mặt, tạo điều kiện cho sự ra đời của bút tệ, điều này làm
giảm nhu cầu tiền mặt trong lưu thông, đồng thời giảm những chi phí in ấn giấy bạc,
chi phí bảo quản tiền, vận chuyển tiền,….
Tóm lại, chức năng tập trung và phân phối lại vốn là chức năng cơ bản và
quan trọng nhất của tín dụng: ngoài tác dụng chủ yếu là thúc đẩy nền kinh tế tăng


21

trưởng, sự vận dụng chức năng trên thực tế còn góp phần tiết kiệm tiền mặt và chi
phí lưu thông cho xã hội.
b/ Phản ánh các hoạt động kinh tế:
Chức năng này được phát huy tác dụng phụ thuộc vào sự phát triển của chức
năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ trên cơ sở có hoàn trả nêu trên, cụ thể là:
Thông qua quá trình tập trung và phân phối lại vốn, tín dụng góp phần phản
ánh được mức độ phát triển của nền kinh tế về các mặt như: khối lượng tiền nhàn
rỗi trong xã hội, nhu cầu vốn trong từng thời kỳ…. từ đó giúp chúng ta có cái nhìn

tổng quát về những quan hệ cân đối lớn trong nền kinh tế đặc biệt là quan hệ giữa
tích luỹ và tiêu dùng như: trong tổng nguồn vốn tích luỹ thì kết cấu gồm những
khoản nào, được huy động từ những thành phần và đối tượng nào, với khối lượng và
sự biến động qua từng thời kỳ là bao nhiêu…. hoặc với nguồn vốn giành cho tiêu
dùng thì tiêu dùng công cộng, tiêu dùng cho cá nhân là bao nhiêu…
Đặc biệt trong hoạt động cho vay của Ngân hàng để góp phần đảm bảo an
toàn về nguồn vốn, Ngân hàng luôn thực hiện quá trình kiểm tra tình hình tài chính
của đơn vị qua đó giúp cho các cơ quan chức năng phát hiện kịp thời những trường
hợp vi phạm chế độ quản lý kinh tế của Nhà nước. Bên cạnh đó, trên cơ sở thực hiện
nguyên tắc cho vay có hoàn trả, tín dụng ngân hàng còn phản ánh kịp thời tình hình
quản lý và sử dụng vốn của các đơn vị có hiệu quả hay không.
Ngoài ra, thông qua việc tổ chức công tác thanh toán không dùng tiền mặt còn
tạo điều kiện để Ngân hàng tăng cường vai trò kiểm soát bằng đồng tiền đối với các
đơn vị kinh tế, vì mọi quá trình hình thành và sử dụng vốn của doanh nghiệp đều
được phản ánh và lưu giữ qua số liệu trên tài khoản tiền gửi. Từ đó, Ngân hàng có
cái nhìn tương đối tổng quát về cấu trúc tài chính của các đơn vị.
Như vậy, với chức năng phản ánh và kiểm soát các hoạt động kinh tế sẽ góp
phần giải quyết tình trạng mất cân đối cục bộ của nền kinh tế với những giải pháp


22

khắc phục kịp thời, nhằm phát huy vai trò quản lý và điều tiết vó mô của nhà nước.
Điều này cũng có nghóa là tín dụng cần phải được vận dụng như một trong những
đòn bẩy kích thích kinh tế không thể thiếu trong quá trình tổ chức quản lý kinh tếtài chính, kiểm soát và thúc đẩy các hoạt động kinh tế quốc dân.
1.3.2.2 – Vai trò của tín dụng:
Nói đến vai trò tín dụng, nghóa là nói đến sự tác động của tín dụng đối với
nền kinh tế – xã hội. Vai trò của tín dụng bao gồm hai mặt: mặt tích cực và mặt tiêu
cực. Chẳng hạn nếu để tín dụng phát triển tràn lan không kiểm soát, thì không
những không làm cho nền kinh tế phát triển mà còn làm cho lạm phát có thể gia

tăng, gây ảnh hưởng đến đời sống kinh tế – xã hội. Mặt tích cực, tín dụng có vai trò
to lớn sau đây:
. Thứ nhất : Tín dụng góp phần thúc đẩy sản xuất lưu thông hàng hoá.
- Tín dụng, trước hết là nguồn cung ứng vốn cho các doanh ngiệp, các tổ chức
kinh tế .
- Tín dụng là một trong những công cụ để tập trung vốn một cách hữu hiệu
trong nền kinh tế.
- Tín dụng không những là công cụ tập trung vốn mà còn là công cụ thúc đẩy
tích tụ vốn cho xí nghiệp, tổ chức kinh têá.
Có thể nói, trong nền kinh tế –xã hội, tín dụng đều phát huy vai trò to lớn nói
trên của nó.
+ Đối với doanh nghiệp: Tín dụng góp phần cung ứng vốn bao gồm vốn cố
định và vốn lưu động.
+ Đối với dân chúng: Tín dụng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư.
+ Đối với toàn xã hội: Tín dụng làm tăng hiệu suất sử dụng đồng vốn.
Tất cả đều hợp lực tác động lên đời sống kinh tế – xã hội kiến tạo ra động
lực phát triển rất mạnh mẽ mà không có công cụ tài chính nào có thể thay thế được.


23

Thực hiện vai trò này, tín dụng luôn là người trợ thủ đắc lực cho các doanh
nghiệp và là người bạn đồng hành trong quá trình phát triển kinh tế.
. Thứ hai : Tín dụng góp phần ổn định tiền tệ, ổn định giá cả:
Với chức năng tập trung và tận dụng nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, tín
dụng đã trực tiếp giãm khối lượng tiền mặt tồn đọng trong lưu thông. Lượng tiền dôi
thừa nầøy nếu không được huy động và sử dụng kịp thời có thể gây ảnh hưởng xấu
đến tình hình lưu thông tiền tệ dẫn tới mất cân đối trong quan hệ hàng – tiền và hệ
thống giá cả bị biến động là điều không thể tránh khỏi. Do đó, trong điều kiện nền
kinh tế bị lạm phát, tín dụng được xem như là một trong những biện pháp hữu hiệu

góp phần giãm lạm phát.
Mặt khác, tín dụng còn tạo điều kiện mở rộng công tác thanh toán không
dùng tiền mặt. Đây là một trong những nhân tố tích cực tiết giảm việc sử dụng lượng
tiền mặt trong nền kinh tế.
Trong những thập niên gần đây, ở hầu hết các nước có nền kinh tế phát triển,
trong các công cụ điều tiết vó mô của nhà nước nhằm thực hiện mục tiêu của chính
sách tiền tệ trong từng thời kỳ, thì lãi suất tín dụng đã trở thành công cụ điều tiết
linh hoạt và nhạy bén của nền kinh tế.
.Thứ ba: Tín dụng góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm và ổn
định trật tự – xã hội.
Vai trò này của tín dụng có thể nói là hệ quả tất yếu của 2 vai trò nêu trên.
Một mặt, do tín dụng có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển, sản xuất hàng hoá
và dịch vụ ngày càng gia tăng góp phần thoả mãn nhu cầu đời sống của người lao
động. Mặt khác, do vốn tín dụng cung ứng đã tạo ra khả năng trong việc khai thác
các tiềm năng sẵn có trong xã hội về tài nguyên thiên nhiên, về lao động, đất đai…
Do đó có thể thu hút nhiều lực lượng lao động của xã hội để tạo ra lực lượng sản
xuất mới thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.


24

Hoạt động tín dụng không chỉ đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp mà
còn phục vụ cho các tầng lớp dân cư. Trong nền kinh tế, bên cạnh các Ngân hàng
còn có hệ thống các tổ chức tín dụng dân cư sẵn sàng cung ứng nhu cầu vay vốn
hợp lý của cá nhân như: phát triển kinh tế gia đình, mua sắm nhà cửa, tư liệu sinh
hoạt…. Nắm bắt tình hình đó, ngoài việc phát triển các loại hình như : Ngân hàng
phục vụ người nghèo ( nay là Ngân hàng Chính sách xã hội), Quỹ xóa đói giảm
nghèo…. … nhằm mục đích cải thiện từng bước đời sống của nhân dân tạo công ăn
việc làm, giãm tỷ lệ thất nghiệp, qua đó, góp phần ổn định trật tự xã hội.
Ngoài ra, tín dụng còn có vai trò quan trọng để mở rộng, phát triển các mối

quan hệ kinh tế đối ngoại và mở rộng giao lưu quốc tế . Sự phát triển của tín dụng
không những ở phạm vi quốc nội mà còn mở rộng ra cả phạm vi quốc tế, nhờ đó nó
thúc đẩy mở rộng và phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại; nhằm giúp đỡ và giải
quyết các nhu cầu lẫn nhau trong quá trình phát triển đi lên của mỗi nước, làm cho
các nước có điều kiện xích lại gần nhau hơn và cùng nhau phát triển.
1.3.2.3. Các hình thức của tín dụng trong nền kinh tế thị trường:
Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng hoạt động rất đa dạng và phong phú.
Trong quản lý tín dụng tuỳ theo các tiêu thức khác nhau mà có cách phân loại khác
nhau.
1.3.2.3.1. Căn cứ theo thời hạn :
- Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn đến 12 tháng, được sử dụng
để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động cho các doanh nghiệp, các nhu cầu chi tiêu
ngắn hạn của cá nhân .
- Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 12 tháng đến 5 năm,
được sử dụng để mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị công nghệ,
mở rộng sản xuất kinh doanh …


25

- Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ 5 năm trở lên. Đây là loại
hình tín dụng được cung cấp để đáp ứng nhu cầu dài hạn: xây dựng nhà ở, các thiết
bị, phương tiện vận tải có qui mô, xây dựng các xí nghiệp mới…
1.3.2.3.2. Căn cứ vào tính chất sử dụng vốn vay .
a* Tín dụng sản xuất: Là loại cho vay để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh
doanh, được thể hiện dưới những hình thức:
- Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây
dựng nhà ở, đất đai, bất động sản trong lónh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
- Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung
vốn lưu động cho các thành phần kinh tế hoạt động trong lónh vực công nghiệp

thương mại dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như :
phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, lao động, nhiên liệu …
- Cho vay các định chế tài chính: bao gồm cho vay các ngân hàng, công ty tài
chính, công ty cho thuê tài chánh, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng và các định chế tài
chánh khác .
b*- Tín dụng tiêu dùng: là loại cho vay để đáp ứng nhu cầu mua sắm, tiêu
dùng, đầu tư các cơ sở hạ tầng: trạm xá, điện, nước sạch, trường học, đường giao
thông nông thôn … phục vụ cho sản xuất sinh hoạt trong một khu vực dân cư .
Mục đích của tín dụng tiêu dùng nhằm từng bước cải thiện đời sống vật chất
và sinh hoạt của các thành viên trong xã hội. Mặt khác , khuyến khích nhân dân
tiêu thụ hàng hóa trong điều kiện năng suất lao động tăng cao.
1.3.2.3.3. Căn cứ vào tính chất đảm bảo :
a- Cho vay có đảm bảo bằng tài sản là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo
đảm như : thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh bằng tài sản của người thứ ba, cho vay
bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay.


26

b- Cho vay không đảm bảo bằng tài sản là loại cho vay không có tài sản thế
chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba; mà việc cho vay nầy do chính các tổ
chức tín dụng (TCTD) chủ động lựa chọn trên cơ sở các phương án vay vốn hiệu
quả, khả thi và độ tín nhiệm, uy tín trong quan hệ tín dụng của khách hàng.
1.3.2.3.4. Căn cứ vào chủ thể:
Trong nền kinh tế thị trường tồn tại ba hình thái tín dụng chủ yếu đó là: tín
dụng thương mại, tín dụng nhà nước, tín dụng ngân hàng.
* Tín dụng thương mại (tín dụng hàng hóa) :
Đây là quan hệ tín dụng giữa các tổ chức kinh tế, các công ty xí nghiệp với
nhau được thực hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa cho nhau, loại tín dụng

nầy, người bán có thể đẩy nhanh quá trình tiêu thụ hàng hóa giúp giảm chi phí lưu
kho, chi phí bảo quản … Người mua sớm có được hàng để sản xuất kinh doanh, đảm
bảo quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục .
Đối tượng của tín dụng thương mại(TDTM ) là hàng hóa chớ không phải là
tiền. Sự vận đông và phát triển của TDTM gắn với sự phát triển của sản xuất và trao
đổi hàng hóa; Khi sản xuất hàng hóa được phát triển và mở rộng thì TDTM cũng
được mở rộng và ngược lại khi sản xuất bị thu hẹp thì TDTM cũng bị thu hẹp. TDTM
góp phần vào việc giải quyết nhu cầu vốn cho nền kinh tế, nhờ đó đảm bảo sản xuất
kinh doanh không chỉ duy trì một cách thường xuyên mà còn có điều kiện mở rộng.
Do TDTM được hình thành trên cơ sở tín nhiệm lẫn nhau giữa hai chủ thể
mua và bán, với những giới hạn nhất định nên TDTM không thể đáp ứng mọi nhu
cầu của tái sản xuất trong nền kinh tế. Sự hạn chế nầy được khắc phục bổ sung ở các
thế mạnh của các loại tín dụng khác .
* Tín dụng ngân hàng:


27

Đây là quan hệ tín dụng chủ yếu giữa ngân hàng với các doanh nghiệp, các cá
nhân. Là hình thức mà các quan hệ tín dụng được thực hiện thông qua vai trò trung
tâm của ngân hàng.
Theo các nhà kinh tế cho rằng :“ Tín dụng ngân hàng là sự giao dịch về tài sản,
trong đó ngân hàng cho vay vốn đối với các chủ thể cần vốn trong nền kinh tế, các chủ
thể này cam kết hoàn trả vốn cùng lãi cho ngân hàng theo đúng thời hạn như đã thỏa
thuận”.
Điều 20, Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam nêu : “Cấp tín dụng là việc tổ
chức tín dụng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có
hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân
hàng và các nghiệp vụ khác...”
* Tín dụng nhà nước (TDNN):

Đây là quan hệ tín dụng giữa nhà nước bao gồm nhà nước trung ương và nhà
nước địa phương với các tổ chức kinh tế, các cá nhân trong và ngoài nước; Trong đó
nhà nước đứng ra huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu để sử dụng vì mục
đích kinh tế, chính trị cũng như mục đích mang lại lợi ích cho toàn xã hội. TDNN
hoạt động bằng công cụ truyền thống và phổ biến của nó là trái phiếu .
- Căn cứ vào thời hạn, có 3 loại : Trái phiếu ngắn hạn ( < 1năm ), trái phiếu
trung hạn ( 1 – 3 năm ) và trái phiếu dài hạn ( > 3 năm ) .
- Căn cứ vào cách tính và trả lãi có 3 loại : Trái phiếu lãi suất cố định, trái
phiếu chiết khấu, trái phiếu trả lãi vào cuối kỳ .
TDNN có chức năng bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước nhằm giải quyết
những thiếu hụt trong chi tiêu và cao hơn là bù đắp thiếu hụt trong đầu tư phát triển
kinh tế, cũng như để tăng cường nguồn lực tài chính nhằm thu thi các chính sách
quản lý vó mô đối với nền kinh tế –xã hội.


28

TDNN là loại hình tín dụng phát triển mạnh trong thời đại ngày nay, đặc biệt
là các nước phát triển có thị trường tài chính hoạt động hữu hiệu.
1.3.3. Hoạt động đầu tư.
Hoạt động cho vay đem lại phần lớn lợi tức cho ngân hàng, nhưng nguồn lợi
quan trọng thứ hai, sau cho vay là các khoản đầu tư.
Trong các loại hình đầu tư của ngân hàng, đầu tư vào chứng khoán là lọai
hình phổ biến nhất trong tài sản có của các NHTM tại các nước phát triển.
Ngoài ra, các ngân hàng còn đầu tư vào các lọai tài sản như: bất động sản, cơ
sở hạ tầng, trang thiết bị…
Các ngân hàng thương mại mua chứng khoán vì các mục đích thanh khoản và
đa dạng hóa hoạt động, để nâng cao lợi tức và phục vụ như là vật ký quỹ cho các tài
sản nợ ký thác. Tỷ lệ lớn nhất của đầu tư chứng khoán là trái phiếu nhà nước. Đầu tư
ngắn hạn vào các chứng khoán Chính phủ thường có mức lãi hạn chế nhưng linh

hoạt, không có rủi ro tín dụng và ít rủi ro về lãi suất so với các trái phiếu dài hạn.
Các ngân hàng cũng mua các chứng khoán khác với số lượng nhỏ, chủ yếu là
các chứng khoán nhằm cung cấp thanh khoản như: hối phiếu chấp nhận thanh toán,
thương phiếu thị trường mở, tiền vay của người môi giới và giấy chứng nhận tiền lãi
của công ty tín dụng hàng hóa thương mại. Để gia tăng lợi tức, các khoản đầu tư
cũng hướng vào các trái phiếu do một số cơ quan nhà nước phát hành và trong một
giới hạn, cho các trái phiếu công ty.
Các ngân hàng lớn, tỷ lệ đầu tư chứng khoán so với tổng tài sản có ít hơn
nhiều so với các ngân hàng nhỏ.
Mỗi ngân hàng thương mại đều có một chính sách đầu tư riêng. Các yếu tố cơ
bản quyết định các mục tiêu chính của chính sách đầu tư của ngân hàng là lợi tức,
nhu cầu thanh khoản và sự sẵn sàng chấp nhận rủi ro của nhà quản trị.


×