Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Imanuen Kant bàn về cái cao cả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.2 KB, 8 trang )

JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
2014, Vol. 59, No. 6BC, pp. 45-52
This paper is available online at

IMANUEN KANT BÀN VỀ CÁI CAO CẢ
Tiêu Thị Mỹ Hồng
Khoa Lí luận chính trị - Giáo dục công dân, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Imanuen Kant - người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức. Ơng khơng chỉ được
biết đến với tư cách là một nhà triết học mà còn được nhân loại nhắc đến với tư cách là
một nhà mĩ học có nhiều đóng góp cho sự phát triển của khoa học này. Mĩ học của I.Kant
là một trong những nguồn gốc lí luận trực tiếp quan trọng nhất của mĩ học Mác - Lê nin.
Trong Phê phán năng lực phán đốn, ơng đã bàn đến rất nhiều vấn đề trong đó có đi sâu
nghiên cứu phạm trù cái Cao cả. Trên cơ sở của triết học duy tâm chủ quan, ông coi cái
Cao cả là biểu tượng của chủ thể, do chủ thể thẩm mĩ phán đoán và suy xét, nó ứng vào
khách thể chứ khơng phải bản thân khách thể. Phân tích cái Cao cả, Kant chia chúng thành
hai loại: Cao cả về số lượng và cao cả về uy lực. Cảm xúc về cái Cao cả và mối quan hệ
giữa cái Cao cả và cái Đẹp cũng được I.Kant bàn đến một cách rất cụ thể...
Từ khóa: Imanuen Kant, mĩ học, phê phán, năng lực phán đoán, cái Cao cả.

1.

Mở đầu

Imanuen Kant (1724 - 1804) là nhà triết học, mĩ học người Đức có nhiều đóng góp cho sự
phát triển của tư tưởng triết học, mĩ học nhân loại thế kỉ XVIII. Mĩ học của ơng mang tính nhân
văn sâu sắc, nó hướng tới việc giải phóng con người cá nhân và tự do lí trí. Trong Phê phán năng
lực phán đốn, Kant bàn đến nhiều vấn đề trong đó đi sâu vào giải quyết hai phạm trù mĩ học cơ
bản đó là cái Đẹp và cái Cao cả. Ở cơng trình này, I.Kant đặt vấn đề khơng có khoa học về cái Đẹp,
chỉ có phán đốn về cái Đẹp mà thơi. Ơng từ chối việc dùng tư duy lí tính để vạch ra quy luật của
cái Đẹp. Tư tưởng cốt lõi này trực tiếp chi phối quan niệm của I.Kant về cái Cao cả (vấn đề được
bàn trong Quyển II với tiêu đề Phân tích pháp về cái Cao cả). Khi bàn về phạm trù này, I.Kant đã


khắc phục và bù đắp sự thiếu hụt về đối tượng cao cả mà nhà mĩ học kinh nghiệm Anh Bơccơ mới
chỉ tiếp cận về mặt khách thể trong tác phẩm Nghiên cứu triết học về nguồn gốc nhận thức của
chúng ta về cái Cao cả và cái Đẹp. Chính vì thế, mĩ học cổ điển Đức nói chung, mĩ học I.Kant nói
riêng là một trong những nguồn gốc lí luận trực tiếp quan trọng nhất của mĩ học Mác - Lê nin. Thế
giới đã viết khá nhiều về I.Kant, và ngày nay người ta vẫn tiếp tục nghiên cứu về ông, bởi lẽ di sản
I.Kant để lại là vô cùng phong phú. Tuy nhiên, trong thời gian qua các học giả đã dành rất nhiều
sự quan tâm cho “vật tự nó”, cho các quan niệm đạo đức, cho chủ thể nhận thức, cho cái Đẹp mà
ít dành sự ưu ái riêng cho phạm trù cái Cao cả. Nghiên cứu phạm trù này một cách sâu sắc sẽ tạo
nên cái nhìn tồn diện hơn về những di sản mà ông để lại đồng thời thấy được những hạt nhân hợp
lí mà sau này mĩ học Mác xít đã kế thừa và phát triển.
Liên hệ: Tiêu Thị Mỹ Hồng, e-mail:

45


Tiêu Thị Mỹ Hồng

2.
2.1.

Nội dung nghiên cứu
Bản chất và phân loại cái Cao cả

Triết học thời kì phê phán của I.Kant nghiên cứu ba lĩnh vực quan trọng trong hệ thống tâm
lí - tinh thần, đó là tri thức, ý chí và tình cảm. Phê phán lí tính thuần túy là tác phẩm thể hiện nhận
thức luận của I.Kant. Phê phán lí tính thực tiễn xây dựng trên giả thuyết linh hồn bất diệt và ý chí
tự do, thực chất là tư tưởng về đạo đức. Còn Phê phán năng lực phán đoán tập trung vào nghiên cứu
các năng lực phán đoán của chủ thể thẩm mĩ. Đây là tác phẩm được xuất bản sau cùng trong bộ ba
tác phẩm phê phán của ơng (1790). Ơng cho rằng, trong mĩ học để khám phá chân lí, nếu chỉ dùng
lí trí thuần túy con người không thể đi đến bản chất của hiện tượng và vì thế phải sử dụng “phán

đốn thẩm mĩ” - một loại phán đốn khơng phải là phán đốn lí tính nhằm đạt tới cái đúng, cũng
khơng phải phán đốn đạo đức nhằm tới cái thiện. Đó là phán đốn tình cảm khơng đối tượng,
loại phán đốn này chỉ quan tâm đến khoái cảm chủ quan về đối tượng, phương thức xúc cảm của
chủ thể thẩm mĩ chứ khơng có chức năng nhận thức đối tượng. Ơng cho rằng cái Đẹp là cái làm
cho mọi người thích thú mà không cần đến khái niệm. Mĩ học của I.Kant thống nhất với triết học
của ông trong việc nhận thức “vật tự nó”. Vì thế, ơng khơng nghiên cứu các hiện tượng thẩm mĩ
khách quan mà là những tình cảm chủ quan được trải nghiệm qua thế giới khách quan. Với “Phê
phán năng lực phán đoán”, Kant đã mở ra một bước ngoặt mới của mĩ học cận đại bằng cách đề
cao thực tiễn tinh thần.
Cùng với việc phân tích cái Đẹp, nghiên cứu các phán đốn thẩm mĩ, mĩ học I.Kant khi điều
hịa giữa mĩ học duy lí và mĩ học kinh nghiệm đã trình bày cái Cao cả như một bộ phận hợp thành
của phán đoán thẩm mĩ. I.Kant đã chia sự phán đoán thẩm mĩ làm hai phần: 1. Phân tích pháp về
cái Đẹp, 2. Phân tích pháp về cái Cao cả. Trên cơ sở cái Đẹp nương tựa (cái Đẹp gắn liền mĩ cảm
với nhận thức và đạo đức), I.Kant đã đặt cơ sở cho cái Đẹp vừa có ý nghĩa thực tiễn, vừa có ý nghĩa
lí tính - cái Đẹp tượng trưng của quan niệm đạo đức. Đó là cái Cao cả.
I. Kant coi cái Cao cả là biểu tượng của chủ thể, do chủ thể thẩm mĩ phán đốn và suy xét,
nó ứng vào khách thể chứ không phải bản thân khách thể. Cái thực sự là cao cả không thể được
chứa đựng trong bất kì một hình thức cảm tính nào: “Khơng thể tìm cái Cao cả ở trong những sự
vật của giới tự nhiên mà chỉ ở trong các ý niệm của ta” [4;117]. Theo ông, cái mà chúng ta gọi là
cao cả chính là cái gì vĩ đại một cách tuyệt đối, nó là cái gì to lớn, vượt ra ngồi mọi sự so sánh,
nếu đem so với nó thì mọi cái khác đều bé nhỏ. Và thực tế thì khơng có một cái nào như vậy tồn tại
trong tự nhiên mà chỉ tồn tại trong đầu óc của con người: “Khơng có gì có thể có ở trong Tự nhiên
- dù được ta đánh giá là lớn như thế nào - lại không bị hạ thấp xuống thành cái nhỏ vô tận nếu
được xem xét trong một mối quan hệ khác; và ngược lại, khơng có gì là nhỏ mà lại không thể mở
rộng thành lớn như cả một thế giới nếu so sánh nó với những tiêu chuẩn cịn nhỏ hơn nữa” [4;118]
và vì thế “khơng có gì có thể là đối tượng của giác quan mà lại được gọi là cao cả nếu được xem
xét trên cơ sở này” [4;118]. Vì thế, cái Cao cả là do ta quyết định chứ không phải tự bản thân đối
tượng. Vì vậy, khi ta nói về một đối tượng đơn giản rằng: “nó là lớn” thì đây khơng phải là một
phán đoán xác định theo kiểu toán học mà chỉ là một phán đốn phản tư mang tính chất biểu tượng
về nó. “Một phán đốn thuần túy về cái Cao cả tuyệt nhiên khơng được lấy bất kì mục đích nào

của đối tượng làm cơ sở quy định cho mình, nếu nó muốn là phán đốn thẩm mĩ chứ khơng muốn
bị pha trộn với một phán đốn của giác tính hay của lí tính” [4;121].
Khi phân loại cái Cao cả, I.Kant xem xét từ hai bình diện:
Lấy xúc cảm của chủ thể làm thước đo đánh giá các hiện tượng thẩm mĩ cao cả, I.Kant chia
46


Imanuen Kant bàn về cái Cao cả

chúng làm ba loại:
Thứ nhất, cái Cao cả khủng khiếp: Đây là những hiện tượng mang đến cho con người cảm
giác khủng khiếp như cánh rừng già hoang sơ, vô tận, biển rộng mênh mơng với những đợt sóng
dữ dội...
Thứ hai, cái Cao cả thanh cao: Đây là những hiện tượng cao cả không nhất thiết phải đồ sộ,
to lớn, kì vĩ nhưng lại có khả năng mang đến cho con người cảm xúc ngưỡng mộ, tự hào và khát
vọng vươn lên hoàn thiện bản thân như những con người có nhân cách vĩ đại...
Thứ ba, cái Cao cả huy hoàng: Là những hiện tượng thẩm mĩ mang hàm chứa cái hoành
tráng với những thắng lợi của con người như những sự kiện lịch sử vĩ đại mang đến thay đổi lớn
cho dân tộc và nhân loại.
Lấy chính bản thân đối tượng làm cơ sở phân loại, Kant đưa ra hai loại hiện tượng cao cả:
cái Cao cả theo cách toán học (hay cái Cao cả về số lượng). I.Kant bàn đến hiện tượng cao
cả này từ bài 25 đến bài 27. Ông cho rằng: Cái mà chúng ta gọi là cao cả chính là cái gì vĩ đại một
cách tuyệt đối, chỉ cái gì to lớn, vượt ra ngồi mọi sự so sánh. I.Kant phân biệt hai khái niệm “cái
gì đó là lớn” và “cái gì đó lớn một cách tuyệt đối”. Chỉ có cái sau mới vượt lên mọi sự so sánh.
Và theo ơng, cái vượt ra ngồi mọi sự so sánh khơng phải là một khái niệm thuần túy giác tính,
càng khơng phải là một trực quan cảm tính, lại càng khơng phải là một khái niệm của lí tính, bởi
nó khơng hề mang theo mình ngun tắc nào của nhận thức cả. Do đó, nó phải là một khái niệm
của năng lực phán đoán. Tuy nhiên, theo I.Kant, số lượng ở phương diện thẩm mĩ khác với tính có
thể đo lường ở phương diện nhận thức. Vì thế, cao cả về số lượng thực chất chính là cảm quan cao
cả về số lượng. Để lí giải cho điều này: Ơng khẳng định trong thiên nhiên khơng có một cái gì dù

chúng ta cho là to lớn đến đâu đi chăng nữa mà trong hồn cảnh khác nó lại khơng bị hạ thấp đến
mức vô cùng nhỏ bé và ngược lại. Đồng thời, tất cả những gì là to lớn trong thiên nhiên lại khơng
là nhỏ bé đối với trí tưởng tượng của con người. Vì thế, phán đốn thẩm mĩ thuần túy về cái Cao
cả không lấy khái niệm về đối tượng làm căn cứ quyết định. Việc lượng định độ lớn bằng các khái
niệm của con số hay bằng các kí hiệu của chúng trong đại số học là có tính tốn học, cịn sự lượng
định trong trực quan đơn thuần bằng mắt là có tính thẩm mĩ. Khơng cái gì là đối tượng của giác
quan lại có thể được coi là cao cả. Cái Cao cả khơng có trong bất cứ khách thể nào của thiên nhiên
mà chỉ có trong tâm trí chúng ta mà thơi. “Đối với việc lượng định độ lớn tốn học, khơng thể có
cái “lớn nhất”(vì sức mạnh của những con số là có thể đi tới vô tận); nhưng, trong việc lượng định
độ lớn theo kiểu thẩm mĩ thì lại có một cái “lớn nhất”; nó được đánh giá như là Độ tuyệt đối, nghĩa
là bên ngồi nó khơng thể có cái gì lớn hơn được nữa một cách chủ quan (tức đối với chủ thể phán
đốn), nó mang theo mình Ý niệm về cái Cao cả và tạo nên một sự rung ng (Răuhrung) m khụng
mt s lng nh ln no theo kiểu tốn học bằng những con số có thể tạo ra được (trừ khi
trong chừng mực Độ cơ bản mang tính thẩm mĩ được duy trì một cách sống động ở trong trí tưởng
tượng). Lí do là vì cái sau bao giờ cũng chỉ diễn tả độ lớn tương đối qua việc so sánh với những độ
lớn khác cùng loại, còn cái trước diễn tả độ lớn một cách tuyệt đối (schlechthin), trong chừng mực
tâm thức có thể nắm bắt nó ở trong một trực quan” [4;119]. Đối với sự lượng định độ lớn theo kiểu
tốn học, trí tưởng tượng hồn tồn có đủ năng lực để cung cấp một Độ đáp ứng đúng các địi hỏi
của bất kì đối tượng nào. Bởi vì các khái niệm về con số của giác tính, bằng con đường tổng hợp
tiến lên có thể tạo ra bất kì Độ nào tương ứng với bất kì độ lớn nào được cho. Do đó, nó phải là sự
lượng định độ lớn theo kiểu thẩm mĩ. Và từ đó, ơng cho rằng: Mọi sự vật, hiện tượng được coi là
cao cả chỉ bởi nó được tư tưởng của chúng ta sinh ra, và vì thế, nó bộc lộ một năng lực của tâm hồn
con người vượt qua mọi thước đo của các giác quan. “Điều này cho thấy rõ rằng: Tính cao cả đích
47


Tiêu Thị Mỹ Hồng

thực phải được đi tìm ở trong tâm thức của chủ thể phán đốn, chứ khơng phải ở nơi đối tượng tự
nhiên” [4;123].

Để cảm nhận được cái Cao cả toán học, người ta cần đạt tới sự thống hội tức là nhận thức
sự vật một cách toàn vẹn nhất ngay tại một thời điểm cụ thể. Và vì thế người ta khơng nên đến q
gần mà cũng không nên đứng quá xa các kim tự tháp mới có thể cảm nhận trọn vẹn sự rung động
trước sự vĩ đại của chúng. Bởi vì trong trường hợp sau, những bộ phận đã được lĩnh hội (những
khối đá chồng lên nhau) chỉ được hình dung mơ hồ và biểu tượng về chúng khơng gây tác động
nào lên phán đốn thẩm mĩ của chủ thể. Còn trong trường hợp trước, mắt ta cần một ít thời gian
để hồn tất việc lĩnh hội từ đáy lên đến đỉnh, nhưng trong khoảng thời gian này, các điều được lĩnh
hội đầu tiên bao giờ cũng mất đi một phần trước khi trí tưởng tượng tiếp thu được điều sau cùng,
và như thế, sự thống hội khơng bao giờ hồn tất được.
Cảm quan cao cả về uy lực là sức mạnh tinh thần của con người, đó là khả năng bất chấp
mọi khó khăn, thử thách, khắc phục mọi sự sợ hãi. Đó là một lực lượng thắng vượt những trở lực
lớn mà I.Kant gọi là mãnh lực (sức mạnh của tự nhiên). I.Kant cho rằng: “Giới tự nhiên, được xem
như là mãnh lực ở trong phán đốn thẩm mĩ, nhưng khơng có quyền lực thống trị trên ta, chính là
cao cả một cách năng động” [4;128]. Theo ơng, trong phán đốn thẩm mĩ, tự nhiên là cao cả không
phải bởi tự bản thân nó mà bởi nó thức tỉnh sức mạnh lớn lao của con người, nó kêu địi năng lực
ở trong ta, từ đó tạo nên niềm tin cho sức mạnh vượt trội của chính bản thân mình so với tự nhiên.
Nó tạo nên cho con người lòng can đảm, nâng cao sức mạnh tâm hồn vượt qua ranh giới của cái
bình thường. Với quan điểm này, Kant đã khắc phục sự thiếu hụt của Bớc cơ khi chỉ nhìn nhận cái
Đẹp ở mặt khách thể. Thực ra, theo Kant, những hiện tượng cao cả của tự nhiên chẳng qua chỉ là
cái cớ để con người bộc lộ và cảm nhận được sự vĩ đại của chính bản thân mình: “...phát hiện một
năng lực tự đánh giá chính ta nhưng là độc lập với Tự nhiên cũng như một tính ưu việt hơn hẳn Tự
nhiên làm cơ sở cho việc tự bảo tồn chính mình... Nhờ đó, tính người trong nhân cách của ta vẫn
vững vàng, khơng bị hạ nhục” [4;129]. Vì thế, ông cho rằng cái tinh thần ấy là cái quyết định, nó
ưu việt và mạnh mẽ hơn thiên nhiên rất nhiều.
Tuy nhiên, I. Kant cũng khẳng định rằng: “Ai đang trong tình trạng sợ hãi tuyệt nhiên khơng
thể phán đốn về cái Cao cả của Tự nhiên, khơng khác gì kẻ đang bị sự ưa thích và thèm khát chế
ngự khơng thể phán đốn về cái Đẹp... Tảng đá lơ lửng, lạnh lùng nhô ra đầy hăm dọa, những đám
mây giông kéo đen mịt trời kèm sấm chớp dữ dội, những ngọn núi lửa hung hãn với toàn bộ sức
mạnh hủy diệt, những cơn bão tố để lại cảnh hoang tàn sau lưng chúng, đại dương mênh mông
đang phẫn nộ, thác nước cao ngất của con sông dũng mãnh... đúng là làm cho sức đề kháng của

ta trở nên nhỏ nhoi, bé mọn so với sức mạnh khổng lồ của chúng. Tuy nhiên, hình ảnh của chúng
càng đáng sợ thì lại càng hấp dẫn lơi cuốn ta hơn, miễn là ta đang ở trong tình trạng an tồn, và ta
sẵn sàng gọi các đối tượng này là cao cả, bởi chúng nâng cao sức mạnh tâm hồn nên trên Độ trung
bình thơng thường và cho phép phát hiện ra trong ta một năng lực đề kháng thuộc loại hoàn tồn
khác; năng lực ấy làm cho ta có sự dũng cảm để có thể tự sánh mình với các lực lượng tưởng như
toàn năng của Tự nhiên” [4;128]. Như vậy, dù các hiện tượng tự nhiên có mang trong mình sức
mạnh hủy diệt, nhưng nếu được bảo vệ tức được an tồn chiêm ngưỡng thì chúng đầy hấp dẫn và
nó đưa trí tưởng tượng cũng như sức mạnh của con người vượt qua ranh giới của cái đời thường.
Con người là một bộ phận của Tự nhiên và khi là sản phẩm của tự nhiên con người thấy rõ sự yếu
đuối của bản thân về mặt thể chất, nhưng đồng thời cũng phát hiện ra một năng lực tự đánh giá
chính ta như là độc lập với tự nhiên cũng như một tính ưu việt hơn hẳn tự nhiên, làm cơ sở cho
việc tự bảo tồn chính mình. Lúc đó xuất hiện cảm quan cao cả về uy lực. Và I.Kant cũng đưa ra
48


Imanuen Kant bàn về cái Cao cả

chú ý: Chúng ta khơng bàn về điều gì khác ngồi phán đốn thẩm mĩ thuần túy, do đó, khơng được
vay mượn các ví dụ từ những đối tượng đẹp hay cao cả của Tự nhiên, xét như những đối tượng lấy
khái niệm về một mục đích làm điều kiện tiên quyết. Khơng xem xét những sự vật hiện tượng với
đặc điểm tự nhiên của chúng bởi đó là sản phẩm của phán đốn mục đích luận. Chẳng hạn: Khi
xem xét bầu trời đầy sao là cao cả, ta không được đặt sự đánh giá ấy trên bất kì khái niệm nào
về bầu trời mang tính khoa học, mà phải nhìn bầu trời đầy sao ấy như nó đang xuất hiện ra trước
mắt ta giống như một mái vòm bao trùm tất cả, chỉ như vậy ta mới được phép nói đến tính cao cả
mà phán đoán thẩm mĩ thuần túy gán cho đối tượng này. Nhìn đại dương mênh mơng cũng vậy, ta
khơng nhìn nó với các đặc điểm tự nhiên: Các lồi thủy tộc, lượng nước, tạo khoảng cách địa lí
giữa các châu lục, con đường giao thương... mà cần nhìn nó giống như các nhà thơ đã làm theo ấn
tượng gieo vào mắt họ, như: Một chiếc gương khổng lồ khi thanh bình, như một hố thẳm đe dọa
khi cuồng nộ. Vì thế, “cái Cao cả trong Tự nhiên chỉ là một cách gọi khơng thật đích thực, và thật
ra nó chỉ được gán ghép cho lề lối tư duy hay đúng hơn, cho cơ sở để đi đến lề lối tư duy ở trong

bản tính tự nhiên của con người mà thơi” [4,157].
I.Kant cũng đưa ra sự lí giải của mình cho quan điểm: Nếu sự nguy hiểm khơng thực sự
nghiêm trọng thì tính cao cả của quan năng tinh thần cũng khơng thể thực sự là cao cả. Ơng cho
rằng: Việc ta phải thấy mình được an tồn mới cảm nhận được sự hài lịng có tác dụng nâng cao
tầm hồn tức là đạt đến sự sao cả không làm cho quan niệm về cái Cao cả bị tổn thất. Bởi, sự hài
lòng chỉ liên quan đến sứ mệnh của quan năng tinh thần, trong chừng mực tố chất dẫn đến quan
năng này bắt nguồn từ trong bản tính tự nhiên của ta, còn sự phát triển và tập luyện quan năng ấy
là công việc tự ta phải làm và vẫn mãi mãi là trách nhiệm của riêng ta.
Bàn về chiến tranh, I.Kant cho rằng: Nếu chiến tranh được tiến hành có trật tự và tơn trọng
những quyền thiêng liêng của thường dân thì “vẫn có một cái gì cao cả nơi chính nó” và đồng thời
làm cho cung cách tư duy của quốc gia tiến hành cuộc chiến tranh theo kiểu ấy chỉ càng thêm cao
cả hơn khi bị đặt vào tình cảnh càng có nhiều nguy hiểm phải đương đầu và có thể dũng cảm đứng
vững trước những nguy hiểm ấy. “Ngược lại, một cảnh thái bình kéo dài quá lâu thường tạo điều
kiện cho óc mua bán đơn thuần, và cùng với nó là lịng vị kỉ thấp hèn, tính hèn nhát và nhu nhước
trở thành thống lĩnh và hạ thấp khí độ của quốc gia ấy” [4;130].
Riêng với Thượng đế, I. Kant khẳng định: Con người “quả là điên rồ và tự phụ khi tưởng
tượng ra một tính ưu việt của tâm thức con người vượt lên trên các hành động ấy” (hành động của
Thượng đế). Trong tơn giáo nói chung, “sự khuất phục và khẩn cầu với mái đầu cúi thật thấp đi
kèm với cử chỉ và lời nguyện cầu đầy sợ hãi và sám hối dường như là thái độ duy nhất phù hợp khi
đối diện với thần linh như ta thấy tuyệt đại đa số các dân tộc đều chấp nhận và không ngừng thể
hiện như vậy” [4;131]. Như vậy, theo I. Kant, cái Cao cả nhất thuộc về Thượng đế với mãnh lực
bất khả đề kháng. Tuy nhiên, trước Thượng đế khi con người ở trong tình trạng thực sự run sợ vì
ý thức được rằng mình đang xúc phạm đến Người bằng động cơ bất chính của mình thì khơng thể
ở trong trạng thái tâm thức sẵn sàng để ngưỡng mộ sự vĩ đại của Thượng đế. Và ngược lại, chỉ khi
nào con người ý thức rằng mình đang có động cơ chính trực và làm hài lịng Thượng đế thì những
hành động dữ dội (cơn cuồng phong, bão tố, động đất...) của Ngài mới khơi dậy trong ta Ý niệm
về tính cao cả của Hữu thể thần linh này. Đó là khi con người nhận ra nơi chính mình tính cao cả
của động cơ phù hợp với ý chí của Thượng đế và qua đó nâng mình lên cao hơn nỗi sợ hãi trước
các uy lực của Tự nhiên. Cũng từ sự phân tích này, I. Kant một lần nữa khẳng định: Tính cao cả
khơng được chứa đựng trong bất kì sự vật nào của Tự nhiên mà chỉ ở trong tâm thức của ta, trong

chừng mực ta có thể ý thức rằng mình ưu việt hơn hẳn bản tính tự nhiên trong ta và cả giới Tự
49


Tiêu Thị Mỹ Hồng

nhiên ngoài ta. Thống nhất với I.Kant, Hêghen cũng cho rằng: Thượng đế là biểu hiện thành thục
nhất của tính cao thượng. Tuy nhiên, ơng lại nhấn mạnh: Cái Cao cả là biểu hiện trong diện mạo
nội dung đè nén hình thức. Vận dụng quan niệm này vào phân tích cái Cao cả trong lĩnh vực nghệ
thuật, Hêghen cho rằng nghệ thuật tôn giáo cũng là nghệ thuật cao cả bởi nó gắn với sự chuộc tội,
sự tái sinh và quan trọng hơn bởi trong đó tinh thần vượt qua những hình thức cảm tính, dứt bỏ
khỏi vương quốc của sự hoang dã. Và nghệ thuật lãng mạn cũng là nghệ thuật cao cả, bởi các hoạt
động âm nhạc, hội họa, thơ ca gần với tinh thần tuyệt đối nhất. Đó là những loại hình nghệ thuật
của tâm hồn, của tình yêu gắn với sự khắc khổ, hi sinh và sự sám hối. Đó là nơi mà hiện tượng với
tính cách là vỏ bề ngồi chỉ dừng lại ở mức độ thấp, ý nghĩa luôn vượt xa ngồi mọi giới hạn của
hiện tượng, khơng thể phân tích hết ý nghĩa của cái Cao cả nếu chỉ dựa vào hiện tượng bề ngồi,
đây chính là biểu hiện của cái tính thần vượt lên trên cái vật chất. Như vậy, nếu I.Kant tập trung
vào chủ thể thẩm mĩ, Hê ghen lại đi sâu nghiên cứu vấn đề nghệ thuật biểu đạt... Đối lập với quan
niệm của cả Kant và Hêghen, Nicolai Garilơvích Tsécnưsepxki đã xác lập con đường mới - con
đường tìm cái Đẹp, cái Cao cả từ chính trong cuộc sống chứ không từ xúc cảm của chủ thể hay từ
một tinh thần tuyệt đối nào.
Bên cạnh việc khẳng định tính hợp lí và tiến bộ vượt bậc của I.Kant so với các nhà mĩ học
trước đó khi nhấn mạnh vai trị của chủ thể thẩm mĩ thì các nhà mĩ học mác xít cũng chỉ ra những
hạn chế của ơng trong việc giải thích bản chất của cái Cao cả. Xuất phát từ thực tiễn lịch sử phát
triển của xã hội: Từ chính q trình đấu tranh chinh phục các hiện tượng tự nhiên, chống lại các
lực lượng phản tiến bộ trong xã hội, các nhà mĩ học mác xít khẳng định rằng: Cái Cao cả là bản
chất riêng của con người và con người vĩ đại, cao quý hơn nhiều so với bản chất tưởng tượng của
mọi thần linh. Cái Cao cả nhất trong tự nhiên, trong xã hội là hoạt động lao động và sáng tạo của
con người. Là sản phẩm của tự nhiên, của q trình tiến hóa nhưng chính con người đã dám tách
mình, nhìn vào tự nhiên, chinh phục và bắt khơng ít hiện tượng tự nhiên phục vụ cho nhu cầu của

cuộc sống. Và vì thế, khi các hiện tượng tự nhiên được đặt vào trong phạm trù cái Cao cả chẳng
qua cũng chính vì ở đó hoặc bộc lộ sức mạnh của con người hoặc đang khơi dậy khơng ít khả năng
tiềm tàng, ẩn dấu.

2.2.

Mối quan hệ giữa cái Cao cả và cái Đẹp

I.Kant cho rằng cái Cao cả vừa thống nhất, vừa khác biệt với cái Đẹp. Trong bài 23 Bước
chuyển từ quan năng phán đoán về cái Đẹp sang quan năng phán đốn về cái Cao cả ơng khẳng
định: Đối với cái Đẹp của tự nhiên, ta phải đi tìm một cơ sở ở bên ngồi ta, cịn đối với cái Cao cả
thì chỉ đơn thuần ở trong ta và trong lề lối tư duy của tâm thức đưa tính cao cả vào trong hình dung
của ta về tự nhiên. Cái Đẹp là cái có hình thức, tình cảm cao cả là quan niệm của lí tính khơng có
hình thức cảm tính nào chứa đựng được. Nếu cái Đẹp được đặc trưng ở chất thì cái Cao cả được
đặc trưng ở lượng: “Cái Đẹp ở trong Tự nhiên liên quan đến hình thức của đối tượng trong tính hữu
hạn, còn ngược lại, cái Cao cả được nhận ra ngay cả nơi một đối tượng vơ-hình thức, trong chừng
mực tính khơng bị giới hạn được hình dung ra nơi nó hoặc do nó gợi nên, cộng thêm sự suy tưởng
về tính tồn thể của tính chất này nữa. Theo đó, cái Đẹp dường như được xem là sự thể hiện một
khái niệm bất định của giác tính, cịn cái Cao cả thể hiện một khái niệm [Ý niệm] cũng bất định
nhưng của lí tính” [4;115].
Xét về mặt cảm xúc: Cái Đẹp trùng hợp với cái Cao cả ở chỗ cả hai đều làm hài lịng trên
cơ sở của chính mình. Cả hai đều khơng lấy một phán đốn của giác quan lẫn một phán đốn xác
định có tính lơgic làm điều kiện tiên quyết, mà là một phán đoán phản tư. Cảm giác đẹp mang tính
50


Imanuen Kant bàn về cái Cao cả

khoan khối vơ tư; khối cảm cao cả mang tính tơn kính. Cái Đẹp mang lại khối cảm hình thức;
cái Cao cả là khối cảm sâu lắng tâm linh và thấm nhuần quan niệm về tính phù hợp với mục đích

cao hơn. Trạng thái tình cảm đẹp thường êm ả, yên tĩnh, nghỉ ngơi; còn tâm linh về sự cao cả sau
khi khắc phục sự sợ hãi thì rung động mạnh mẽ. Ơng cho rằng: “Sự hài lòng với cái Đẹp gắn liền
với biểu tượng về chất, còn cái Cao cả với biểu tượng về lượng. Sự hài lòng đối với hai cái cũng
khác nhau về loại. Nếu cái trước (cái Đẹp) trực tiếp mang theo một xúc cảm bổ trợ cho sự sống
và vì thế, có thể hợp nhất được với các kích thích hấp dẫn và với một trí tưởng tượng “chơi đùa”
[tự do], thì cái sau (cái Cao cả) là một sự vui sướng chỉ nảy sinh gián tiếp, nghĩa là, sự vui sướng
được tạo ra bởi một xúc cảm kìm hãm sức sống trong phút giây rồi mới lập tức để cho sức sống
tuôn trào càng mạnh mẽ hơn nữa; và như thế là một sự kích động dường như khơng phải để “chơi
đùa” mà là cái gì nghiêm trọng trong cơng việc của trí tưởng tượng. Vì thế, cái Cao cả cũng khơng
hợp nhất được với các kích thích hấp dẫn; và bởi tâm thức không chỉ được đối tượng lơi cuốn mà
cịn khơng ngừng bị nó làm cho ghê sợ, nên sự hài lòng đối với cái Cao cả khơng chứa đựng sự vui
sướng tích cực chủ động (positiv) cho bằng sự ngưỡng mộ hay tơn kính, tức là, xứng đáng với tên
gọi là sự vui sướng bị động, tiêu cực (negativ)” [4;112]. Ở bài 25 hài lòng trước cái Cao cả khơng
phải là một sự hài lịng nơi đối tượng (vì đối tượng này có thể là vơ hình thức), khác hẳn với trường
hợp hài lịng với cái Đẹp, là nơi năng lực phán đoán phản tự tìm thấy chính mình ăn khớp một cách
hợp mục đích trong quan hệ với nhận thức nói chung, cịn đây là sự hài lịng trước việc mở rộng
bản thân trí tưởng tượng. Như vậy, I.Kant đã nhấn mạnh: Sự phán đốn về cái Đẹp hướng vào đối
tượng có tính hữu hạn, cịn cái Cao cả hướng vào đối tượng có tính vơ hạn. Trong khi quan sát cái
Đẹp thì sự hứng thú gắn với biểu tượng chất lượng, còn cái Cao cả, hứng thú gắn với biểu tượng
có tính số lượng. Ngay bản thân nhà mĩ học duy vật Nga Tsecnưsepxki cũng cho rằng: Cái Đẹp và
cái Cao cả là những khái niệm hồn tồn khác nhau, khơng có mối liên hệ nội tại nào. Bởi cái Cao
cả là một khái niệm về căn bản có tính số lượng, khác với cái Đẹp vốn có tính chất lượng.
Cụ thể hơn trong vấn đề này, I.Kant nhấn manh: Cảm xúc về cái Cao cả không xuất hiện
như nhau ở tất cả chủ thể thẩm mĩ, tình cảm ấy chỉ có ở những con người có sự rèn luyện về đức
hạnh. Muốn có phán đốn cao cả nhất thiết phải có năng lực nhận thức và năng lực thực hiện phán
đoán thẩm mĩ. Bản thân cái Cao cả mang đến nhiều cung bậc cảm xúc, ở đó có sự pha trộn giữa
thích thú và sợ hãi. Những người có năng lực nhận thức, năng lực phán đốn cao và có đức hạnh sẽ
nhanh chóng vượt qua sự sợ hãi, vươn lên, chiếm lĩnh hiện tượng và tràn ngập trong sự thích thú.
Ngược lại, con người sẽ cảm thấy mình vơ cùng nhỏ bé và đáng thương. I. Kant viết: Trong giới
tự nhiên có vơ số sự vật đẹp đẽ mà ta có thể địi hỏi cũng như chờ đợi sự nhất trí của mọi người khơng q cách xa với phán đốn của ta về sự vật ấy. Nhưng đối với phán đốn của ta về cái Cao

cả lại khó có thể hi vọng một sự chấp nhận dễ dàng như thế ở mọi người. Bởi ở đây chủ thể cần “có
một trình độ đào luyện” cao hơn nhiều khơng chỉ về năng lực phán đoán thẩm mĩ mà cả về năng
lực nhận thức làm nền tảng. Những yếu tố đó sẽ cho phép ta có khả năng đưa ra một phán đoán về
đặc điểm cao cấp này của những đối tượng tự nhiên. Tuy nhiên, ở đây ông cũng nhấn mạnh, sự đào
luyện văn hóa là điều cần có để phán đốn về cái Cao cả của Tự nhiên khơng có nghĩa rằng cái Cao
cả là sản phẩm do văn hóa tạo ra và được đưa vào trong xã hội theo kiểu đơn thuần quy ước, trái
lại, cái Cao cả có cơ sở trong bản tính tự nhiên của con người. Đây chính là cơ sở cho tính tất yếu
của sự tán đồng giữa phán đoán của những người khác về cái Cao cả và phán đoán của riêng ta.
Thực tế cho thấy rằng, việc đồng nhất hay đối lập cái Cao cả với cái Đẹp đều là phiến diện.
Hai phạm trù này vừa có nét gần gũi, tương đồng lại vừa có điểm khác biệt. Cũng cho rằng giữa
hai phạm trù này có điểm tương đồng, nhưng điểm này theo I.Kant lại chỉ là: Cả hai đều làm hài
51


Tiêu Thị Mỹ Hồng

lịng trên cơ sở của chính mình, cả hai đều khơng lấy một phán đốn của giác quan lẫn một phán
đốn xác định có tính lơgic làm điều kiện tiên quyết, mà là một phán đoán phản tư. Khắc phục
những hạn chế đó, mĩ học mác xít khẳng định: So với các phạm trù thẩm mĩ khác, cái Cao cả có
quan hệ gần gũi nhất với cái Đẹp vì giữa chúng có quan hệ bản chất, chúng xuyên thấm lẫn nhau.
Nền tảng của cái Cao cả là cái Đẹp, đều phản ánh những hiện tượng thẩm mĩ tích cực, góp phần
thúc đẩy sự phát triển của xã hội, do đó phù hợp với lí tưởng thẩm mĩ tiên tiến. Bởi thế, cả hai cùng
gợi lên những cảm xúc thẩm mĩ tích cực, khiến con người thấy phấn khởi, u thích khi tiếp xúc
với nó. Chúng đều có phạm vi biểu hiện trong tự nhiên và đời sống con người. Cái Đẹp trong con
người được nhấn mạnh từ nội tâm đến ngoại hình, cái Cao cả lại gắn chủ yếu với vẻ đẹp tâm hồn.
Một con người, một hành động được gọi là cao cả vì trước hết nó đẹp. Cái xấu dù to lớn đến đâu
cũng khơng bao giờ là cao cả.

3.


Kết luận

Như vậy, xuất phát từ lập trường triết học duy tâm chủ quan, Kant không tìm cơ sở của cái
Cao cả trong giới tự nhiên và hiện thực khách quan mà chỉ tìm trong thế giới tinh thần của con
người. Tuy nhiên, mĩ học của ơng đã góp phần khẳng định vai trị, vị trí vô cùng quan trọng của
chủ thể thẩm mĩ trong quan hệ với đối tượng thẩm mĩ. Đánh giá triết học Kant, W.Durant - nhà
nghiên cứu người Mĩ viết: Chưa có một hệ tư tưởng nào thống trị cả một thời đại như mĩ học I.Kant
đã từng thống trị trong tư tưởng thế kỉ XIX. Sau gần 60 năm hoạt động lặng lẽ, biệt lập, người dân
Xcốtlen dị thường cổ quái của thành Kenixbec đã đánh thức cả thế giới ra khỏi cơn mê ngủ giáo
điều, vào năm 1781, với tác phẩm thời danh Phê phán lí tính thuần túy và từ năm ấy đến sau đó
“triết học phê phán” đã thống trị cả Châu Âu duy lí.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
[2]
[3]
[4]

Nguyễn Trọng Chuẩn (Chủ biên), 1997. I. Can tơ người sáng lập nền triết học cổ điển Đức.
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006. Triết học cổ điển Đức: Những vấn đề nhận thức luận và đạo
đức học. Kỉ yếu Hội thảo Quốc tế. Nxb Chính trị Quốc gia. Hà Nội.
Đỗ Huy, Vũ Trọng Dung (Đồng chủ biên). 2011.Giáo trình Đại cương về những khuynh
hướng cơ bản trong lịch sử Mĩ học. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Immanuel Kant (Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải), 2006. Phê phán năng lực phán đoán.
Nxb Tri thức, Hà Nội.
ABSTRACT
Immanuel Kant and the Sublime

Immanuel Kant (1724-1804) was a German philosopher and estheticians who made a
considerable contribution to the development of 18th Century esthetic thought. Critique of

Judgment is one of his outstanding works in which he discussed a variety of esthetic issues
including the sublime. Kant believed that the sublime is a projection of an attitude which is
completely subjective, and not objective, existing on the basis of esthetic subjective emotions.
Only when man feels secure can he feel the greatness of nature.
52



×