Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Tăng cường hoạt động dạy nghề trong trường đại học Sư phạm Hà Nội - Giải pháp quan trọng nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.17 KB, 8 trang )

JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE

Educational Sci., 2014, Vol. 59, No. 6A, pp. 80-87
This paper is available online at

TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG DẠY NGHỀ TRONG TRƯỜNG
ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI - GIẢI PHÁP QUAN TRỌNG
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN

Trương Thị Bích
Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội

Tóm tắt. Từ nền tảng lí luận của khoa học sư phạm/khoa học giáo dục, bài viết đã
nêu lên một số vấn đề về thực trạng hoạt động đào tạo nghề trong trường đại học
sư phạm (ĐHSP) Hà Nội: chương trình đào tạo nghề chưa hợp lí; thời lượng dành
cho đào tạo nghề cịn ít; các hoạt động dạy lí thuyết, tổ chức thực hành nghề cho
SV chưa đạt hiệu quả,. . . Từ đó, đề xuất các biện pháp nhằm tăng cường hoạt động
này trong quá trình đào tạo giáo viên: Xây dựng lại chương trình; cân đối lại thời
lượng đào tạo nghề; tăng cường thực hành nghề cho sinh viên,. . . Nếu được triển
khai tốt, các biện pháp này sẽ góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng
đào tạo giáo viên trong trường ĐHSP Hà Nội, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.
Từ khóa: Hoạt động dạy nghề, thực hành nghề, đào tạo giáo viên.

1.

Mở đầu

Kết quả nghiên cứu lí luận và thực tiễn trong và ngồi nước đã khẳng định: Chất
lượng giáo viên quyết định chất lượng giáo dục. Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
chính là yếu tố căn bản đổi mới giáo dục Việt Nam trong bối cảnh hiện tại. Cũng cần
khẳng định lại quan niệm: Dạy học là một nghề và là một nghề đặc biệt vì nó liên quan


đến việc xây dựng con người. Với quan niệm này, việc triển khai, tăng cường đầu tư dạy
nghề trong trường sư phạm nói chung và trường ĐHSP Hà Nội nói riêng sẽ là giải pháp
quan trọng nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên. Trên cơ sở nhận thức sâu sắc vấn đề,
bài viết tập trung nghiên cứu các nội dung: Thực trạng đào tạo nghề và những giải pháp
nâng cao chất lượng đào tạo nghề trong trường ĐHSP Hà Nội.

Liên hệ: Trương Thị Bích, e-mail:

80


Tăng cường hoạt động dạy nghề trong Trường Đại học Sư phạm Hà Nội...

2.

Nội dung nghiên cứu

2.1.

Một số vấn đề về thực trạng đào tạo nghề ở Trường ĐHSP Hà Nội

Có thể khái quát các nội dung và hoạt động đào tạo nghề ở Trường ĐHSP Hà Nội
như sau:
- Các mơn Tâm lí học, Giáo dục học, Lí luận dạy học bộ môn.
- Tuần lễ rèn luyện nghiệp vụ sư phạm.
- Chương trình rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên (cả 4 năm): 15 tiết.
- Kiến tập sư phạm.
- Thực tập sư phạm đợt 1.
- Thực tập sư phạm đợt 2.
a) Các mơn Tâm lí học và Giáo dục học

Hai môn học này làm nên đặc trưng nghề nghiệp của trường ĐHSP. Xét về mặt lí
thuyết, nó có vai trị hết sức quan trọng trong việc hình thành và phát triển năng lực nghề
cho sinh viên (SV). Môn Giáo dục học nhằm trang bị cho SV năng lực dạy học, năng lực
giáo dục, năng lực tổ chức và quản lí. Mơn Tâm lí học giúp SV hiểu và nắm được đặc
điểm tâm lí lứa tuổi của học sinh phổ thơng, các giá trị tâm lí,. . . Nếu tổ chức dạy học tốt,
hai mơn học này sẽ góp phần đáng kể trong việc hình thành và rèn luyện cho SV sư phạm
các năng lực nghề cần thiết, đủ tự tin xuống trường PT thực tập sư phạm và là hành trang
cần thiết để hành nghề dạy học sau khi tốt nghiệp ra trường. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố
khách quan và chủ quan, hiệu quả của hai môn học này thực tế còn chưa được như mong
muốn.
Qua đợt khảo sát, điều tra SV năm thứ 4 ĐHSP Hà Nội (các Khoa Tốn, Vật lí, Hóa
học, Sinh học, Lịch sử, Ngữ văn, Sư phạm kĩ thuật, Tiếng Anh vào tháng 3/2012 - phục
vụ đề tài KH và CN cấp trường [4]). Kết quả như sau:
Bảng 1. Về tính thiết thực của bộ mơn Tâm lí học và Giáo dục học
Mơn học
Thiết thực
Rất thiết thực Khơng thiết thực Bình thường
- Tâm lí học
2
6,7%
0
0%
6
20%
22
73%
- Giáo dục học
Bảng 2. Về tính hiệu quả của bộ mơn Tâm lí học và Giáo dục học
Mơn học
Hiệu quả

Bình thường
Khơng hiệu quả
- Tâm lí học
0
0%
22
74%
8
26%
- Giáo dục học
Kết quả trên cho thấy SV sư phạm đánh giá về tầm quan trọng, ý nghĩa cũng như
hiệu quả của hai mơn học Tâm lí học và Giáo dục học không cao. Khoảng 20% cho là
không thiết thực, 26% cho là khơng hiệu quả, tới 74% cho là bình thường. Bình thường ở
81


Trương Thị Bích

đây có nghĩa là có cũng được mà khơng có cũng được. Hiệu quả là 0%, thiết thực là 6,7%.
Đây là kết quả không đáng mong đợi cho các giảng viên giảng dạy mơn Tâm lí học và
Giáo dục học.
Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến kết quả này, có 18/30 ý kiến cho rằng do nội dung
dạy học không gắn với thực tế giáo dục - dạy học ở trường phổ thông (PT), 24/30 ý kiến
cho rằng hai môn học đã được học quá lâu và không thường xuyên được nhắc lại nên
chóng quên. 28/30 ý kiến cho rằng do thời lượng thực hành kĩ năng quá ít, 18/30 ý kiến
cho rằng mơn học q nặng về lí thuyết, cần rút bớt.
Theo kết quả của một số công trình nghiên cứu, nội dung chương trình giảng dạy
hai mảng Tâm lí học và Giáo dục học ở các khoa, trường ĐHSP hiện nay chưa đáp ứng
yêu cầu Chuẩn nghề nghiệp giáo viên (GV). Ở hầu hết các khoa, trường ĐHSP, việc giảng
dạy và học tập NVSP tập trung chủ yếu vào mảng Lí luận dạy học bộ mơn, tức chủ yếu tập

trung chuẩn bị cho sinh viên kĩ năng giảng dạy một môn học cụ thể; thiếu quan tâm chuẩn
bị các kĩ năng sư phạm khác. Mục tiêu, nội dung chương trình giảng dạy Tâm lí học và
Giáo dục học được xác định bấy lâu nay thường thiên về kiến thức thơng báo, thiếu kiến
thức quy trình; nặng tính hàn lâm, chưa phản ánh kịp thời sự biến đổi của thực tiễn giáo
dục và đào tạo nên khó đáp ứng các yêu cầu rèn nghề sư phạm. Trong thực tế giảng dạy,
tỉ lệ số tiết thực hành trên số tiết lí thuyết rất thấp. Thói quen thụ động trong học tập sư
phạm đã trở thành nét tâm lí phổ biến khiến cho việc áp dụng các phương pháp dạy học
tích cực cho phù hợp với yêu cầu đào tạo mới trở nên khó khăn.
b) Mơn Lí luận dạy học bộ môn
Với môn học này, khi được phỏng vấn [4], đa số SV cho rằng việc trang bị kiến thức
về lí luận dạy học của mơn chun ngành là khá tốt. Tuy nhiên, việc triển khai các phương
pháp dạy học cụ thể cịn nặng về lí thuyết, nhẹ tính thực hành. Đây là ngun nhân chính
dẫn đến tình trạng SV xuống trường PT thực tập còn bộc lộ nhiều sự non nớt, hạn chế cả
về các kĩ năng dạy học, giáo dục, cả về kĩ năng sống, kinh nghiệm giao tiếp với các đối
tượng HS, GV, phụ huynh, các tổ chức trong và ngoài nhà trường.
c) Tuần lễ rèn luyện nghiệp vụ sư phạm (NCSP)
Đây là một hoạt động thường niên của Trường. Hàng năm, vào dịp 20/11, nhà trường
tổ chức tuần lễ rèn luyện NVSP kết hợp với Hội thi NVSP giỏi giữa các Khoa. Thời gian
dành cho hoạt động này là 10 tiết. Với SV năm thứ nhất, có 4 tiết lí thuyết và 6 tiết thực
hành. Đối với SV năm thứ 2, 3, 4 tập trung rèn luyện các kĩ năng, khơng dạy lí thuyết.
Nội dung thi NVSP cấp trường bao gồm kĩ năng dạy học và kĩ năng giáo dục. Thực
tế, các cuộc tranh tài giữa các Khoa đã làm nên những mùa thi sôi nổi, làm khuấy động
khơng khí NVSP trong tồn trường dù chỉ trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, vì trong thời
gian ngắn nên nội dung thi tuy có đủ cả dạy học và giáo dục vẫn cịn rất nghèo nàn. Và dù
khơng khí NVSP có được khuấy động thì mọi hoạt động cũng vẫn chỉ dừng ở một cuộc
thi. Tác dụng lâu dài cho mỗi SV trong quá trình rèn luyện NVSP chưa nhiều. Hơn nữa, vì
là cuộc thi nên số lượng SV tham gia rất ít. Những SV được chọn tham gia tranh tài đã là
82



Tăng cường hoạt động dạy nghề trong Trường Đại học Sư phạm Hà Nội...

những SV ưu tú, năng động và đã tích lũy được ít nhiều những kĩ năng sư phạm. Số đơng
SV may mắn thì được một đơi lần được lên giảng thử trước nhóm, lớp.
Kết quả điều tra [4] cho thấy hầu hết SV đều ý thức được vai trò, tác dụng của tuần
lễ rèn luyện NVSP. Trong đó, giúp SV (năm thứ nhất) có được hình dung ban đầu về nghề
dạy học và tăng cường các kĩ năng dạy học - giáo dục chiếm tỉ lệ cao (53%).
Tuy nhiên, hoạt động triển khai tuần lễ rèn luyện NVSP chưa đạt hiệu quả như
mong muốn. Số liệu khảo sát cho thấy hầu hết SV đều đồng ý với những hạn chế của hoạt
động này: Tới 87% SV cho rằng số lượng SV được tham gia ít, cịn mang tính chất hội thi,
phong trào. 67% cho rằng cách quản lí, cách đánh giá SV chưa chặt chẽ, hợp lí, 40% cho
rằng cách tổ chức còn đơn điệu. 20% cho rằng nội dung chưa phong phú và thiết thực. Khi
được phỏng vấn, rất nhiều SV khẳng định mục đích chủ yếu của tuần lễ rèn luyện NVSP
là để giúp SV yêu nghề hơn. Có nghĩa là giá trị tinh thần (yêu nghề) lớn hơn giá trị vật
chất (rèn các kĩ năng sư phạm). Thực tế này cũng là những gợi ý để các Khoa, Ban tổ chức
Hội thi Trường các năm học sau có những biện pháp tích cực và hợp lí để điều chỉnh.
e) Thực tập sư phạm
Đây là thời điểm SV xuống trường phổ thông (PT) để thực hành, vận dụng những
tri thức nghiệp vụ đã được học ở trường SP vào hoạt động dạy học và giáo dục. Các kĩ
năng dạy học và giáo dục của SV được rèn luyện chủ yếu trong thời gian này. Hoạt động
rèn luyện nghiệp vụ sư phạm của SV ĐHSP Hà Nội tập trung vào hai kì thực tập sư phạm.
Đợt 1, vào kì II năm thứ 3; đợt 2, vào kì 2 năm thứ 4. Tuy nhiên, hoạt động này vẫn cịn
nhiều bất cập. Rất nhiều cơng trình nghiên cứu [1, 2, 3, 4] đã khẳng định về những bất
cập này. Thứ nhất, thời gian dành cho hoạt động này cịn ít. Thứ hai, các kiến thức đào
tạo nghề giữa trường SP và trường PT đang còn những vênh, lệch đáng kể, tạo ra khơng ít
khó khăn cho SV khi vận dụng kiến thức đã được học vào thực tiễn dạy học và giáo dục.
Nguyên nhân: hoặc cách dạy của giảng viên SP chưa sát với thực tế dạy học ở trường PT
hoặc trường PT chưa chấp nhận những đổi mới mà SV tiếp thu được ở trường SP.
g) Một số vấn đề khác
- Cấu trúc giữa giảng dạy lí thuyết và thực hành chưa cân đối.

- Mối liên hệ giữa các môn học không được xác lập (các môn Tâm lí học, Giáo dục
học, Phương pháp dạy học bộ mơn khơng có mối liên hệ, giảng viên dạy theo kinh nghiệm
cá nhân).
- Còn quá chú trọng đến khoa học cơ bản và chuyên ngành.
- Công tác đào tạo nghề thường chỉ chú trọng tập trung vào những năm cuối. Trong
khi để có năng lực nghề, SV cần phải được rèn luyện ngay từ khi bước chân vào trường
SP.
- Còn coi nhẹ công tác kiểm tra, đánh giá hoạt động đào tạo nghề.
- Chưa có sự gắn kết chặt chẽ với trường PT.
Với thực tế đã và đang diễn ra, sản phẩm của hoạt động đào tạo nghề trong trường
83


Trương Thị Bích

SP thường là những SV biết và giỏi “bắt chước” chứ chưa được đào tạo bài bản, thiếu khả
năng vận dụng, sáng tạo, chủ động.

2.2.

Một số biện pháp tăng cường đào tạo nghề trong Trường ĐHSP
Hà Nội

Giáo dục ý thức, định hướng nghề nghiệp cho SV ngay từ năm thứ nhất
Khi đăng kí vào học trường SP, SV phải ý thức được rằng họ cần học tập và rèn
luyện để trở thành những người giáo viên trong tương lai. Bởi vậy, bản thân họ phải nhận
thức được đầy đủ ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác đào tạo nghiệp vụ sư phạm trong
quá trình học tập và vì vậy họ cần phải chủ động, tự giác tự học và tham gia các hoạt động
về nghiệp vụ sư phạm. Chính vì vậy, việc định hướng cho SV hiểu về nghề dạy học và
hiểu rõ nội dung, chương trình mà bản thân họ phải rèn luyện để trở thành người giáo viên

có năng lực sau này là hết sức quan trọng và thiết thực trong trường SP. Có nhiều cách
để định hướng nghề nghiệp cho SV: Thứ nhất, qua các tiết học trên lớp. Thứ hai, tổ chức
các buổi trao đổi, thảo luận, nói chuyện về nghề dạy học. Thứ ba, tổ chức cho SV xuống
trường PT để giao lưu, tìm hiểu, tham gia các hoạt động với các nhóm, lớp học sinh. Thực
tế này có thể giúp SV từ chỗ hiểu về đặc trưng và công việc của nghề giáo dẫn đến yêu
quý và gắn bó với nghề. Và là động lực để SV nỗ lực hơn trong q trình phấn đấu trở
thành giáo viên giỏi.
Các mơn học cung cấp tri thức sư phạm cần được gắn kết chặt chẽ với hoạt
động rèn luyện các kĩ năng sư phạm
Các mơn Tâm lí học, Giáo dục học, Phương pháp dạy học bộ môn được xem là
những môn học cung cấp tri thức sư phạm cho SV. Điều đó cũng có nghĩa là chúng có
mối quan hệ mật thiết với việc hình thành các kĩ năng sư phạm. SV sẽ vận dụng các kiến
thức SP này để xử lí các tình huống giáo dục cụ thể. Từ đó sẽ làm giàu thêm vốn liếng
NVSP của mình. Muốn thực hiện được nhiệm vụ này, nội dung của các môn học phải rất
sát với thực tiễn dạy học - giáo dục ở PT; Q trình giảng dạy mơn học phải theo sát các
hoạt động thực hành SP, hoạt động kiến tập, thực tập ở trường PT. Chính vì vậy, điều quan
trọng cần làm để khắc phục tình trạng này là:
- Thứ nhất, giảng viên các bộ mơn Tâm lí học, Giáo dục học cần theo sát nhiệm vụ
rèn luyện NVSP của SV để đổi mới nội dung và phương pháp dạy học cho thiết thực và
hiệu quả.
- Thứ hai, các nhà đào tạo, các nhà nghiên cứu xây dựng khung chương trình đào
tạo và phát triển giáo viên trong trường SP phải sắp xếp thời gian cũng như thời lượng
giảng dạy của các môn học này sao cho phù hợp và hiệu quả với các hoạt động rèn luyện
kĩ năng SP (về dung lượng kiến thức, về thời điểm triển khai).
- Thứ ba, bộ môn Phương pháp dạy học cũng phải căn cứ vào thực tiễn dạy học ở
trường PT để xây dựng các chuyên đề mang tính thiết thực rèn luyện NVSP cho SV. Ví
dụ: tham khảo mẫu soạn giáo án của giáo viên PT, trình tự lên lớp, cách hướng dẫn HS
84



Tăng cường hoạt động dạy nghề trong Trường Đại học Sư phạm Hà Nội...

học bài, thu thập các tình huống giáo dục từ giáo viên chủ nhiệm để hướng dẫn SV tập xử
lí,. . . Nên tăng cường các chuyên đề mang tính thực hành, bớt các chuyên đề nặng tính lí
thuyết, hàn lâm.
Giảng viên bộ mơn Phương pháp dạy học nên trực tiếp dự giờ giáo viên PT, và tốt
hơn nữa nếu giảng viên có tham gia giảng dạy tại trường PT.
Cần kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo về khoa học cơ bản và khoa học giáo dục
Nội dung đào tạo giáo viên thường có hai mảng lớn: Khoa học cơ bản và khoa học
giáo dục. Hai mảng này hỗ trợ cho nhau, hướng vào việc hình thành ở người học trình
độ chun mơn - nghiệp vụ. Thực tế, đào tạo cơ bản chỉ mới nhằm mục đích tự nó. SV
được cung cấp rất nhiều kiến thức chuyên ngành nhưng không được chỉ ra cách sử dụng
những kiến thức ấy như thế nào trong trường PT. Ngược lại, đào tạo nghiệp vụ cũng tách
rời đào tạo chuyên môn. Giảng viên bộ môn Phương pháp dạy học chưa thật sự gắn với
kiến thức các môn học, các hoạt động mà SV phải dạy hoặc tham gia ở trường PT sau này.
Vì vậy, phải tích hợp đào tạo chun mơn với đào tạo nghiệp vụ, làm cho hai mảng này trở
thành một thể thống nhất. Đào tạo chuyên môn phải đảm bảo tính nghiệp vụ, ngược lại,
đào tạo nghiệp vụ phải đồng thời và trên nền của đào tạo chuyên môn. Rất cần huy động
lực lượng dạy các môn khoa học cơ bản tham gia tích cực vào việc đào tạo nghiệp vụ sư
phạm cho SV.
Phải tăng cường thực hành cho SV
Trường SP là cơ sở đào tạo nghề dạy học, không chỉ và không phải đơn thuần là cơ
sở nghiên cứu. Vì vậy, phải tổ chức cho SV tiếp cận được với các đối tượng giáo dục càng
sớm càng tốt.
Một số biện pháp để tăng cường tính thực hành cho SV:
- Tổ chức cho SV xuống các trường PT sớm hơn, ngay từ năm thứ nhất. Có thể
khơng cần tổ chức quy mô như các đợt kiến tập, thực tập mà định hướng cho các khoa,
từ các khoa triển khai cho các lớp cụ thể về việc đăng kí kết nghĩa với các trường PT gần
trường SP; làm việc với Ban Giám hiệu các trường PT cho SV về trường tham gia làm
công tác chủ nhiệm, tham gia dự giờ, sinh hoạt với nhóm, tổ chun mơn; tất nhiên là

chưa cho SV tham gia dạy thử trên đối tượng HS; khơng đặt ra vấn đề có giáo viên hướng
dẫn. Các hoạt động này không cần phải nhận xét, đánh giá, cho điểm, chỉ cần SV báo cáo
diễn biến và kết quả cơng việc hoặc đưa ra các tình huống giáo dục mà mình gặp để nhóm,
tổ SV cùng tham gia xử lí, rút kinh nghiệm. Tất cả các hoạt động này để các nhóm SV
chủ động sắp xếp thời gian, không ảnh hưởng đến việc học các môn học khác. Điều này
hồn tồn có thể thực hiện được vì SV thông thường chỉ phải lên lớp một buổi trong ngày.
Các đợt đi xuống các trường PT như thế có thể không cần quy định ngày kết thúc. Ngày
kết thúc phụ thuộc vào ý định của nhóm SV, phụ thuộc vào thỏa thuận giữa giáo viên chủ
nhiệm và SV, giảng viên phụ trách nắm tình hình thơng qua nhóm trưởng SV.
- Tại trường SP, nên phân SV thành các nhóm nhỏ hoặc vẫn duy trì các nhóm tham
gia sinh hoạt ở trường PT. Giảng viên tùy vào nội dung môn mình phụ trách để đưa ra các
85


Trương Thị Bích

vấn đề, các tình huống hoặc tổ chức cho SV nghĩ ra các vấn đề, các tình huống khác để
suy nghĩ tìm ra các phương án giải quyết. Các vấn đề, các tình huống có thể là việc khai
thác sách giáo khoa như thế nào cho hợp lí. Là cách trình bày bảng thế nào cho khoa học.
Diễn đạt trước một tập thể làm sao cho khỏi lúng túng, nói năng thế nào cho lưu lốt, xử
lí một em học sinh có thái độ vơ lễ thì phải như thế nào? v.v. . . Sang đến năm thứ ba, thứ
tư có thể tổ chức cho SV tập giảng, chọn SV ưu tú để giảng mẫu, giảng viên giảng mẫu,
nhóm, tổ góp ý xây dựng, rút kinh nghiệm.
Chuẩn bị kĩ cho SV ngay từ năm thứ nhất như thế chắc chắn đến các đợt KT, TT ở
những năm sau, SV sẽ bớt lúng túng, bỡ ngỡ; thậm chí cịn phát huy tính chủ động, sáng
tạo trong cơng tác giảng dạy cũng như công tác chủ nhiệm và các hoạt động giáo dục khác
tại trường PT.
Phải xây dựng được chương trình đào tạo nghề mang tính đặc thù cho từng
Khoa và Bộ mơn
Trong trường sư phạm, mỗi Khoa có một đặc thù riêng về mơn chun ngành.

Ngồi việc thực hiện theo nội dung các văn bản chỉ đạo chung của trường, các Khoa nên
chủ động xây dựng chương trình về đào tạo nghề cho SV. Chương trình phải cụ thể và chi
tiết: Kế hoạch đào tạo từng năm, từng học phần, học phần trước có mối liên kết như thế
nào với học phần tiếp theo; cần phải rèn luyện những kĩ năng dạy học hay giáo dục nào.
Bên cạnh chương trình “cứng”, cũng nên linh hoạt lên kế hoạch tổ chức bồi dưỡng cho
giảng viên tổ phương pháp dạy học về NVSP; tạo điều kiện cho giảng viên trẻ tham gia
dạy học tại trường PT; tổ chức các cuộc giao lưu, hội thảo khoa học, trao đổi kinh nghiệm
dạy học giữa giáo viên PT với giảng viên sư phạm; mời giáo viên giỏi từ trường PT tham
gia tập huấn cho SV chuẩn bị xuống trường PT thực tập,. . . Thiết nghĩ, muốn thực hiện
được điều này, nhà trường phải có định hướng chỉ đạo các Khoa xây dựng chương trình và
phải có sự giám sát, quản lí trong q trình thực hiện.
Phải xây dựng được phịng rèn luyện NVSP đủ tiêu chuẩn
Phịng NVSP là mơi trường, là khơng gian để SV rèn luyện, thực hành các kĩ năng
đã được tiếp thu lí thuyết. Mỗi Khoa tối thiểu phải có một phịng NVSP. Ở đây có hai điều
kiện: Có phịng rèn luyện NVSP và phòng rèn luyện NVSP phải đảm bảo tiêu chuẩn. Học
lí thuyết, SV có thể học chung một lớp đông. Nhưng triển khai thực hành, chắc chắn phải
chia thành các nhóm nhỏ. Điều kiện thực hành cũng khác so với trên lớp học lí thuyết.
Nếu như học lí thuyết, giảng viên có thể chỉ cần bảng, bút hoặc phấn, cùng lắm nữa là
máy chiếu, màn hình. Nhưng trong phịng NVSP, ngồi những điều kiện tối thiểu trên,
phải cần thêm: máy móc (máy tính, máy chiếu, trang thiết bị nghe nhìn,. . . ); đồ dùng thí
nghiệm, đồ dùng rèn luyện kĩ năng (đàn, đồ dùng vẽ, thiết bị thí nghiệm,. . . ); máy ảnh,
máy quay, ghi băng hình, camera,. . . hồ sơ, sổ sách, tư liệu, tài liệu tham khảo, bản đồ,
sách giáo khoa, sách giáo viên,. . . Quan sát phòng NVSP đủ tiêu chuẩn với các trang thiết
bị cần thiết, cho người dạy, người học cảm giác hưng phấn, sẵn sàng cho việc dạy - học có
hiệu quả.
86


Tăng cường hoạt động dạy nghề trong Trường Đại học Sư phạm Hà Nội...


3.

Kết luận

Trong trường sư phạm, một khi đã xác định dạy học là một nghề thì đương nhiên
phải đầu tư cho việc đào tạo nghề. Bài viết đã nêu lên một số vấn đề về thực trạng hoạt
động đào tạo nghề trong Trường ĐHSP Hà Nội. Từ đó, đề xuất một số biện pháp nhằm
tăng cường hoạt động này trong q trình đào tạo giáo viên. Có thể, bức tranh thực trạng
cũng như các biện pháp đưa ra chưa đầy đủ và bao quát nhưng chắc chắn sẽ có tác dụng
trong việc thực hiện triển khai hoạt động đào tạo nghề trong Trường ĐHSP Hà Nội nói
riêng và các Khoa, Trường sư phạm nói chung, góp phần đưa chất lượng đào tạo giáo viên
trong nước ngang tầm với khu vực và thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Phạm Xuân Hậu, 2010. Vài nét về nâng cao chất lượng nghiệp vụ sư phạm cho sinh
viên các trường sư phạm trong thời kì hội nhập. Kỉ yếu Hội thảo khoa học Nâng cao
chất lượng nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên các trường Đại học Sư phạm.
[2] Phạm Văn Chín, 2010. Thực trạng và một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Kỉ yếu Hội thảo
khoa học Nâng cao chất lượng nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên các trường đại học sư
phạm.
[3] Phạm Minh Hùng, 2009. Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên - thực trạng và
giải pháp. Tạp chí Giáo dục, số 211.
[4] Trương Thị Bích. Nghiên cứu thực hiện hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường
xuyên tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Đề tài KH và CN cấp trường. MS: SP11-86.
ABSTRACT
Enhancing professional training activities at Hanoi National University of
Education to improve the quality of teacher training
From a theoretical background of pedagogic and educational science, the article
illustrates some problems in vocational training at the National Pedagogic University –
Hanoi, that is, inappropriate vocational curriculum, lack of practice time, and ineffective

theoretical and practical activities for students. A list of ways to enhance teacher education
quality is proposed which includes curriculum innovation, a balance of training time and
increased practical training. If they were well implemented, these solutions would probably make a great contribution in enhancing the quality of teacher training at National
Pedagogic University - Hanoi.

87



×